Ảnh hưởng của mật độ ương đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) từ giai đoạn cá hương đến cá giống

Tóm tắt: Cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) từ 20 đến 40 ngày tuổi được thử nghiệm ương nuôi với 3 mật độ

khác nhau 1.000 con/m3 (nghiệm thức 1), 1.200 con/m3 (nghiệm thức 2) và 1.400 con/m3 (nghiệm thức 3).

Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại ở mỗi nghiệm thức. Thức ăn được sử dụng ở

giai đoạn này là rotifer dòng nhỏ Brachionus rotundiformis, nauplius Artemia và thức ăn công nghiệp cho tôm

Lansy Post, N0 của Công ty INVE aquaculture. Kết quả cho thấy mật độ ương ảnh hưởng đến sinh trưởng

và tỷ lệ sống của cá dìa từ giai đoạn cá hương đến cá giống. Tốc độ sinh trưởng của cá ở nghiệm thức 1 là lớn

nhất về cả khối lượng lẫn chiều dài, tương ứng là 1,44 g/con và 3,03 cm/con. Tỷ lệ sống sau khi kết thúc thí

nghiệm của các nghiệm thức 1, 2 và 3 lần lượt là 68,9, 67,6 và 58,2 %.

Từ khóa: cá dìa, mật độ ương, siganus guttatus

pdf 10 trang Bích Ngọc 05/01/2024 880
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của mật độ ương đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) từ giai đoạn cá hương đến cá giống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của mật độ ương đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) từ giai đoạn cá hương đến cá giống

Ảnh hưởng của mật độ ương đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) từ giai đoạn cá hương đến cá giống
 Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ISSN 2588–1191 
Tập 127, Số 3A, 2018, Tr. 129–138; DOI: 10.26459/hueuni-jard.v127i3A.4634 
* Liên hệ: nguyenquanglinh@hueuni.edu.vn 
Nhận bài: 05–01–2018; Hoàn thành phản biện: 12–01–2018; Ngày nhận đăng: 16–01–2018 
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ ƯƠNG ĐẾN TỐC ĐỘ 
TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ DÌA Siganus guttatus 
(Bloch, 1787) TỪ GIAI ĐOẠN CÁ HƯƠNG ĐẾN CÁ GIỐNG 
Nguyễn Quang Linh1*, Trần Vinh Phương1, Mạc Như Bình2, Trần Nguyên Ngọc2 
1 Viện công nghệ sinh học, Đại học Huế, Tỉnh Lộ 10, Phú Vang , Thừa Thiên Huế, Việt Nam 
2 Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế, 102 Phùng Hưng, Huế, Việt Nam 
Tóm tắt: Cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) từ 20 đến 40 ngày tuổi được thử nghiệm ương nuôi với 3 mật độ 
khác nhau 1.000 con/m3 (nghiệm thức 1), 1.200 con/m3 (nghiệm thức 2) và 1.400 con/m3 (nghiệm thức 3). 
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại ở mỗi nghiệm thức. Thức ăn được sử dụng ở 
giai đoạn này là rotifer dòng nhỏ Brachionus rotundiformis, nauplius Artemia và thức ăn công nghiệp cho tôm 
Lansy Post, N0 của Công ty INVE aquaculture. Kết quả cho thấy mật độ ương ảnh hưởng đến sinh trưởng 
và tỷ lệ sống của cá dìa từ giai đoạn cá hương đến cá giống. Tốc độ sinh trưởng của cá ở nghiệm thức 1 là lớn 
nhất về cả khối lượng lẫn chiều dài, tương ứng là 1,44 g/con và 3,03 cm/con. Tỷ lệ sống sau khi kết thúc thí 
nghiệm của các nghiệm thức 1, 2 và 3 lần lượt là 68,9, 67,6 và 58,2 %. 
Từ khóa: cá dìa, mật độ ương, siganus guttatus 
1 Đặt vấn đề 
Cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787) là một trong những loài đặc sản của khu vực đầm phá 
Tam Giang – Cầu Hai, Thừa Thiên Huế. Cá dìa có thịt thơm ngon và được thị trường rất ưa chuộng 
nên có giá trị kinh tế cao. Giá bán trên thị trường hiện nay dao động trong khoảng 300.000–400.000 
đồng/kg tuỳ vào kích cỡ cá. Chính vì thế, đối tượng này đang được quan tâm của nhiều ngư dân 
trong cơ cấu nuôi thương phẩm. 
Hiện nay, nguồn giống cá dìa đưa vào nuôi thương phẩm tại Việt Nam chủ yếu được 
thu gom từ tự nhiên và chủ yếu được thu vớt từ các tỉnh Miền Trung (từ Thừa Thiên Huế đến 
Bình Định) vào các tháng tư đến tháng tám âm lịch hàng năm [1]. Tuy nhiên, số lượng giống 
thu vớt được không nhiều và chưa đáp ứng được nhu cầu con giống mỗi năm cho người nuôi. 
Đặc biệt, sau sự cố môi trường biển các tỉnh miền Trung, từ tháng 4/2016 đến nay người dân 
vùng ven biển Quảng Trị và Thừa Thiên Huế không hề thu vớt được giống cá dìa mà nguồn cá 
giống chỉ được thu vớt từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định nên số lượng giống 
ngày càng ít và càng khan hiếm hơn. 
Mật độ nuôi ảnh hưởng đến sinh trưởng, hệ số phân đàn, tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi 
thức ăn của cá dìa giai đoạn giống [3]. Trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu cho thấy việc 
Nguyễn Quang Linh và CS. Tập 127, Số 3A, 2018 
130 
tăng mật độ ương nuôi ảnh hưởng khả năng sử dụng thức ăn hay cá tăng trưởng chậm. Mật độ 
nuôi cao có thể làm cho cá bị stress, làm cá tăng trưởng chậm và giảm hiệu quả sử dụng thức ăn 
[8]. Tương tự, việc tăng mật độ nuôi đối với cá chẽm châu Âu Dicentrarchus labrax cũng làm 
tăng hệ số chuyển đổi thức ăn và cá tăng trưởng chậm [9]. Trong khi đó, ương cá Salvelinus 
alpinus với mật độ 70–250 con/lít lại có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn ương ở mật độ từ 25 đến 
50 con/lít [12]. Điều đó cho thấy từng loài cá khác nhau thích hợp với các mật độ khác nhau, 
thậm chí có những loài cùng trong một họ, nhưng chúng lại có mật độ ương nuôi khác nhau 
[10]. Do vậy, để cá có tốc độ tăng trưởng tốt và tỷ lệ sống cao, ngoài việc tìm kiếm nguồn thức 
ăn phù hợp cho cá qua từng giai đoạn phát triển, thì việc nghiên cứu tìm ra mật độ ương nuôi 
thích hợp của cá dìa cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Chính vì thế ở nghiên cứu này, chúng 
tôi tiến hành thí nghiệm ương nuôi cá dìa từ giai đoạn cá hương đến cá giống với 3 mật độ khác 
nhau để tìm ra mật độ ương nuôi tốt nhất đảm bảo cho cá sinh trưởng tốt và tỷ lệ sống cao. 
2 Vật liệu và phương pháp 
2.1 Vật liệu 
Đối tượng nghiên cứu: Cá dìa Siganus guttatus (Bloch, 1787), từ giai đoạn cá hương đến 
cá giống (cá 20–40 ngày tuổi). Nghiên cứu được tiến hành ở hệ thống bể xi măng có thể tích 
10 m3 tại trại sản xuất giống thuỷ sản Huy Sơn, Phú Thuận, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. 
2.2 Phương pháp 
Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức tương ứng với 3 mật độ: nghiệm thức 
1 – 1.000 con/m3, nghiệm thức 2 – 1.200 con/m3, nghiệm thức 3 – 1.400 con/m3. Mỗi nghiệm thức 
được lặp lại 3 lần và được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn. 
Thức ăn: Từ ngày 20 đến ngày thứ 25 duy trì rotifer dòng nhỏ Brachionus rotundiformis với 
mật độ 10–15 con/mL nước và nauplius Artemia với mật độ 4–6 ấu trùng/mL nước. Cá sau 
25 ngày tuổi được cho ăn thức ăn công nghiệp cho tôm Lansy Post và N0 của Công ty INVE 
aquaculture, ngày 3 lần vào lúc 7 giờ, 14 giờ và 18 giờ với tổng lượng bằng 10 % trọng lượng 
thân và duy trì Artemia trong nước với mật độ 5 ấu trùng/mL nước. 
Xác định các thông số môi trường: Các yếu tố môi trường gồm nhiệt độ nước, pH, 
hàm lượng oxy hòa tan (DO), độ mặn được kiểm tra 2 lần/ngày (buổi sáng lúc 7 giờ và 
buổi chiều lúc 14 giờ). pH, hàm lượng oxy hòa tan và NH3 được đo bằng test kit Sera của Đức. 
Sử dụng khúc xạ kế cầm tay, nhiệt kế để đo độ mặn và nhiệt độ. 
Cân, đo mẫu: Định kỳ 10 ngày tiến hành thu mẫu một lần (tối thiểu 30 con/mẫu) để 
xác định khối lượng và chiều dài của cá thí nghiệm. Khối lượng của cá hương, cá giống được 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
131 
xác định bằng cân điện tử hiệu SHI D , Nhật Bản, có độ chính xác đến 0,01 g. Chiều dài cá 
được đo bằng thước có chia vạch chính xác 1 mm. 
Chế độ quản lý: Thường xuyên theo dõi các thông số môi trường và kiểm tra lượng 
thức ăn trong bể cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng 
của cá, tiến hành thu vớt thức ăn thừa và vệ sinh bể ương. Ngoài ra, hàng ngày thay 30–50 % 
nước trong bể ương để đảm bảo các yếu tố môi trường cho cá sinh trưởng tốt. 
2.3 Các công thức tính 
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lư ng g ngày 
trong đó DWG (Daily weight gain) là tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng; W1 là khối 
lượng trung bình tại thời điểm trước; W2 là khối lượng trung bình tại thời điểm sau; T là thời 
gian giữa 2 lần kiểm tra. 
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều ài cm ngày 
trong đó DLG (Daily length gain) là tốc độ tăng trưởng tuyệt đối chiều dài bình quân; L1 là chiều 
dài trung bình tại thời điểm trước; L2 là chiều dài trung bình tại thời điểm sau; T là thời gian 
giữa 2 lần kiểm tra. 
Tốc độ tăng trưởng tương đối theo chiều ài % 
trong đó LG là tốc độ tăng trưởng tương đối về chiều dài; L1, L2 là chiều dài trung bình của 
cá dìa ở lần đo thứ nhất và thứ hai. 
Tốc độ tăng trưởng tương đối theo khối lư ng (%) 
trong đó WG là tốc độ tăng trưởng tương đối theo khối lượng; W1, W2 là khối lượng trung bình 
của cá dìa ở lần cân thứ nhất và thứ hai. 
Nguyễn Quang Linh và CS. Tập 127, Số 3A, 2018 
132 
Xác định tỷ lệ sống 
Sau khi kết thúc thí nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra số lượng cá còn lại để xác định 
tỷ lệ sống của cá. 
2.4 Xử lý số liệu 
Số liệu thu thập được quản lý trên phần mềm icrosoft Excel 2007 và xử lý thống kê 
bằng phần mềm SPSS 16.0. So sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức theo phương pháp 
phân tích NOV một nhân tố với phép thử LSD với độ tin cậy 95 %. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1 Biến động của các yếu tố môi trường 
Trong nuôi trồng thủy sản thì chất lượng nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng, ảnh 
hưởng lớn đến sự tồn tại, sinh trưởng, phát triển của sinh vật thủy sinh. Mỗi loài thủy sinh vật 
khác nhau sẽ có khả năng thích ứng với các điều kiện môi trường khác nhau nên việc điều 
chỉnh các yếu tố môi trường cho phù hợp với đối tượng là một trong những việc quan trọng 
không thể thiếu trong quá trình tiến hành thí nghiệm. Cụ thể biến động các yếu tố môi trường 
trong quá trình thí nghiệm ương cá dìa từ giai đoạn cá hương lên cá giống được trình bày ở 
bảng 1. 
Bảng 1. Các thông số yếu tố môi trường trong suốt quá trình thí nghiệm 
Yếu tố 
Nghiệm thức 
Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 
 ̅ ̅ ̅ 
pH 
Sáng 7,43a ± 0,03 7,43a ± 0,03 7,40a ± 0,06 
Chiều 7,50a ± 0,06 7,47a ± 0,03 7,43a ± 0,03 
Độ mặn (‰) 28,70a ± 0,06 28,70a ± 0,06 28,80a ± 0,07 
Nhiệt độ (°C) 
Sáng 23,30a ± 0,03 23,30a ± 0,13 23,20a ± 0,16 
Chiều 25,34a ± 0,02 25,35a ± 0,03 25,45a ± 0,02 
NH3 (mg/L) 0,11a ± 0,01 0,10a ± 0,01 0,11a ± 0,01 
DO (mg/L) 5,83a ± 0,03 5,77a ± 0,07 5,53a ± 0,15 
Ghi chú: Trong các Bảng 1–5, ̅ là giá trị trung bình,  là độ lệch chuẩn. Các ký tự a, b, c giống nhau trong 
cùng một hàng thì không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
133 
Nhìn chung, trong quá trình bố thí nghiệm, các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, độ 
mặn, NH3, hàm lượng oxy hòa tan của các công thức thí nghiệm không có sự sai khác về mặt 
thống kê và đều nằm trong ngưỡng thích hợp cho cá dìa sinh trưởng, cụ thể giá trị pH dao 
động trong khoảng 7,40–7,43 vào buổi sáng và 7,43–7,50 vào buổi chiều, nhiệt độ dao động từ 
23,20–25,45 oC. Nhiệt độ thích hợp cho những loài sống trong vùng nước ấm là từ 25–32 oC và 
pH nước thích hợp cho sự phát triển của cá từ 6,5–9,0 [5]. Hàm lượng oxy hoà tan (DO) trong 
nước dao động trong khoảng 5,53–5,83 mg/L. Trong suốt quá trình nuôi, độ mặn ở các nghiệm 
thức thí nghiệm ổn định trong khoảng 28,70–28,8 ‰. Tương tự, NH3 đo được trong suốt quá 
trình thí nghiệm luôn ở mức thấp (0,11 mg/L) và nằm trong khả năng chịu đựng của cá, đảm 
bảo cho cá sinh trưởng và phát triển tốt. Các giá trị chỉ số này nằm trong giới hạn cho phép đối 
với cá dìa [7]. 
3.2 Tăng trưởng của cá 
Khối lư ng 
Tăng trưởng về khối lượng của cá dìa ở các nghiệm thức sau 20 ngày ương (Bảng 2) cho 
thấy khi ương cá ở mật độ càng thấp thì tốc độ tăng trưởng về khối lượng càng nhanh. Ban đầu 
cá tăng trưởng chậm, nhưng sau ngày thứ 30 (tức sau 10 ngày ương) cá có tốc độ tăng trưởng 
rất nhanh về cả chiều dài lẫn khối lượng. Cụ thể, sau 20 ngày ương cá dìa giống ở nghiệm thức 
1, khối lượng cá đạt 1,44 g/con và cao hơn so với khối lượng cá ở 2 nghiệm thức còn lại (nghiệm 
thức 2: 1,19; nghiệm thức 3: 1,12 g/con). Sự sai khác này có ý nghĩa thống kê, trong khi đó giữa 
nghiệm thức 2 và nghiệm thức 3 là không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Ương cá 
dìa giai đoạn giống với mật độ thấp (2–4 con/L) cho kết quả sinh trưởng tốt hơn mật độ cao 
(6–10 con/L) [3]. Tương tự kết quả ương đối với cá Salmo gairdneri khi ương với mật độ thấp 
cũng cho tăng trưởng nhanh hơn mật độ cao [11]. Ngược lại, đối với loài cá Brycon cephalus, 
ương cá giống ở mật độ cao lại cho kết quả tốt hơn mật độ thấp [6]. Cũng như khi ương cá đối 
(Liza subviridis) ở mật độ cao, tốc độ tăng trưởng về khối lượng cao hơn ở mật độ thấp [4]. 
Bảng 2. Khối lượng của cá dìa ở các nghiệm thức (g/con) 
Ngày ương ngày 
Nghiệm thức 
Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 
 ̅ ̅ ̅ 
 20 (ban đầu) 0,16a ± 0,03 0,16a ± 0,03 0,16a ± 0,03 
30 0,40c ± 0,12 0,36ab ± 0,04 0,33a ± 0,05 
40 1,44c ± 0,31 1,19ab ± 0,12 1,12a ± 0,28 
Nguyễn Quang Linh và CS. Tập 127, Số 3A, 2018 
134 
Chiều ài 
Tương tự như khối lượng, chiều dài của cá dìa giai đoạn ương từ cá hương lên cá giống 
sau 20 ngày ương ở các nghiệm thức có sự khác biệt rõ rệt (Bảng 3) (p > 0,05). Nghiệm thức 1 có 
chiều dài trung bình đạt 3,03 cm, lớn hơn các nghiệm thức còn lại (nghiệm thức 2: 2,17; nghiệm 
thức 3: 2,02 cm/con). Sự tăng trưởng về chiều dài của cá trong nghiên cứu này cũng khá tương 
đồng với kết quả của Jonah ở cá dìa sau 45 ngày tuổi (2,14 cm/con) [7]. 
Bảng 3. Chiều dài của cá dìa ở các nghiệm thức (cm/con) 
Ngày ương ngày 
Nghiệm thức 
Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 
 ̅ ̅ ̅ 
20 (ban đầu) 0,66a ± 0,10 0,66a ± 0,10 0,66a ± 0,10 
 30 2,07c ± 0,18 1,88b ± 0,14 1,77a ± 0,11 
 40 3,03c ± 0,38 2,17b ± 0,14 2,02a ± 0,21 
Tốc độ sinh trưởng 
Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của cá (Bảng 4) cho thấy từ giai đoạn cá hương 
đến cá giống, tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng của cá dìa ở nghiệm thức 1 đạt 0,06 g/ngày, 
cao hơn so với nghiệm thức 2 (0,05 g/ngày) và nghiệm thức 3 (0,05 g/ngày), (p < 0,05). Giữa 
nghiệm thức 2 và nghiệm thức 3 là không có sự sai khác (p > 0,05). Tuy nhiên, tốc độ tăng 
trưởng tuyệt đối về chiều dài ở các mật độ ương nuôi khác nhau lại có sự sai khác rõ rệt: 0,12 
cm/ngày ở nghiệm thức 1, cao hơn ở các nghiệm thức còn lại (p < 0,05). Nghiệm thức 3 có tốc độ 
tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài thấp nhất, chỉ đạt 0,07 cm/ngày (p < 0,05). So với kết quả của 
Phan Văn Út và cs.: 0,01 g/ngày và 0,05 cm/ngày khi ương cá dìa giống ở mật độ 2 con/L [3] thì 
kết quả của nghiên cứu này cao hơn. Tốc độ tăng trưởng tương đối của các dìa qua từng giai 
đoạn cũng thể hiện rõ sau 20 ngày ương nuôi ở các nghiệm thức. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng 
tương đối về khối lượng (WG40) ở nghiệm thức 1 (288,68 %) và nghiệm thức 3 (244,89 %) không 
có sự sai khác thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên, đối với tốc độ tăng trưởng tương đối về chiều dài 
(LG40) của cá dìa giống ở nghiệm thức 1 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 45,83 %, cao hơn các 
nghiệm thức còn lại, nghiệm thức 2 (15,92 %) và nghiệm thức 3 (14,62 %); sự sai khác này có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong khi đó, LG40 của nghiệm thức 2 và nghiệm thức 3 không có sự 
sai khác thống kê (p > 0,05). Kết quả này khá phù hợp với nghiên cứu trên cá nâu (Scatophagus 
argus) tại Thừa Thiên Huế: mật độ nuôi càng thấp thì mức tăng tương đối càng cao, mức tăng 
trưởng tương đối tốt nhất ở mật độ 5 con/m3, đạt 458,67 % [2]. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
135 
Bảng 4. Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của cá dìa ở các nghiệm thức 
Chỉ tiêu tăng trưởng 
Nghiệm thức 
Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 
 ̅ ̅ ̅ 
DWG (g/ngày) 0,06b ± 0,02 0,05a ± 0,01 0,05a ± 0,01 
DLG (cm/ngày) 0,12c ± 0,02 0,08b ± 0,01 0,07a ± 0,01 
WG30 (%) 151,51c ± 73,02 128,03ab ± 35,49 107,19a ± 45,26 
LG30 (%) 221,60b ± 60,11 191,68a ± 50,85 174,81a ± 48,84 
WG40 (%) 288,68b ± 136,30 235,91a ± 48,95 244,89ab ± 93,79 
LG40 (%) 45,83b ± 17,68 15,92a ± 10,91 14,62a ± 16,24 
Hình 1. Cá dìa 20 ngày tuổi 
(độ phóng đại x 10) 
Hình 2. Cá dìa 21 ngày tuổi 
(độ phóng đại x 10) 
Hình 3. Cá dìa 40 ngày tuổi 
3.3 Tỷ lệ sống của cá 
 Mật độ ương nuôi cá dìa từ giai đoạn cá hương lên cá giống đóng vai trò quan trọng: 
mật độ ương nuôi liên quan đến không gian sống, khả năng bắt mồi cũng như khả năng kháng 
bệnh trong môi trường bể ương. Tỷ lệ sống của cá dìa sau 20 ngày ương được thể hiện ở Bảng 5. 
Bảng 5. Tỷ lệ sống của cá dìa sau 20 ngày ương 
Nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 
Tỷ lệ sống 68,9b ± 0,03 67,6b ± 0,03 58,2a ± 0,05 
Kết quả tỷ lệ sống của cá dìa sau 20 ngày ương được thể hiện rõ ở bảng 5. Tuy nhiên, kết 
quả không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức 1 và nghiệm thức 2 (p > 0,05). 
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng cá dìa chết nhiều ở những ngày đầu của 
quá trình ương, tức ngày ương thứ 20 (Hình 1) và ngày thứ 21 (Hình 2). Ở giai đoạn trước đó từ 
16 ngày tuổi bắt đầu xuất hiện gai lưng và phát triển hoàn thiện về mặt hình thái ở ngày nuôi 
Nguyễn Quang Linh và CS. Tập 127, Số 3A, 2018 
136 
thứ 20; sau giai đoạn này cá bắt mồi chậm, sống chủ yếu tầng giữa và ít lên tầng mặt. Ngoài ra, 
một bể ở nghiệm thức 3 có hiện tượng cá xoay tròn và chết rải rác nhưng không xác định được 
nguyên nhân; đây chính là yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của nghiệm thức này. Theo Jonah, 
tỷ lệ sống trung bình của cá dìa sau 45 ngày ương đạt 70,3 % là cao hơn kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi, nhưng kết quả này cao hơn khi nghiên cứu cá dìa giống tại Khánh Hòa với tỷ lệ sống 
trung bình cao nhất đạt 64,44 % sau 30 ngày ương nuôi [3], [7]. Nghiên cứu này cho thấy mật độ 
ương nuôi không những có ảnh hưởng đến sinh trưởng mà còn ảnh hưởng đến cả tỷ lệ sống 
của cá dìa giai đoạn từ cá hương lên cá giống 40 ngày tuổi (Hình 3). Mật độ ương nuôi càng 
thấp thì cá có tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống càng cao. ột nghiên khác cho rằng cho rằng mật 
độ nuôi ảnh hưởng đến sinh trưởng, hệ số phân đàn, tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn của 
cá dìa giai đoạn giống [3]. Trong khi đó, một số nghiên cứu khác trên cá đối (Liza subviridis) cho 
thấy mật độ ương nuôi có ảnh hưởng đến tăng trưởng nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống 
của cá [4]. Tương tự đối với nghiên cứu trên cá nâu (Scatophagus argus), mật độ ương nuôi có 
ảnh hưởng đến sinh trưởng, sự phân cỡ nhưng cũng không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống [2]. 
4 Kết luận và kiến nghị 
Kết luận 
Đối với bể xi măng với thể tích 10 m3 có thể ương nuôi cá dìa từ giai đoạn cá hương đến 
cá giống đảm bảo cho cá sinh trưởng tốt. Mật độ ương tốt nhất cho cá dìa ở giai đoạn từ cá 
hương đến cá giống là 1.000–1.200 con/m3, đảm bảo tốc độ tăng trưởng 1,19–1,44 g/con và tỷ 
sống đạt trên 67,0 %. 
Kiến nghị 
Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình ương nuôi cá dìa ở giai đoạn cá hương lên cá 
giống. Ngoài mật độ ương nuôi cá dìa cũng cần có thêm những nghiên cứu về độ mặn đến tăng 
trưởng của cá để chọn ra điều kiện tối ưu trong ương nuôi cá dìa giống, đảm bảo cá có tốc độ 
tăng trưởng nhanh và tỷ lệ sống cao. 
Tài liệu tham khảo 
1. Lê Văn Dân, Lê Đức Ngoan (2006), Nghiên cứu sự phát triển tuyến sinh dục cá 
Dìa (Siganus guttatus, Bloch, 1787) ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế, Tạp chí Nông nghiệp và 
phát triển nông thôn, (2), 61–64. 
2. Hoàng Nghĩa ạnh, Nguyễn Tử Minh (2012), Ảnh hưởng của mật độ lên sinh trưởng và 
tỷ lệ sống của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766), Tạp chí khoa học Đại học Huế tập 71, 
(2), 223–230. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 127, Số 3A, 2018 
137 
3. Phan Văn Út, Hoàng Thị Thanh và Trương Tuấn (2015), Ảnh hưởng của mật độ ương và 
độ mặn đến sinh trưởng của cá Dìa giống (Siganus guttatus), Tạp chí khoa học công nghệ – 
Thuỷ sản, (2), 78–82. 
4. Lê Quốc Việt, Trần Ngọc Hải và Nguyễn Anh Tuấn (2010), Ảnh hưởng của mật độ lên 
tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá đối (Liza Subviridis) ương trong giai, Tạp chí khoa học, Đại 
học Cần Thơ, (14), 205–212. 
5. Claude E. Boyd. (1998), Water quanlity in ponds aquaculture. International Center for 
Aquaculture and Aquatic Environments, Alabama Agricultural Experiment Station, 
Auburn University, 37p. 
6. Gomes, L. C, Baldisserotto, J.A. Senhorini (2000), Effects of stocking density on water 
quality and growth of larvae of the matrinxa, Brycon cephalus. Aquaculture, Amsterdam, 
183, 73–81. 
7. Jonah Van Beijnen (2015), Research on reproductive of Golden Rabbitfish (Siganus guttastus 
Bloch, 1787) in the Philippines, USAID STRIDE project final report. 
8. Leatherland J.F. and C.Y. Cho (1985), Effect of rearing density on thyroid and interrenal 
gland activity and plasma hepatic metabolite levels in rainbow trout, Salmo gairdneri, 
Richardson, Journal of Fish Biology, 27, 583–592. 
9. Paspatis, M., Boujard, T., Maragoudaki, D., Blanchard, G., Kentouri, M. (2003), Do stocking 
density and feed reward level affect growth and feeding of self-fed juvenile European sea 
bass?, Aquaculture, 216, 103–113. 
10. Sampaio, L.A., Ferreira. A.H and Tesser. M.B. (2001), Effects of stocking density on 
laboratory rearing of mullet fingerlings, Mugil platanus (Gunther, 1980), Acta Scientiarum, 
 aringá, 23 (2) , 471–475. 
11. Trzebiatowski. R, Filipiak . J, Jakubowski. R (1981), Effects of stocking density on growth 
and survival of rainbow trout (Salmo gairdneri), Aquaculture, Amsterdam, 22, 289–295. 
12. Wallce, J.C., Arne G. K and Reinsnes, T.G. (1988), The effects of stocking density on early 
growth in Arctic charr, Salvelinus alpinus, Aquaculture, 73, Issues 1–4, 101–110. 
Nguyễn Quang Linh và CS. Tập 127, Số 3A, 2018 
138 
EFFECTS OF STOCKING DENSITY ON GROWTH 
PERFORMANCE AND SURVIVAL RATE OF RABBITFISH 
Siganus guttatus (Bloch, 1787) FROM FRY 
TO FINGERLING STAGE 
Nguyen Quang Linh1,*, Tran Vinh Phuong1, Mac Nhu Binh2, Tran Nguyen Ngoc2 
1 HU – Institute of Biotechnology, Tinh Lo 10 St., Phu Vang, Thua Thien Hue, Viet Nam 
2 HU – University of Agriculture and Forestry, 102 Phung Hung St., Hue, Viet Nam 
Abstract: Rabbitfish (Siganus guttatus) from 20 to 40 days of age were reared at different stocking 
densities of 1,000 (treatment 1), 1,200 (treatment 2) and 1,400 fish/m3 (treatment 3). The 
experiment was arranged randomly with 3 replicates in each treatment. The feed used at this 
stage was the small rotifer Brachionus rotundiformis, nauplius of Artemia, and the industrial feed 
for shrimp (Lansy Post and N0). The results showed that the stocking density affected the 
growth performance and survival growth rate of fish larvae from the fry to fingerling stage. The 
growth rate of fish in treatment 1 was the highest in terms of both weight and length (1.44 g/fish 
and 3.03 cm/fish). The survival rate in treatments 1, 2 and 3 was 68.9; 67.6 and 58.2 %, 
respectively. 
Keywords: Rabbitfish, Siganus guttatus, stocking density 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mat_do_uong_den_toc_do_tang_truong_va_ty_le_so.pdf