Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer bloch, 1790) giống kích cỡ 5–10 cm ương trong bể Composite

Tóm tắt: Thí nghiệm nhằm xác định ảnh hưởng của mật độ ương đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của

cá chẽm kích cỡ 5–10 cm. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức tương ứng

3 mật độ ương 500, 700 và 900 con/m3 với 3 lần lặp lại. Kết quả cho thấy cá ương ở mật độ thấp hơn (500

con/m3) có tốc độ tăng trưởng về khối lượng, chiều dài và tỷ lệ sống đến 60 ngày nuôi cao hơn cá nuôi ở

các mật độ cao (700 và 900 con/m3). Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của cá nuôi ở mật độ 500 con/m3 cao

hơn ở hai mật độ còn lại.

Từ khoá: cá chẽm, lợi nhuận, mật độ ương, sinh trưởng, tỷ lệ sống

pdf 10 trang Bích Ngọc 05/01/2024 2420
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer bloch, 1790) giống kích cỡ 5–10 cm ương trong bể Composite", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer bloch, 1790) giống kích cỡ 5–10 cm ương trong bể Composite

Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer bloch, 1790) giống kích cỡ 5–10 cm ương trong bể Composite
 Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ISSN 2588–1191 
Tập 127, Số 3A, 2018, Tr. 151–160; DOI: 10.26459/hueuni-jard.v127i3A.4373 
* Liên hệ: nguyenduyquynhtram@huaf.edu.vn 
Nhận bài: 24–7–2017; Hoàn thành phản biện: 31–08–2017; Ngày nhận đăng: 31–08–2017 
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ NUÔI ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ 
TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ CHẼM (LATES CALCARIFER BLOCH, 1790) 
GIỐNG KÍCH CỠ 5–10 cm ƯƠNG TRONG BỂ COMPOSITE 
Nguyễn Duy Quỳnh Trâm*, Nguyễn Khoa Huy Sơn 
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế, 102 Phùng Hưng, Huế, Việt Nam 
Tóm tắt: Thí nghiệm nhằm xác định ảnh hưởng của mật độ ương đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của 
cá chẽm kích cỡ 5–10 cm. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức tương ứng 
3 mật độ ương 500, 700 và 900 con/m3 với 3 lần lặp lại. Kết quả cho thấy cá ương ở mật độ thấp hơn (500 
con/m3) có tốc độ tăng trưởng về khối lượng, chiều dài và tỷ lệ sống đến 60 ngày nuôi cao hơn cá nuôi ở 
các mật độ cao (700 và 900 con/m3). Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của cá nuôi ở mật độ 500 con/m3 cao 
hơn ở hai mật độ còn lại. 
Từ khoá: cá chẽm, lợi nhuận, mật độ ương, sinh trưởng, tỷ lệ sống 
1 Đặt vấn đề 
Cá chẽm (Latescalcarifer Bloch, 1790) là loài cá có giá trị kinh tế quan trọng ở vùng nhiệt 
đới và cận nhiệt đới thuộc châu Á – Thái Bình Dương. Với đặc tính dễ nuôi và thời gian sinh 
trưởng ngắn, sau 1 năm thả nuôi cá giống cỡ 4–5 cm, cá có thể đạt khối lượng 1,5–3 kg. Hơn 
nữa, thịt cá chẽm thơm ngon, giá thành cao nên loài này được nuôi ở nhiều nước khác nhau 
trên thế giới như Malaysia, Australia, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam [1, 3]. 
Ở tỉnh Thừa Thiên Huế, hai năm trở lại đây số người nuôi cá chẽm tăng. Người dân đã 
bước đầu nuôi cá chẽm ở một số địa phương thuộc khu vực phía Bắc phá Tam Giang 
(Điền Hương, Điền Hải, Phong Hải, Phong Chương, Quảng Công, Hải Dương...) với hai 
hình thức nuôi chủ yếu là nuôi ao và nuôi lồng. Các ao nuôi tại địa phương có diện tích 
trung bình 1.000–3.000 m2, mật độ nuôi 1–3 con/m2, kích cỡ giống thả l–3 cm [2]. 
Hiện nay, cá chẽm giống chỉ được sản xuất chủ yếu ở miền Nam như Vũng Tàu; Nam 
Trung Bộ như Nha Trang, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận; còn tại miền Trung nông 
dân chưa chủ động được nguồn giống trong quá trình ương nuôi mà phải mua giống từ các nơi 
khác về cho nên việc chủ động về con giống đang gặp không ít khó khăn. Vì vậy, con giống 
đang là một vấn đề hết sức quan trọng ảnh hưởng đến việc nuôi đối tượng này. Quá trình ương 
cá giống có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả như thức ăn, các yếu tố môi trường, mật độ 
ương nuôi, trong đó mật độ ương nuôi là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng và 
tỷ lệ sống của cá giống [5, 6, 11]. Chính vì vậy, nghiên cứu tìm ra mật độ ương nuôi thích hợp 
Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Nguyễn Khoa Duy Sơn Tập 127, Số 3A, 2018 
152 
cho mỗi giai đoạn cá giống có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình ương 
cá chẽm giống. 
2 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 
2.1 Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu về sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) có kích 
cỡ 5–10 cm tại Trung tâm nghiên cứu Thủy sản Phú Thuận thuộc trường Đại học Nông Lâm, 
Đại học Huế từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017. 
2.2 Bố trí thí nghiệm 
Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức, tương ứng với 3 mật độ khác nhau, mỗi nghiệm thức 
được lặp lại 3 lần và được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn. Mật độ ương ở nghiệm thức 1 
là 500 con/m3 (M500), nghiệm thức 2 là 700 con/m3 (M700) và nghiệm thức 3 là 900 con/m3 
(M900). Cá có khối lượng ban đầu 2,72 g/con được nuôi trong các bể composite có thể tích 10 m3 
có gắn vòi sục khí. 
Thức ăn và nuôi dưỡng: cá chẽm giống được cho ăn thức ăn NUTRILIS C của hãng 
OCIALIS Việt nam có hàm lượng đạm thô 52 %, kích cỡ hạt 3 mm, và hàng ngày cho ăn 10 % 
trọng lượng thân cá, mỗi ngày cho ăn 2 lần. 
2.3 Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 
Xác định các yếu tố môi trường 
Trong quá trình ương chúng tôi đã xác định một số yếu tố môi trường như nhiệt độ nước, pH, 
độ kiềm, độ mặn, oxy hòa tan và hàm lượng ammoniac bằng các dụng cụ chuyên dùng, thời 
gian và chu kỳ đo được trình bày ở Bảng 1. 
Bảng 1. Các yếu tố môi trường và cách xác định 
STT Yếu tố môi trường Thời gian đo Chu kỳ đo 
1 Nhiệt độ (°C) 7–8h và 14–15h Hàng ngày 
2 pH 7–8h và 14–15h Hàng ngày 
3 Độ kiềm (mg CaCO3/L) 7–8h 5 ngày/lần 
4 Độ mặn (‰) 7–8h 5 ngày/lần 
5 Oxy hòa tan (mg/L) 7–8h và 14–15h Hàng ngày 
6 Hàm lượng NH3-N (mg/L) 7–8h 5 ngày/lần 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
153 
Xác định tốc độ sinh trưởng 
Để xác định tốc độ sinh trưởng (khối lượng và chiều dài) của cá chẽm, tiến hành thu mẫu 
ở tất cả các bể với số lượng 30 con/bể với định kỳ 15 ngày một lần. 
Tốc độ tăng trưởng theo ngày về khối lượng - DWG (g/ngày) và chiều dài DLG 
(cm/ngày) cũng như tốc độ tăng trưởng tuyệt đối – W (%) và L (%) tương ứng đã được tính toán 
theo các phương pháp thường quy. 
 + DWG (g/ngày) 
trong đó W1 là khối lượng trung bình của cá tại thời điểm T1; W2 là khối lượng trung bình của cá 
tại thời điểm T2; T1, T2 là thời điểm cân cá. 
+ DLG (cm/ngày) 
trong đó L1 là chiều dài trung bình của cá tại thời điểm T1; L2 là chiều dài trung bình của cá tại 
thời điểm T2 ; T1, T2 là thời điểm đo cá. 
+ W (%) 
trong đó W1 là khối lượng trung bình của cá tại thời điểm T1 ; W2 là khối lượng trung bình của cá 
tại thời điểm T2. 
+ L (%) 
trong đó L1 là chiều dài trung bình của cá tại thời điểm T1 ; L2 là chiều dài trung bình của cá tại 
thời điểm T2. 
Xác định tỷ lệ sống của cá sau 60 ngày ương nuôi 
Tỷ lệ sống của cá là tỷ số giữa cá thả ban đầu so với số cá còn lại sau 60 ngày nuôi. 
Hạch toán kinh tế 
Hạch toán sơ bộ thông qua chỉ tiêu cân đối thu chi. Phần thu từ bán cá giống thời điểm 
bán (5.000 đồng/con) và phần chi gồm con giống giá thời điểm mua (2.500 đồng/con), thức ăn 
(50.000 đồng/kg), khấu hao, lao động, chuẩn bị ao nuôi, điện nước 
2.4 Phương pháp xử lí số liệu 
Số liệu thu thập được quản lý trên phần mềm Microsoft Excel 2007 và xử lý thống kê 
bằng phần mềm SPSS 20.0. So sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức theo phương pháp phân 
tích ANOVA một nhân tố với phép thử Tukey với độ tin cậy 95 %. 
Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Nguyễn Khoa Duy Sơn Tập 127, Số 3A, 2018 
154 
3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
3.1 Diễn biến các yếu tố môi trường trong các bể ương cá chẽm 
Kết quả theo dõi về biến động các yếu tố môi trường được trình bày ở Bảng 2. 
Bảng 2. Diễn biến các yếu tố môi trường ở các nghiệm thức* 
Nghiệm thức 
Yếu tố 
M500 M700 M900 
pH 
Sáng 
Chiều 
DO (mg/L) 
Sáng 
Chiều 
Độ mặn (‰) 
Nhiệt độ 
(°C) 
Sáng 
Chiều 
NH3 (mg/L) 
Độ kiềm (mg CaCO3/L) 
*Hàng trên là giá trị thấp nhất và cao nhất; Hàng dưới là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn 
Các giá trị có cùng ký tự a không sai khác thống kê (p > 0,05) 
Số liệu ở Bảng 2 cho thấy không có sự sai khác về các chỉ tiêu môi trường trong 60 ngày 
ương nuôi cá chẽm giữa các nghiệm thức (p > 0,05). Giá trị pH dao động trong khoảng 7,4–7,43 
vào buổi sáng và 7,43–7,5 vào buổi chiều. Hàm lượng oxy hoà tan (DO) trong nước ổn định 
3,87–3,97 mg/l vào buổi sáng và 5,53–5,83 mg/l vào buổi chiều. Nhiệt độ trung bình cả buổi sáng 
và chiều là 23 °C. Trong suốt quá trình nuôi, độ mặn ở các nghiệm thức ổn định trong khoảng 
28,7–28,8 ‰. Tương tự, N-NH3 và độ kiềm cũng ổn định với các giá trị tương ứng 0,1 mg/L và 
81 mg CaCO3/L. Giá trị của các chỉ số này nằm trong giới hạn cho phép đối với cá chẽm [6]. 
Theo các tác giả, DO thích hợp cho cá chẽm sinh trưởng là 4–8 mg/L và nhiệt độ thích hợp là 
26–32 °C. Ngoài ra, các chỉ tiêu chất lượng nước cũng nằm trong giới hạn khuyến cáo của [8] 
đối với cá chẽm châu Á. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
155 
3.2 Ảnh hưởng của mật độ ương đến sinh trưởng của cá chẽm 
Ảnh hưởng của mật độ ương đến khối lượng của cá chẽm 
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng (g/con) và tốc độ tăng trưởng theo ngày về 
khối lượng DWG (g/con/ngày) của cá được trình bày ở Bảng 3. 
Bảng 3. Khối lượng và tốc độ tăng trưởng khối lượng của cá chẽm nuôi ở các mật độ khác nhau (M ± σ) 
Ngày ương 
Nghiệm thức 
M500 M700 M900 
Khối lượng (g/con) 
Ban đầu 2,72 ± 0,03 2,73 ± 0,02 2,72 ± 0,02 
15 4,45 ± 0,29b* 4,00 ± 0,11a 3,87 ± 0,11a 
30 6,72 ± 0,24b 6,08 ± 0,15a 5,70 ± 0,18a 
45 9,60 ± 0,13c 9,01 ± 0,16b 8,61 ± 0,27a 
60 11,7 ± 0,32b 10,69 ± 0,45a 10,24 ± 0,23a 
Tốc độ tăng trưởng khối lượng (g/con/ngày) 
Ban đầu–15 0,11 ± 0,012b 0,08 ± 0,003a 0,08 ± 0,007a 
15–30 0,15 ± 0,006b 0,14 ± 0,006a 0,12 ± 0,006a 
30–45 0,20 ± 0,007 0,20 ± 0,009 0,20 ± 0,018 
45–60 0,14 ± 0,006 0,11 ± 0,019 0,11 ± 0,003 
* Các giá trị có các kí tự (a, b, c) trên cùng hàng khác nhau thể hiện sự sai khác thống kê (p < 0,05) 
Khối lượng của cá chẽm có sự sai khác thống kê sau 15 ngày nuôi đến kết thúc thí 
nghiệm giữa các nghiệm thức (p < 0,05). Đến 30 ngày nuôi, khối lượng cá ở M500 cao hơn ở 2 
nghiệm thức còn lại (p 0,05). Sau 30 
ngày nuôi, sự sai khác về khối lượng thể hiện khác nhau rõ rệt. Ở 45 ngày nuôi, khối lượng cá ở 
M500 cao nhất và thấp nhất ở M900 (p < 0,05). Ở thời điểm kết thúc, khối lượng cá ở M700 và 
M900 không sai khác thống kê và thấp hơn ở M500. 
Tốc độ tăng trưởng khối lượng (g/con/ngày) khác nhau của cá ở các nghiệm thức chỉ 
quan sát được đến 30 ngày nuôi (p 0,05). Từ 
ban đầu đến 30 ngày, sự tăng khối lượng của cá ở M700 và M900 không sai khác và thấp hơn ở 
M500 có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, từ 45 đến 60 ngày, sự tăng khối lượng của cá ở các mật độ 
nuôi không sai khác có ý nghĩa, dao động trong khoảng 0,11–0,14 g/ngày ở 60 ngày. 
Một số nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng ương cá chẽm với mật độ thấp thì khả năng 
phát triển về khối lượng cao hơn so với ương với mật độ cao [9, 13]. 
Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Nguyễn Khoa Duy Sơn Tập 127, Số 3A, 2018 
156 
Suresh Kumar Mojjada và cộng sự (2013) cho biết sự tăng khối lượng của cá chẽm dao 
động trong khoảng 0,16–0,38 g/ngày và giảm theo chiều tăng mật độ độ nuôi. Các tác giả cũng 
cho biết tốc độ tăng trưởng đặc trưng (Specific growth rate, SGR) giảm 4,51–4,41 ở mật độ 1000 
con/m3, 6,36–5,39 ở mật độ 1500 con/m3 và 7,11–6,89 ở mật độ 2000 con/m3 sau 90 ngày nuôi 
[11]. 
Ảnh hưởng của mật độ ương đến chiều dài của cá chẽm 
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài (cm) và tốc độ tăng trưởng theo ngày về chiều 
dài DLG (cm/ngày) của cá được trình bày ở Bảng 4. 
Bảng 4. Chiều dài và tốc độ tăng chiều dài của cá chẽm ở các mật độ khác nhau (M ± σ) 
Ngày ương 
Nghiệm thức 
M500 M700 M900 
Chiều dài (cm) 
Ban đầu 4,97 ± 0,06 4,97 ± 0,06 4,93 ± 0,06 
15 6,77 ± 0,06c* 6,57 ± 0,12b 6,37 ± 0,06a 
30 8,07 ± 0,12c 7,70 ± 0,17b 7,34 ± 0,06a 
45 9,33 ± 0,06c 8,97 ± 0,06b 8,47 ± 0,15a 
60 10,9 ± 0,12c 9,97 ± 0,25b 9,57 ± 0,15a 
Tốc độ tăng trưởng chiều dài (cm/ngày) 
Ban đầu–15 0,12 ± 0,006b 0,11 ± 0,012a 0,10 ± 0,006a 
15–30 0,09 ± 0,006b 0,08 ± 0,012a 0,07 ± 0,012a 
30–45 0,09 ± 0,006 0,08 ± 0,006 0,08 ± 0,006 
45–60 0,08 ± 0,006 0,08 ± 0,006 0,06 ± 0,020 
* Các kí tự (a, b, c) trên cùng hàng khác nhau thể hiện sự sai khác thống kê (p < 0,05) 
Sự sai khác về chiều dài có ý nghĩa thống kê trong các đợt theo dõi. Chiều dài của cá nuôi 
ở M500 lớn nhất kể từ 15 ngày nuôi đến kết thúc thí nghiệm, trong khi ở M900 cá có chiều dài 
nhỏ nhất. Tốc độ tăng chiều dài sai khác có ý nghĩa thống kê đến 30 ngày nuôi (p < 0,05); từ 30 
đến 60 ngày nuôi, không có sự sai khác thống kê giữa các nghiệm thức (p > 0,05). Trong giai 
đoạn ban đầu đến 30 ngày nuôi, tốc độ tăng chiều dài ở M500 lớn hơn ở M700 và M900. 
3.3 Ảnh hưởng của mật độ ương đến tỷ lệ sống của cá chẽm 
Sự khác nhau về tỷ lệ sống có thể do chế độ chăm sóc quản lý, thức ăn sử dụng nhưng 
phần lớn do mật độ ương. Tỷ lệ sống liên quan đến không gian sống, nhu cầu dinh dưỡng, mùi 
vị của thức ăn cũng như khả năng kháng bệnh trong môi trường bể ương. Cá chẽm là loài sống 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
157 
theo bầy đàn nên dễ dẫn đến sự phân hoá giữa các cá thể trong đàn (sự chệnh lệch về khối 
lượng, chiều dài của các cá thể trong cùng một bể ương). Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ 
sống tích lũy của đàn cá trong bể ương. Do đây là loài vận động mạnh nên không thể tiến hành 
thu cá để xác định tỷ lệ sống qua từng giai đoạn mà chỉ có thể đánh giá chính xác tỷ lệ sống 
trong các công thức thí nghiệm vào cuối mỗi vụ ương. 
Qua quá trình theo dõi, tỷ lệ sống của cá chẽm ở các mật độ ương nuôi trình bày ở Bảng 
5. 
Bảng 5. Tỷ lệ sống của cá chẽm sau 60 ngày (M ± σ) 
Nghiệm thức M500 M700 M900 
Tỷ lệ sống (%) 99,0 ± 0,006c 86,0 ± 0,023b 73,0 ± 0,015a 
*Các giá trị có các kí tự a, b, c trên cùng hàng khác nhau thể hiện sự sai khác thống kê (p < 0,05) 
Tỷ lệ sống của cá chẽm sau 60 ngày nuôi có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ 
lệ sống cao nhất ở M500 và thấp nhất ở M900. Như vậy, tăng mật độ nuôi đồng nghĩa với giảm 
tỷ lệ sống của cá. 
Kailasam và cs. (2002) [4] thông báo rằng tỷ lệ sống của cá chẽm 65 % ở mật độ 20 và 
30 con/L, và cao hơn ở các mật độ thấp. Các tác giả cho rằng cá chẽm giống là loài ăn thịt và tạp 
ăn và các cá thể phát triển rất nhanh trong giai đoạn ấu trùng. Tỷ lệ sống giảm nhanh chóng 
chủ yếu do ăn thịt đồng loại. Nhiều tác giả cho rằng nuôi cá chẽm trong điều kiện có kiểm soát 
dẫn đến sự cạnh tranh giữa các cá thể về thức ăn và không gian sống dẫn đến tốc độ sinh 
trưởng không giống nhau và ăn thịt đồng loại [7, 10]. 
Tuy nhiên, một nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ sống cao khi nuôi ở mật độ cao [11]. 
Mojjada và cs. (2013) cho thấy tỷ lệ sống của cá chẽm không sai khác thống kê (dao động trong 
khoảng 97,6–98,7 %) khi nuôi với các mật độ 1000, 1500 và 2000 con/m3 đến 30 ngày, nhưng đến 
90 ngày, tỷ lệ sống của cá ở mật độ 1000 con/m3 thấp nhất. 
3.4 Hiệu quả kinh tế của các nghiệm thức 
Sau khi kết thúc thí nghiệm, cá đã được bán với giá 5.000 đồng/con. Trong quá trình thí 
nghiệm, các chi phí đã được ghi chép. Số liệu ở Bảng 6 cho biết lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận 
của cá chẽm nuôi ở các mật độ khác nhau. 
Giá trị thu tuyệt đối ở M900 cao hơn ở M700 và M500, trong khi giá trị chi thấp ở M500. 
Chênh lệch thu chi cao nhất ở M500 và thấp nhất ở M900. Lợi nhuận ở M900 chỉ bằng 42,7 % so 
với ở M500 và tỷ suất lợi nhuận ở M500 gấp 3,1 lần so với ở M900. Về kinh tế, ương nuôi cá 
chẽm giống với mật độ thấp sẽ có lợi nhuận cao hơn nuôi mật độ cao. 
Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Nguyễn Khoa Duy Sơn Tập 127, Số 3A, 2018 
158 
Bảng 6. Chênh lệch thu chi ở các nghiệm thức (1.000 đồng) 
Chỉ tiêu M500 M700 M900 
Thu 24.750 30.100 32.850 
Chi 19.593 25.286 30.646 
Chênh lệch (+; – )* 
Tỷ lệ % so với M500 
+5.157 
100 
+4.814 
 93,3 
+2.204 
 42,7 
Lợi nhuận (1000 đồng/10 m3) 5.156 4.813 2.203 
Tỷ suất lợi nhuận (%) 6,94 5,33 2,23 
4 Kết luận 
Mật độ ương đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng (khối lượng và chiều dài) của cá 
chẽm, cá ương ở mật độ thấp cho kết quả tăng trưởng nhanh hơn. Tương tự, tỷ lệ sống của cá 
đạt cao nhất khi ương ở mật độ thấp và tỷ suất lợi nhuận càng cao khi ương cá ở mật độ càng 
thấp. 
Tài liệu tham khảo 
1. Hoàng Tùng, Lưu Thế Phương, Huỳnh Kim Khánh (2007), Thử nghiệm ương cá chẽm 
(Lates calcarifer Bloch, 1790) hương lên giống bằng mương nổi đặt trong ao đất, Tạp chí khoa 
học – Công nghệ Thủy Sản số 01/2007, 12–18. 
2. Sở Thủy Sản Thừa Thiên Huế, 5/1995, Tổng quan phát triển kinh tế thủy sản Thừa Thiên 
Huế 1995–2010. 
3. Buendia, R. (1997), Seabass grow-out and marketing: lessons from Australia, Malaysia and 
Thailand, SEAFDEC Asian Aquaculture 19, 27–28. 
4. Kailasam, M., Thirunavukkarasu, A.R., Abraham, M. and Kishore, P. (2002), Influence of 
size variation and feeding on cannibalism of Asian seabass Lates calcarifer (Bloch) during 
hatchery rearing phase, Indian Jourrnal of Fisheries, 49 (2), 107–113. 
5. Khamis và Hanafi (1995), Effects of photoperiod on growth, survival and feeding 
periodicity of larval and juvenile barramundi Lates calcarifer (Bloch), Aquaculture 138, 159–
168. 
6. Kungvankij P., Pudadera, B.J, Tiro L.B., Potestas I.O., Tookwinas S., Ruangpan L. (1994), 
Sinh học và kỹ thuật nuôi cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790), Nguyễn Thanh Phương 
dịch. Nxb. Nông nghiệp Hà Nội. 
7. Mackinnon, M.R. (1985), Barramundi breeding and culture in Thailand, Queensland Dept of 
Primary Indus, Study Tour Report, 1–21 June, 1982, Songkla, Thailand. 
8. Rimmer, M.A. and Russell, D.L. (1998), Aspects of the biology and culture of Latescalcarifer, 
In: De Silava, S.S. (ed) Tropical Marineculture, Academic Press, USA., 449–476. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
159 
9. Salama, A.J., (2007), Effects of Stocking Density on Fry Survival and Growth of Asian Sea 
Bass (Lates calcarifer), Journal of Marine Science, 18, 53–61. 
10. Sukumaran, K., Thirunavukkarasu, A.R., Kailasam, M., Sundaray, K.J., Subburaj R. and 
Thiagarajan, G. (2011), Effect of stocking density on size heterogeneity and sibling 
cannibalism in Asian seabass Lates calcarifer (Bloch, 1790) larvae. Indian Jourrnal of Fisheries, 
58 (3), 145–147. 
11. Suresh Kumar Mojjada, Biswatjit Dash, Phanuguni Pattnaik, M. Anbarasu and Imelda 
Joseph (2013), Effect of stocking density on growth and survival of hatchery reared fry of 
Asian seabass, Lates calcarfer (Bloch) under captive conditions, Indian Jourrnal of Fisheries, 60 
(1), 71–75. 
12. Suteemechaikul N. and Petchrid S. (1986), Effect of stocking density on survival of seabass 
(Lates calcarifer) larvae. In: Copland, J.W. and Grey, D.L. (Eds), International workshop on 
management of wild and cultured seabass, ACIAR, Australia, 20, 142–143. 
13. Tookwinas, S. (1989), Larviculture of Sea bass and Grouper in Thailand, In: Advances in 
Tropical Aquaculture, Workshop at Tahiti, French Polynesia (20 February–4 March), 645–
660. 
Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Nguyễn Khoa Duy Sơn Tập 127, Số 3A, 2018 
160 
EFFECT OF STOCKING DENSITY ON GROWTH AND 
SURVIVAL RATE OF SEABASS FINGERLINGS (LATES 
CALCARIFER BLOCH, 1790) WITH BODY LENGTH 5–10 cm 
IN COMPOSITE TANK 
Nguyen Duy Quynh Tram*, Nguyen Khoa Huy Son 
HU – University of Agriculture and Forestry, 102 Phung Hung St., Hue, Vietnam 
Abstract: The experiment aimed to determine the effect of the stocking density on the growth and survival 
rate of seabass fingerlings with an average body length of 5–10cm in a composite tank. This experiment 
was conducted using a completely randomized design with 3 treatments and 3 replicates. The stocking 
density was 500, 700 and 900 fingerlings/m3 (denoted as M500, M700 and M900, respectively). The results 
showed that the growth and survival rates at 60 days of fish at treatment M500 were higher than those of 
treatments M700 and M900 (p < 0,05). The profit and profit rate from cultivating at M500 were higher than 
those at M700 and M900. 
Key words: growth rate, profit, seabass fingerling, stocking density, survival rate 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mat_do_nuoi_den_sinh_truong_va_ty_le_song_cua.pdf