Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

TÓM TẮT

Nghiên cứu này nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng tại huyện Đà Bắc,

tỉnh Hòa Bình thông qua việc khảo sát 120 hộ nuôi cá lồng và sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas, mô hình

hồi quy bội nhằm lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nghiên cứu tới năng suất nuôi của các hộ nuôi

cá lồng tại huyện Đà Bắc. Kết quả phân tích cho thấy chi phí thức ăn, chi phí lao động, mật độ lồng nuôi, tập

huấn là những yếu tố ảnh hưởng đáng kể tới năng suất nuôi của hộ, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và

10%. Trong khi đó, mật độ thả giống, kinh nghiệm nuôi, diện tích lồng nuôi không ảnh hưởng tới năng suất cá

lồng. Từ những kết quả trên, tác giả gợi mở một số chính sách tương ứng để cải thiện năng suất cá lồng trong

huyện theo hướng bền vững.

Từ khóa: Năng suất cá lồng, nhân tố ảnh hưởng, hàm sản xuất

pdf 8 trang Bích Ngọc 05/01/2024 2200
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng tại huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 73
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
¹ Trường Đại học Lâm nghiệp
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT CÁ LỒNG 
TẠI HUYỆN ĐÀ BẮC, TỈNH HÒA BÌNH
FACTORS AFFECT THE PRODUCTIVITY OF FISH CAGE FARMING IN DA BAC 
DISTRICT, HOA BINH PROVINCE
Lưu Thị Thảo¹ 
Ngày nhận bài: 18/6/2018; Ngày phản biện thông qua: 13/12/2018; Ngày duyệt đăng: 1/3/2019
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng tại huyện Đà Bắc, 
tỉnh Hòa Bình thông qua việc khảo sát 120 hộ nuôi cá lồng và sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas, mô hình 
hồi quy bội nhằm lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nghiên cứu tới năng suất nuôi của các hộ nuôi 
cá lồng tại huyện Đà Bắc. Kết quả phân tích cho thấy chi phí thức ăn, chi phí lao động, mật độ lồng nuôi, tập 
huấn là những yếu tố ảnh hưởng đáng kể tới năng suất nuôi của hộ, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 
10%. Trong khi đó, mật độ thả giống, kinh nghiệm nuôi, diện tích lồng nuôi không ảnh hưởng tới năng suất cá 
lồng. Từ những kết quả trên, tác giả gợi mở một số chính sách tương ứng để cải thiện năng suất cá lồng trong 
huyện theo hướng bền vững.
Từ khóa: Năng suất cá lồng, nhân tố ảnh hưởng, hàm sản xuất
ABSTRACT
This study aims to analyze the factors affecting productivity of fi sh cage farming in Da Bac district, Hoa 
Binh province through the use of production function Cobb-Douglas, Multiple regression model to build a 
model to quantify the impact of these factors to study yield of cage fi sh farmers in Da Bac district. Analysis 
results showed that feed costs, labor costs, cage density, training signifi cantly affect the yield of the household 
and statistical signifi cance at 1%, 5%, and 10%. Meanwhile, fi sh stocking density, farming experience and 
cage scale do not signifi cantly affect the yield. On this basis, the study proposes a number of policies and 
measures to improve the effi ciency of fi sh farming cages in Da Bac, Hoa Binh.
Keywords: Fish cage productivity, factors affect, production function
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghề nuôi cá lồng là một nghề nuôi trồng 
thủy sản được phát triển mạnh trong những 
năm gần đây. Với nhiều ưu điểm so với nuôi 
trong ao như nước thường xuyên thay đổi nên 
có thể nuôi cá ở mật độ cao; môi trường nuôi 
cá sạch, không bị ô nhiễm bởi các chất thải của 
cá nên cá lớn nhanh; hao hụt ít, hạn chế được 
dịch hại; quản lý, chăm sóc, thu hoạch thuận 
lợi; năng suất cao Nuôi cá lồng không chỉ 
đóng vai trò quan trọng đối với việc gia tăng 
sản lượng thủy sản, mang lại nguồn thu cho 
quốc gia, cải thiện đời sống người dân mà còn 
giúp tái tạo và bảo vệ nguồn gen, môi trường 
sinh thái. 
Huyện Đà Bắc hội tụ nhiều lợi thế để phát 
triển nghề nuôi cá lồng, là huyện có nhiều xã 
thuộc vùng hồ thủy điện Hòa Bình là vùng có 
điều kiện khí hậu, sinh thái và hệ thuỷ văn thuận 
lợi, rất phù hợp với nghề nuôi trồng và đánh bắt 
thuỷ sản. Lực lượng lao động của huyện tham 
gia vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của vùng 
dồi dào, người dân đã có kinh nghiệm trong 
sản xuất và đã mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa 
học kỹ thuật và đưa các giống mới có giá trị 
kinh tế vào sản xuất nên đã góp phần năng cao 
năng suất, giá trị và hiệu quả sản xuất. Tính đến 
74 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
năm 2017, toàn huyện có 1.400 lồng cá với sản 
lượng đạt 1.280 tấn, trong đó đánh bắt đạt 480 
tấn, nuôi trồng đạt 800 tấn [6].
Tuy nhiên, nghề nuôi cá lồng tại huyện Đà 
Bắc trong thời gian qua phát triển cò n manh 
mún, nhỏ lẻ chưa tương xứng với tiềm năng 
và lợi thế sẵn có. Cá c đố i tượ ng nuôi chí nh 
hiệ n nay là cá c loà i cá truyề n thố ng (cá Trắm, 
cá Chép, cá Diêu hồng,), hình thức nuôi 
chủ yếu là quảng canh và quảng canh cải tiến 
(chiếm tỷ lệ trên 90% tổng diện tích NTTS của 
vùng); mật độ thả con giống chưa hợp lý; vị trí 
đặt lồng nuôi và thể tích lồng nuôi xây dựng 
chưa đúng kỹ thuật; nên sản lượng và giá trị 
mang lại chưa cao; điều kiện cơ sở hạ tầng còn 
nhiều hạn chế, trình độ kỹ thuật sản xuất của 
người dân chưa đáp ứng được yêu cầu; người 
dân chưa thực sự nhận thức rõ tầm quan trọng 
về tập huấn trong nuôi trồng thủy sản, điều này 
ảnh hưởng đáng kể đến năng suất cá lồng nuôi 
tại huyện. 
Do vậy, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh 
hưởng đến năng suất cá lồng, từ đó đề xuất một 
số giải pháp góp phần tăng năng suất cá lồng 
nuôi tại huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình là vấn đề 
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản là nuôi các thủy sinh vật 
trong môi trường nuôi nước ngọt, mặn, lợ; bao 
gồm áp dụng các kỹ thuật vào quy trình nuôi 
nhằm nâng cao năng suất; thuộc sở hữu của cá 
thể hay tập thể [3]. Theo FAO, nuôi trồng thủy 
sản là “hình thức nuôi trồng của thủy sinh vật 
bao gồm cả cá, động vật thân mềm, động vật 
giáp xác và thực vật thủy sinh, áp dụng các kỹ 
thuật vào quy trình nuôi nhằm nâng cao năng 
suất thuộc sở hữu cá nhân hay tập thể”. 
Một hàm sản xuất cho biết: Sản lượng thủy 
sản tối đa có thể đạt được với việc kết hợp một 
lượng cho trước của mỗi yếu tố đầu vào nào 
đó theo một công nghệ chăn nuôi nhất định 
hoặc với một mức sản lượng ấn định sẵn phải 
thực hiện bằng cách tối thiểu hóa chi phí khi 
kết hợp với các yếu tố đầu vào theo một công 
nghệ được lựa chọn. Hàm sản xuất ở đây biểu 
hiện quan hệ kỹ thuật giữa sản lượng và sự kết 
hợp các yếu tố sản xuất. Hàm sản xuất thủy 
sản được biểu diễn dưới dạng: Y = f(X1, X2, 
X3, ., Xn). Trong đó Y - Sản lượng thủy sản, 
X1: Lượng thức ăn; X2: Kích cỡ thả; X3: tỷ lệ 
sống; X4: Mật độ thả [5]
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng hàm 
Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của các 
yếu tố đến năng suất cá lồng hồ thủy điện Hòa 
Bình. Hàm sản xuất Cobb-Douglas đã có rất 
nhiều tác giả sử dụng mô hình này để phân tích 
ảnh hưởng đến kết quả NTTS và phân tích ảnh 
hưởng của các yếu tố đầu vào đến năng suất 
NTTS như: Hoàng Quang Thành và Nguyễn 
Đình Phúc (2012) trong nghiên cứu các yếu tố 
ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở huyện Tuy 
Phước, tỉnh Bình Định đã đưa các biến như mật 
độ thả giống; số lượng thức ăn công nghiệp; số 
lượng thức ăn tươi; số ngày công lao động; số 
năm kinh nghiệm nuôi; và một số biến giả như 
hình thức nuôi (bán thâm canh và quảng canh 
cải tiến); kiểm dịch (giống được kiểm dịch và 
giống không được kiểm dịch); xử lý ao nuôi 
(có xử lý ao nuôi và ao nuôi không được xử 
lý)[4]. Đỗ Thị Hương và Nguyễn Văn Ngọc 
(2014) trong nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng 
đến năng suất nuôi tôm thẻ chân trắng thâm 
canh tại tỉnh Thanh Hóa đã đưa các biến vào 
mô hình đánh giá là số vốn bỏ ra trong một vụ 
nuôi; mật độ nuôi; chất lượng tôm giống (biến 
giả); diện tích thả nuôi; số lao động bình quân 
vụ nuôi; hệ số thức ăn; độ trong của ao; độ mặn 
của ao nuôi[2]. Nguyễn Thị Quỳnh Anh (2012) 
trong nghiên cứu giải pháp kinh tế và quản lý 
môi trường cho phát triển nuôi trồng thủy sản 
các huyện phía nam thành phố Hà Nội đã đưa 
các biến như diện tích nuôi; tiền giống nuôi; 
tiền thức ăn tươi; tiền thức ăn công nghiệp; chi 
phí thuê lao động; nuôi thâm canh (biến giả); 
kênh lấy nước riêng (biến giả); dùng hóa chất 
xử lý ao nuôi (biến giả) để đánh giá các yếu tố 
ảnh hưởng đến năng suất NTTS.[1]
Dựa vào Cơ sở lý thuyết và các công trình 
nghiên cứu trên, cùng với kết quả khảo sát 120 
hộ nuôi các lồng tại huyện Đà Bắc, mô hình 
những nhân tố tác động đến năng suất NTTS 
được xây dựng như Hình 1:
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 75
Đối tượng nuôi chủ yếu của các hộ tại 
huyện Đà Bắc chủ yếu là cá Trắm cỏ, cá Chép, 
cá Diêu hồng. Do vậy trong nghiên cứu này, tác 
giả tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng 
đến năng suất của các loại cá này.
Năng suất sản xuất: Theo Adam Smith, 
năng suất (Productivity) là thước đo lượng 
đầu ra được tạo ra dựa trên các yếu tố đầu vào. 
Quan hệ giữa đầu ra và đầu vào chính là năng 
suất và được biểu thị bằng công thức: "Năng 
suất sản xuất = (Đầu ra)/(Đầu vào)" 
Trong đó, đầu ra được hiểu là tập hợp các 
kết quả như khối lượng, sản lượng thu hoạch, 
tổng giá trị sản xuất Đầu vào bao gồm các 
yếu tố tham gia để tạo ra đầu ra như diện tích, 
lao động, đối tượng và công cụ lao động 
Trong mô hình nghiên cứu về năng suất sản 
xuất của các hộ NTTS, năng suất được tính 
toán dựa trên công thức sau: 
dượng với năng suất cá lồng.
Kinh nghiệm nuôi (Năm nuôi cá lồng): Thể 
hiện số năm hoạt động trong nghề nuôi cá lồng. 
Kinh nghiệm được tích lũy qua nhiều năm từ 
những vụ nuôi, học hỏi kinh nghiệm của bạn 
bè, càng trải qua nhiều vụ nuôi thì người dân 
sẽ càng hiểu rõ được đối tượng nuôi của mình. 
Những kinh nghiệm đó sẽ giúp cho người nuôi 
nắm bắt kịp thời và xử lý một cách có hiệu quả 
trong vụ nuôi, biết được mùa vụ thích hợp, thời 
điểm thả giống, cách cho ăn và quản lý chăm 
sóc lồng nuôi,
Chi phí thức ăn (nghìn đồng/ha): Thức ăn 
là nhân tố không kém phần quan trọng trong 
hoạt động nuôi. Thức ăn cá tạp tươi hay thức 
ăn công nghiệp có chất lượng sẽ thúc đẩy 
nhanh quá trình tăng trưởng, phát triển của cá 
giúp cho người nuôi rút ngắn thời gian nuôi, 
giảm chi phí. Do vậy nghiên cứu kỳ vọng 
rằng biến này sẽ có quan hệ đồng biến với sản 
lượng nuôi. 
Chi phí lao động là Chi phí lao động trên 1 
đơn vị diện tích nuôi (triệu đồng/m³ lồng nuôi).
Thể tích lồng nuôi(m³): Thể hiện quy mô 
lồng nuôi
Trình độ học vấn (số năm đi học): Trình độ 
học vấn càng cao thì người nuôi có khả năng 
tiếp cận với những kiến thức mới hơn, hiệu 
quả hơn áp dụng vào cơ sở sản xuất, do đó làm 
tăng năng suất nuôi và tăng thu nhập cho hộ 
gia đình.
Khoảng cách giữa các lồng (m): Trong diễn 
đàn về hiệu quả nuôi cá lồng bè bền vững trên 
sông, hồ vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ 
ra rằng đối với hồ chứa, mỗi cụm bố trí từ 10 
– 15 lồng, các cụm lồng cách nhau từ 200 – 
300m, đặt so le nhau. Tại hồ chứa tổng diện 
tích lồng, bè không quá 0,2% diện tích khu vực 
đặt lồng. Cụ thể là 1ha mặt thoáng hồ chứa chỉ 
được nuôi 1 cụm lồng 20m². Nuôi nhiều hơn sẽ 
bị ô nhiễm [6]
Tập huấn là biến giả, nhận giá trị 1 nếu chủ 
hộ nuôi được tập huấn và nhận giá trị 0 cho 
trường hợp ngược lại. Vấn đề tập huấn kỹ thuật 
nuôi có vai trò rất quan trọng vì nuôi cá lồng bè 
mới là phương pháp mới cần áp dụng khoa học 
kỹ thuật để thực hiện vụ nuôi nhằm đạt hiệu 
Hình 1: Mô hình các nhân tố ảnh hưởng 
đến năng suất cá lồng
Mật độ thả giống (con/m³): Mật độ thả 
giống là số lượng con giống hoặc trọng lượng 
giống được thả trên một đơn vị diện tích mặt 
nước hay lồng bè nuôi. Để xác định mật độ thả 
thích hợp cho diện tích nuôi hay lồng nuôi và 
từng phương thức nuôi, các yếu tố cần quan 
tâm là diện tích mặt nước, nguồn thức ăn, năng 
lực của người nuôi Nhiều công trình nghiên 
cứu trên thế giới đã kết luận rằng năng suất 
nuôi tỉ lệ thuận với mật độ giống thả, tới một 
điểm cực đại thì năng suất bắt đầu giảm[7]. Do 
vậy, với các yếu tố và nguồn lực sẵn có của 
người nuôi thì nhân tố này sẽ có mối quan hệ 
76 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
quả cao. Việc hiểu được tầm quan trọng khi 
thả nuôi đúng thời vụ, xây dựng lồng bè, chọn 
con giống, cho ăn hợp lý... đều là những bước 
quyết định đến kết quả sản xuất sau cùng. Do 
vậy, nghiên cứu kỳ vọng rằng những hộ được 
tập huấn kỹ thuật sẽ có tác động tích cực đến 
hiệu quả nghề nuôi. 
Mô hình hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas 
được sử dụng trong phân tích các yếu tố ảnh 
hưởng đến năng suất cá lồng tại huyện Đà Bắc 
có dạng sau:
Trong đó:
Y là năng suất cá lồng (tấn/ha): 
Các biến đầu vào ảnh hưởng đến năng suất 
cá lồng 
+ X1 là Mật độ thả giống (con/m³);
+ X2 là kinh nghiệm nuôi (năm nuôi cá lồng)
+ X3 là chi phí thức ăn (Triệu đồng/m³)
+ X4 là chi phí lao động (Triệu đồng/m³ 
lồng nuôi/vụ nuôi)
+ X5 là thể tích lồng nuôi(m³)
+ X6 là trình độ học vấn (số năm đi học)
+ X7 là Khoảng cách giữa các lồng (m)
+ D1 là tập huấn trong nuôi trồng thủy sản 
(D1 = 1 là đã được tham gia tập huấn về nuôi cá 
lồng; D1 = 0 là hộ chưa được tập huấn về nuôi 
cá lồng)
Hàm sản xuất Cobb-Douglass được giải 
bằng phương pháp logarit hóa hai vế, thực hiện 
logarit hóa hai vế phương trình (1) thu được 
mô hình mới như sau:
Ln(Y) = α0 + α1Ln(X1) + α2Ln(X2) + 
α3Ln(X3) + α4Ln(X4) + α5Ln(X5) + α6Ln(X6) + 
α7Ln(X7) + α8(D1) ) + ui
2. Phương pháp thu thập số liệu:
+ Số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu, tài liệu, 
cơ sở dữ liệu, số liệu thống kê... về hoạt động 
nuôi cá lồng trên địa bàn huyện Đà Bắc thông 
qua các báo cáo chuyên đề của các cơ quan 
quản lý nhà nước huyện Đà Bắc. Thu thập các 
thông tin, số liệu, nhận định về vấn đề liên quan 
trong kết quả của các công trình nghiên cứu đã 
công bố, các sách báo, tài liệu đã xuất bản. 
+ Số liệu sơ cấp: 
Các số liệu, tài liệu sơ cấp được tác giả thu 
thập thông qua phương pháp phỏng vấn trực 
tiếp theo các phiếu phỏng vấn chuẩn bị sẵn. 
Căn cứ vào số liệu do phòng nông nghiệp, 
phòng thống kê huyện Đà Bắc cung cấp, tổng 
số hộ gia đình đang nuôi cá lồng trên toàn 
huyện là 154 hộ, trong đó tập trung vào 5 xã 
là Hiền Lương, Đồng Nghê, Suối Nánh, Vầy 
Nưa, Mường Chiềng. Do vậy, tác giả lựa chọn 
5 huyện này để khảo sát phục vụ cho nghiên 
cứu. Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng 
công thức của tác giả Yamane đưa ra năm 1973 
để xác định số mẫu trong trường hợp đã biết 
tổng thể như sau [8]:
N: Tổng thể nghiên cứu
n: số mẫu được chọn
e: Sai số cho phép, thông thường để đảm 
bảo mức độ tin cậy trong nghiên cứu 95% thì 
sai số chấp nhận được là 5%
Trong nghiên cứu này số mẫu tối thiểu được 
chọn là:
Để đạt được kết quả này, nghiên cứu sẽ áp 
dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng (chọn 
số hộ nuôi cá lồng theo kinh nghiệm nuôi) kết 
hợp với chọn mẫu ngẫu nhiên, Trong những 
hộ được chọn theo số năm kinh nghiệm của 5 
huyện, tác giả chọn ngẫu nhiên các hộ với cỡ 
mẫu thể hiện trên bảng 1 sau:
 Sau khi xác định được danh sách các hộ 
điều tra, tác tiến hành đến thực địa để khảo 
sát bằng phương pháp phát phiếu điều tra theo 
bảng hỏi đã thiết kế sẵn, toàn bộ quá trình được 
tiến hành trong tháng 3 năm 2018. Trên phiếu 
Bảng 1: Cơ cấu mẫu điều tra
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 77
điều tra thể hiện các thông tin về chủ hộ, tình 
hình nhân khẩu và lao động của hộ, trình 
độ học vấn của chủ hộ, chi phí sản xuất và 
doanh thu, những khó khăn hộ gặp phải 
trong quá trình nuôi cá lồng, một số thông 
tin khác như: hộ bắt đầu nuôi cá lồng từ khi 
nào, đối tượng nuôi là gì, thể tích lồng nuôi 
trung bình, khoảng cách đặt các lồng nuôi, 
chủ hộ tham gia tập huấn NTTS.... 
3. Phương pháp xử lý số liệu: 
Xây dựng mô hình kinh tế lượng, xử lý số 
liệu thống kê được thực hiện bằng phần mềm 
SPSS 23. Dữ liệu thu thập được sử dụng trong 
thống kê mô tả, các số liệu sau khi phân tích 
sẽ được làm sạch và sử dụng phân tích nhân tố 
bằng phương pháp OLS để xác định mức độ 
ảnh hưởng của các nhân tố đến năng suất của 
các hộ nuôi cá lồng. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Kết quả thống kê mô tả
Qua kết quả điều tra 120 hộ nuôi cá lồng ở 5 
xã của huyện Đà Bắc, cho thấy chủ hộ nuôi chủ 
ý là nam giới chiếm 85,83%, nữ giới chỉ chiếm 
14,17%. Tuổi của chủ hội cũng rất đa dạng, tập 
trung trong độ tuổi từ 30 đến dưới 55, chiếm 
82,15%, số chủ hội có độ tuổi dưới 30 và trên 
50 chiếm tỉ lệ nhỏ dưới 20%. tuổi chủ hộ nhỏ 
nhất là 25, lớn nhất là 63 và trung bình là 46,8 
tuổi. Đối tượng nuôi chủ yếu của các hộ là cá 
Trắm, với tỉ lệ chiếm trên 70% tổng số hộ nuôi. 
Số hộ nuôi cá Diêu hồng chiếm 16,8%, số hộ 
nuôi cá Chép chiếm 8,7% và số hộ nuôi hỗn 
hợp các loại cá chiếm 4,5%. Theo số liệu điều 
tra, số lồng trung bình của hộ nuôi là 8,19 lồng/
hộ; số lồng cá Trắm bình quân là 4,21 lồng/hộ, 
cá Diêu Hồng là 2,29 lồng/hộ, cá Chép là 1,7 
lồng/hộ. Diện tích nuôi bình quân một hộ là 
1,56 ha, thu nhập bình quân từ nuôi cá mỗi hộ 
là 125 triệu đồng/năm.
Bảng 2: Kết quả thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu
2. Kết quả phân tích hồi quy
Kết quả ở bảng 3 cho thấy hệ số phóng đại 
phương sai (VIF) đều nhỏ hơn 10, như vậy 
mô hình hồi qui không có hiện tượng đa cộng 
tuyến. Hệ số Durbin Watson (1 < d = 1,970 
< 3), như vậy mô hình hồi qui không có hiện 
tượng tự tương quan.
Kiểm tra giả định phần dư có phân phối 
chuẩn: sử dụng biểu đồ tần số Q-Q plot để khảo 
sát phân phối của phần dư. Dữ liệu có phân 
phối chuẩn nếu các quan sát thực tế tập trung 
sát đường chéo. Thông qua kết quả phân tích 
dữ liệu, biểu đồ phân phối của phần dư Q-Q 
plot, cho thấy phần dư có phân phối chuẩn.
Kiểm tra giả định phương sai của phần dư 
không đổi: Nếu độ lớn của phần dư tăng hay 
giảm cùng với giá trị của biến phụ thuộc thì giả 
định này bị vi phạm. Qua đồ thị Scatter thể hiện 
mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và phần dư, 
ta thấy các quan sát phân tán ngẫu nhiên. Như 
vậy, phần dư và phần biến phụ thuộc không có 
mối liên hệ hay không có hiện tượng phương 
sai của phần dư thay đổi.
Căn cứ kết quả bảng 3: 
Giá trị R² đã điều chỉnh là 0,675, điều này 
có nghĩa 67,5% thay đổi của Năng suất cá lồng 
của các hộ nuôi trồng tại huyện Đà Bắc chịu 
ảnh hưởng đáng kể từ các nhân tố trong mô 
hình, còn lại 32,5% chịu ảnh hưởng của các 
nhân tố khác chưa đưa vào mô hình.
78 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
Kiểm định sự tồn tại của mô hình thông 
qua kết quả tại bảng ANOVA, giá trị Sig.F = 
0,000< α = 0,05 nên bác bỏ giả thiết H0, chấp 
nhận đối thiêt H1, mô hình hồi quy được lựa 
chọn là phù hợp với dữ liệu thực tế.
3. Nhận xét và thảo luận về kết quả nghiên cứu.
Dựa vào bảng hệ số hồi quy trên ta nhận 
thấy biến LNX1, LNX2, LNX5 có giá trị Sig. 
>0,1 nên với độ tin cậy 90% các biến này 
không ảnh hưởng đáng kể đến Năng suất cá 
lồng của các hộ tại huyện Đà Bắc, Giá trị Sig. 
các biến LnX3, LnX4, LnX6, LnX7, D1 đều nhỏ 
hơn 0,1 nên các nhân tố này có ảnh hưởng đáng 
kế đến Năng suất cá lồng của các hộ.
Căn cứ giá trị B các biến trong cột Hệ số B 
chưa chuẩn hóa, ta có mô hình như sau:
LnY = 1,432*LnX3 + - 0,15 * Ln X4 + 
0,075*LnX6 – 0,869*LnX7 + 0,149*LnD1 + 
28,833
- Nếu các yếu tố khác không đổi thì cứ tăng 
chi phí thức ăn củ a hộ (X3) lên 1% thì Năng 
suất cá lồng sẽ tăng 1,432% và ngược lại.
- Nếu các yếu tố khác không đổi thì cứ tăng 
chi phí lao động (X4) lên 1% thì Năng suất cá 
lồng sẽ giảm 0,15% và ngược lại
- Nếu các yếu tố khác không đổi thì cứ tăng 
Trình độ học vấn (X6) lên 1% Năng suất cá 
lồng sẽ tăng 0,075% và ngược lại
- Nếu các yếu tố khác không đổi thì cứ tăng 
mật độ lồng cá (X7) lên 1% Năng suất cá lồng 
sẽ giảm 0,869% và ngược lại
- Các yếu tố khác không đổi thì chủ hộ được 
tập huấn nuôi trồng thủy sản (D1) Năng suất cá 
lồng sẽ tăng 0,149% và ngược lại
Hệ số hồi quy được chuẩn hóa cho biết 
tầm quan trọng của các biến độc lập trong mô 
hình. Các hệ số hồi quy chuẩn hóa có thể được 
chuyển đổi về dạng phần trăm như sau:
Bảng 3: Kết quả hồi quy các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng của huyện Đà Bắc
Ghi chú: *,**,*** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5%, 1% (Nguồn: Phân tích từ số liệu khảo sát)
Bảng 4: Vị trí quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng trên 
địa bàn huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 79
Như vậy, thông qua các kiểm định có thể 
khẳng định các yếu tố ảnh hưởng Năng suất cá 
lồng của các hộ trên địa bàn huyện Đà Bắc tỉnh 
Hòa Bình là: X3 (chi phí thức ăn), X6 (trình độ 
học vấn ), X7 (Mật độ lồng cá), D1(tập huấn 
trong nuôi trồng thủy sản ), X4 (chi phí lao 
động) với thứ tự ảnh hưởng theo chiều giảm 
dần là: X7, X3, X6, D1, X4
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp 
tiếp cận về lý thuyết sản xuất để ước lượng 
và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng 
suất nghề nuôi cá lồng bè tại huyện Đà 
Bắc, tỉnh Hòa Bình. Từ kết quả điều tra cho 
thấy đối tượng nuôi chủ yếu của các hộ là 
cá Trắm, với tỉ lệ chiếm trên 70% tổng số 
hộ nuôi. Số hộ nuôi cá Diêu hồng chiếm 
16,8%, số hộ nuôi cá Chép chiếm 8,7% và 
số hộ nuôi hỗn hợp các loại cá chiếm 4,5%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố 
ảnh hưởng tới năng suất nuôi tại khu vực 
này bao gồm: Trình độ học vấn của chủ 
hộ, chi phí thức ăn, Mật độ lồng nuôi và 
Tập huấn trong nuôi trồng thủy sản. Trong 
các yếu tố trên, thì được tập huấn trong 
NTTS và Chi phí thức ăn là hai yếu tố có 
ảnh hưởng lớn nhất. Bên cạnh đó, nghiên 
cứu cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm 
nâng cao năng suất nuôi cho các hộ nuôi cá 
lồng bè tại khu vực này, đó là: Thứ nhất, 
cần nghiên cứu các loại thức ăn công nghiệp 
phù hợp với những đối tượng nuôi này để 
thay thế thức ăn tươi sống mà các hộ nuôi 
đang sử dụng như hiện nay. Kết quả khảo 
sát cho thấy chi phí thức ăn chiếm phần lớn 
trong cơ cấu chi phí nghề nuôi cá lồng tại 
khu vực này và ảnh hưởng có ý nghĩa thống 
kê tới năng suất nuôi của hộ gia đình. Tuy 
nhiên, việc sử dụng thức ăn công nghiệp sẽ 
làm giảm đáng kể chi phí nuôi, nâng cao 
hiệu quả nghề nuôi, đồng thời vừa đảm bảo 
được môi trường nuôi không bị ô nhiễm do 
dư lượng thức ăn tươi sống gây ra. Thứ hai, 
nâng cao trình độ đối với lao động làm nghề 
nuôi cá biển. Kết quả phân tích cho thấy chi 
phí lao động tác động ngược chiều tới năng 
suất của nghề nuôi cá lồng bè tại khu vực 
này. Việc sử dụng nhiều lao động đã làm 
tăng chi phí nuôi, trong khi chất lượng lao 
động lại khá thấp và chủ yếu dựa vào kinh 
nghiệm. Do vậy, để nâng cao hiệu quả nghề 
nuôi, các cơ quan quản lý cần: (i) quy hoạch 
lao động trong ngành nuôi tại khu vực, (ii) 
Hỗ trợ trong việc đào tạo lực lượng lao 
động cho những hộ làm nghề nuôi này, (iii) 
Chuyển giao công nghệ về những đối tượng 
nuôi đang được nuôi chủ yếu. Do vậy, về lâu 
dài cần quan tâm giải quyết một số vấn đề 
chính: (i) Tuyên truyền vận động để hộ nuôi 
không sử dụng quá nhiều lượng thức ăn hữu 
cơ làm ô nhiễm vùng nuôi. (ii) Định kỳ có 
các đánh giá về môi trường nuôi tại khu vực 
để khuyến cáo cho những hộ nuôi, (iii) Quy 
hoạch vùng nuôi để có những chính sách 
phát triển hợp lý với các ngành kinh tế khác 
như: vận tải, du lịch, v.v góp phần hạn 
chế những tác động ô nhiễm môi trường từ 
những ngành kinh tế này gây ra. Thứ ba, cần 
hạn chế tình trạng số ô lồng vượt quá quy 
hoạch. Kết quả từ mô hình cho thấy, mật 
độ lồng nuôi (lồng/ha) đang tỷ lệ nghịch 
với năng suất nuôi cá lồng, do những năm 
gần đây người dân thấy được lợi nhuận cao 
từ nuôi cá lồng nên đã tập trung phát triển 
nuôi cá lồng dẫn đến tình trạng số ô lồng cá 
vượt quá quy hoạch của Huyện. Do vậy, các 
cơ quan liên quan như Sở nông nghiệp và 
PTNT tỉnh Hòa Bình, Phòng Nông nghiệp 
huyện Đà Bắc và UBND các xã cần phối 
hợp với người nuôi nhằm tuyên truyền về 
tình trạng nuôi quá mức cho phép để hộ 
nhận thức được tác hại của vấn đề, từ đó lựa 
chọn số ô lồng nuôi cho phù hợp, bên cạnh 
đó Chính quyền cần có giải pháp quản lý 
chặt hơn trong việc mở rộng quy mô hộ nuôi 
để tránh hiện tượng nuôi tự phát. 
80 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Quỳnh Anh và Phạm Văn Hùng (2012), Giải pháp quản lý bảo vệ môi trường nuôi trồng 
thủy sản phía Nam Hà Nội, Tạp chí Khoa học và Phát triển - Học viện nông nghiệp Việt Nam, số 7(10), 
tr. 1044-1049.
2. Trung tâm khuyến nông quốc gia (2017), Hiệu quả nuôi cá lồng bè bền vững trên sông, hồ vùng Trung 
du miền núi Phía Bắc, Số. số 27/2017, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
3. Quốc Hội (2003), Luật số 17/2003/QH11 của Quốc Hội, Luật Thủy sản, Hà Nội.
4. Đỗ Thị Hương và Nguyễn Văn Ngọc (2014), Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất nuôi tôm thẻ 
chân trắng thâm canh tại tỉnh Thanh Hóa, Tạp chí Khoa học, Công nghệ Thủy sản, Trường Đại học Nha 
Trang, số số 1, tr. 126 – 131.
5. Vũ Đình Thắng và Nguyễn Viết Trung (2005), Giáo trình kinh tế thủy sản, NXB Lao động - Xã hội, 
Hà Nội.
6. Hà Quang Thành và Nguyễn Đình Phúc (2013), Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở 
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Huế, số 72(3), 
tr.317-325.
Tiếng Anh
7. Sena S De Silva và Michael J Phillips (2007), A review of cage aquaculture: Asia (excluding China), 
FAO Fisheries Technical Paper, số 498, tr. 21.
8. Taro Yamane (1973), Statistics: An introductory analysis.3rd Edition, Harper and Row, New York.

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_anh_huong_den_nang_suat_ca_long_tai_huyen_da_bac.pdf