Đặc điểm sinh học của vi nấm Achlya Bisexualis nhiễm trên cá nuôi thâm canh

Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định đặc điểm sinh học của vi nấm Achlya bisexualis gây

bệnh trên cá nuôi thâm canh. Tổng cộng 6 chủng Achlya bisexualis được phân lập từ cá tra (Pangasianodon

hypophthalmus), cá lóc (Channa striata) và cá điêu hồng (Oreochromis sp.). Kết quả cho thấy A. bisexualis phát

triển tốt trong khoảng nhiệt độ 28–33 °C. Vi nấm có thể phát triển nhanh ở pH 6–8. Các chủng không thể

phát triển ở độ mặn 2,0 %. Vi nấm có thể sử dụng glucose, maltose, mannose, sucrose và arabinose. A.

bisexualis cho phản ứng với NO2 5 mM nhưng không phản ứng với NO2 43 mM.

Từ khóa: Achlya bisexualis, cá điêu hồng, cá lóc, cá tra, sinh học, vi nấm

pdf 10 trang Bích Ngọc 05/01/2024 1360
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm sinh học của vi nấm Achlya Bisexualis nhiễm trên cá nuôi thâm canh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm sinh học của vi nấm Achlya Bisexualis nhiễm trên cá nuôi thâm canh

Đặc điểm sinh học của vi nấm Achlya Bisexualis nhiễm trên cá nuôi thâm canh
 Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ISSN 2588–1191 
Tập 126, Số 3D, 2017, Tr. 143–152; DOI: 10.26459/hueuni-jard.v126i3D.4105 
* Liên hệ: dtmthy@ctu.edu.vn 
Nhận bài: 13–03–2017; Hoàn thành phản biện: 24–07–2017; Ngày nhận đăng: 20–12–2017 
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA VI NẤM Achlya bisexualis 
NHIỄM TRÊN CÁ NUÔI THÂM CANH 
Đặng Thụy Mai Thy*, Trần Thị Tuyết Hoa, Phạm Minh Đức 
Trường Đại học Cần Thơ, Đường 3/2, P. Xuân Khánh, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ, Việt Nam 
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định đặc điểm sinh học của vi nấm Achlya bisexualis gây 
bệnh trên cá nuôi thâm canh. Tổng cộng 6 chủng Achlya bisexualis được phân lập từ cá tra (Pangasianodon 
hypophthalmus), cá lóc (Channa striata) và cá điêu hồng (Oreochromis sp.). Kết quả cho thấy A. bisexualis phát 
triển tốt trong khoảng nhiệt độ 28–33 °C. Vi nấm có thể phát triển nhanh ở pH 6–8. Các chủng không thể 
phát triển ở độ mặn 2,0 %. Vi nấm có thể sử dụng glucose, maltose, mannose, sucrose và arabinose. A. 
bisexualis cho phản ứng với NO2 5 mM nhưng không phản ứng với NO2 43 mM. 
Từ khóa: Achlya bisexualis, cá điêu hồng, cá lóc, cá tra, sinh học, vi nấm 
1 Đặt vấn đề 
Vi nấm là sinh vật nhân thực, sống dị dưỡng, không có diệp lục tố, hấp thụ chất dinh 
dưỡng qua vách tế bào bằng cách tiết enzymes vào vật chủ và sống hoại sinh, cộng sinh hoặc ký 
sinh trên động vật và thực vật [5]. Vi nấm nhiễm trên động vật thủy sản rất đa dạng về thành 
phần loài, mức độ nhiễm và khả năng gây thiệt hại khác nhau. Trong đó, các nhóm vi nấm phổ 
biến gồm Saprolegnia sp., Achlya sp., Aphanomyces sp. thường gây bệnh trong thủy sản [8,2]. 
Hiện nay, ở đồng bằng sông Cửu Long động vật thủy sản nhiễm vi nấm Achlya sp. đang dần trở 
nên phổ biến và gây thiệt hại cho người nuôi. Khảo sát cá lóc nhiễm bệnh ở An Giang và Đồng 
Tháp cho thấy giống Achlya sp. chiếm 21,4 % và nhiễm phổ biến trên cá lóc giai đoạn giống là 
Achlya bisexualis [18,19]. Ngoài ra, nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền (2006) cho thấy vi nấm 
Achlya sp. còn có khả năng gây nhiễm trên trứng cá tra và cá basa. Theo Czeczuga và cs. (2013) 
vi nấm nhiễm trên trứng cá da trơn ở Châu Phi gồm các loài của Achlya sp., Aphanomyces sp., 
Leptolegnia sp. và Saprolegnia sp. có khả năng sử dụng alanine, nhưng không sử dụng 
methionine, lysine, ornithine, leucine và glycine [4]. Tất cả các loài có thể sử dụng glucose và 
tinh bột, nhưng không cho phản ứng với arabinose và salicin. Kết quả thí nghiệm ở nấm S. 
diclina và A. bisexualis ký sinh trên cá chép (C. carpio) cho thấy nhiệt độ tối ưu của cả 2 loài vi 
nấm là 25 °C nhưng tại 10–30 °C vi nấm vẫn phát triển [20]. Tuy nhiên, nghiên cứu của Nguyễn 
Thị Thúy Hằng (2011) cho thấy nhiệt độ 30–35 °C là mức thích hợp cho vi nấm Achlya bisexualis 
nhiễm trên cá lóc giai đoạn giống phát triển. Có thể thấy ở những vùng địa lý và nhiễm trên ký 
chủ khác nhau thì khoảng nhiệt độ phát triển thích hợp của vi nấm cũng khác nhau. Vì thế, 
Đặng Thị Mai Thy và CS. Tập 126, Số 3D, 2017 
144 
nghiên cứu thực hiện nhằm cung cấp thông tin về đặc điểm sinh học của vi nấm Achlya 
bisexualis góp phần trong việc định danh và phân loại vi nấm gây bệnh trên cá. 
2 Phương pháp nghiên cứu 
2.1 Chủng vi nấm 
Các chủng vi nấm được trữ tại Bộ môn Bệnh học Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại 
học Cần Thơ. Vi nấm được phục hồi trên môi trường Glucose Yeast Agar – GYA (1 % glucose, 
0,25 % yeast–extract, 1,5 % agar) ủ ở 28 °C. Các chủng vi nấm phát triển sau 5 ngày nuôi cấy 
được sử dụng cho các thí nghiệm (Bảng 1). 
 Bảng 1. Các chủng vi nấm Achlya bisexualis thí nghiệm 
TT Chủng vi nấm Loài cá Cơ quan phân lập 
1 PCT01.02 Cá tra Da cơ 
2 PAG02.07 Cá tra Da cơ 
3 TCT02.02 Cá điêu hồng Da cơ 
4 TVL02.03 Cá điêu hồng Mang 
5 CĐT02.32 Cá lóc Da cơ 
6 CCT01.09 Cá lóc Da cơ 
2.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của vi nấm 
Phương pháp thí nghiệm được thực hiện theo Koeypudsa và cs. (2005). Dùng ống cắt số 2 
(cork borer No. 2) cắt một khối agar với đường kính 5,5 mm ở rìa khuẩn lạc đã có nấm phát 
triển và đặt vào đĩa petri chứa môi trường GYA. Ủ đĩa cấy với 5 mức nhiệt độ khác nhau 23, 28, 
33 và 38 °C, đo đường kính phát triển của khuẩn lạc nấm sau 3–5 ngày. Thí nghiệm được thực 
hiện với 3 lần lặp lại. 
2.3 Ảnh hưởng của pH đến khả năng phát triển của vi nấm 
Phương pháp thí nghiệm được thực hiện theo Koeypudsa và cs. (2005) có điều chỉnh. 
Dựa vào kết quả thí nghiệm nhiệt độ xác định nhiệt độ thích hợp cho vi nấm phát triển tốt ở các 
thí nghiệm tiếp theo. Môi trường GY lỏng được điều chỉnh các khoảng pH 3–11 bằng cách cho 
thêm dung dịch HCl 1N hoặc dung dịch NaOH 1N. Dùng ống cắt số 2 (cork borer No. 2) cắt 
một khối agar với đường kính 5,5 mm ở rìa khuẩn lạc đã có nấm phát triển và cho vào ống 
nghiệm chứa 5 ml GY lỏng. Khả năng phát triển của vi nấm được quan sát mỗi ngày và so sánh 
với ống nghiệm đối chứng (pH: 7). Quan sát và ghi nhận kết quả trong 5–7 ngày. Kết quả được 
thể hiện qua các điểm (0) nấm không phát triển, (1) nấm phát triển có số lượng ít, ngắn và 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3D, 2017 
145 
chiếm < 20 % khối agar, (2) nấm phát triển có số lượng vừa và chiếm 20–70 % khối agar và (3) 
nấm phát triển có số lượng nhiều, dài và chiếm > 70 % khối agar. Trong trường hợp nấm không 
phát triển, mẫu agar dùng thí nghiệm sẽ được rửa bằng nước cất vô trùng và cấy trở lại đĩa môi 
trường GYA mới để đánh giá khả năng sống sót của nấm. Thí nghiệm được thực hiện với 3 lần 
lặp lại. 
2.4 Ảnh hưởng của độ mặn đến khả năng phát triển của vi nấm 
Phương pháp thí nghiệm được thực hiện theo Koeypudsa và cs. (2005). Dùng ống cắt số 2 
cắt một khối agar đã có nấm thuần phát triển với đường kính khoảng 5,5 mm và đặt khối agar 
này vào giữa đĩa petri có môi trường GYA với các nồng độ muối khác nhau 0 %; 0,5 %; 1 %; 
1,5 % và 2 % ủ ở nhiệt độ tối ưu được chọn ở thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ. Thí nghiệm 
được thực hiện với 3 lần lặp lại và đo đường kính khuẩn lạc của nấm trong vòng 5–7 ngày. 
2.5 Khả năng sử dụng cacbohydrat của vi nấm 
Phương pháp thí nghiệm được thực hiện theo Kitancharoen và Hatai (1998). Chuẩn bị 
môi trường gồm 8,4 mM NH4H2PO4; 2,7 mM KCl; 0,8 mM MgSO4.7H2O; 0,035 mM ZnSO4.7H2O 
và 0,02 mM CuSO4.5H2O. Bổ sung thêm bromcresol tím được cho vào để làm chất chỉ thị với 
nồng độ 50 mg/L và môi trường được tiệt trùng ở 121 °C trong 10 phút. Cacbohydrat (glucose, 
sucrose, maltose, mannose và arabinose) được bổ sung vào môi trường với nồng độ 1 %. Cho 2 
mL môi trường vào ống nghiệm 10 mL và cấy vi nấm vào. Ủ mẫu trong 14 ngày và đánh giá sự 
phát triển của vi nấm như sau: (+) vi nấm phát triển và (–) vi nấm không phát triển. Thí nghiệm 
được thực hiện với 3 lần lặp lại. 
2.6 Khả năng sử dụng nitrit của vi nấm 
Phương pháp thí nghiệm được thực hiện theo Kitancharoen và Hatai (1998). Chuẩn bị 
môi trường gồm 5,7 mM K2HPO4.3H2O; 0,3 % sucrose và 1,2 % agar có bổ sung 43 mM NaNO2 
và 5 mM NaNO2 cho vào 10 mL dung dịch (0,6 M KCl; 0,2 M MgSO4.7H20; 3,6 mM FeSO4.7H2O). 
Môi trường được tiệt trùng ở 121 °C trong 10 phút. Sau đó cấy vi nấm vào môi trường, mẫu 
được ủ trong 3–5 ngày và đo đường kính khuẩn lạc. Thí nghiệm được thực hiện với 3 lần lặp 
lại. 
2.7 Phương pháp xử lý số liệu 
Các số liệu được thu thập, tổng hợp và phân tích bằng phương pháp thống kê mô tả và 
phương pháp so sánh thống kê ANOVA hai nhân tố (p < 0,05) ở phần mềm Statistica 8.0. 
Đặng Thị Mai Thy và CS. Tập 126, Số 3D, 2017 
146 
3 Kết quả và thảo luận 
3.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của vi nấm Achlya bisexualis 
Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến quá trình phát triển và hình thành bào 
tử vi nấm. Các chủng vi nấm thí nghiệm đều có khả năng phát triển ở nhiệt độ 23–38 °C. Vi 
nấm phát triển tốt nhất trong khoảng nhiệt độ 28–33 °C. Ở 28 °C, vi nấm phát triển tối ưu và 
đường kính trung bình khuẩn lạc của A. bisexualis là 78,5 ± 4,6 mm sau 5 ngày nuôi cấy trên môi 
trường GYA. Các chủng A. bisexualis phân lập được ở cả 3 loài cá vẫn phát triển ở 38 °C với 
đường kính khuẩn lạc 17,0 ± 3,9 mm. Khi nhiệt độ giảm xuống ở mức 23 °C, A. bisexualis vẫn 
phát triển tốt (Bảng 2). Khuẩn lạc vi nấm có màu trắng kem đồng nhất, phát triển tròn đều, sợi 
nấm dài, mọc nhô cao lên khỏi bề mặt môi trường. Khuẩn lạc phát triển nhanh sau 24 h, đường 
kính trung bình khoảng 10–14 mm ở 28 °C. Đường kính khuẩn lạc của các chủng vi nấm ở các 
mức nhiệt độ khác nhau khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05). 
Bảng 2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của vi nấm A. bisexualis 
A. bisexualis ở loài cá 23 °C 28 °C 33 °C 38 °C 
 Đường kính khuẩn lạc (mm) sau 5 ngày 
Cá tra 68,2 ± 4,6aA 75,2 ± 5,4bA 73,4 ± 8,6cA 17,0 ± 2,6dA 
Cá điêu hồng 71,2 ± 3,0aB 80,0 ± 3,5bB 76,4 ± 6,6cB 18,6 ± 5,3dB 
Cá lóc 70,6 ± 2,0aAB 80,2 ± 2,4bAB 71,0 ± 2,3cAB 15,5 ± 2,5dAB 
Ghi chú: Các chữ thường khác nhau trong cùng một hàng và các chữ in hoa khác nhau trong cùng một cột 
thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) 
Bên cạnh sự khác biệt về đường kính khuẩn lạc, hệ sợi nấm phát triển trên môi trường 
GYA của các chủng vi nấm cũng có sự khác biệt ở các nhiệt độ khác nhau. Nhiệt độ càng tăng 
thì sự phát triển của vi nấm càng giảm. Trong khoảng nhiệt độ 28–33 °C, hệ sợi vi nấm phát 
triển dày đặc, mọc nhô cao khỏi bề mặt môi trường, nhưng ở nhiệt độ 38 °C thì hệ sợi nấm rất 
thưa, kích thước nhỏ và phát triển sát bề mặt môi trường (Hình 1). 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3D, 2017 
147 
Hình 1. Sự phát triển của Achlya bisexualis ở các mức nhiệt độ khác nhau 
 Theo Madan và Thind (1998), nhiệt độ tác động lớn đến quá trình sinh trưởng, sinh sản 
và phát triển của vi nấm. Trong đó, mỗi chủng vi nấm có giá trị nhiệt độ khác nhau liên quan 
đến các giai đoạn trong vòng đời, thời gian nuôi cấy và dinh dưỡng trong môi trường nuôi cấy. 
Hệ enzyme cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của nấm, khi nhiệt độ tăng làm enzyme bị 
biến tính và hủy hoại nên vi nấm không phát triển và sinh sản tạo bào tử. Kết quả nghiên cứu 
tương tự trong báo cáo của Nguyễn Thị Huyền (2006), nhiệt độ thích hợp cho nấm Achlya gây 
bệnh trên trứng cá tra và cá basa là 25–30 °C. Các chủng A. bisexualis phát triển trong khoảng 
10–35 °C, phát triển tối ưu ở 25–30 °C và không phát triển ở 40 °C [14,15]. 
3.2 Ảnh hưởng của pH đến sự phát triển của vi nấm Achlya bisexualis 
pH cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển của vi nấm. Kết 
quả khảo sát ảnh hưởng pH lên sự phát triển của các chủng vi nấm trong môi trường GY lỏng 
sau 5 ngày nuôi cấy cho thấy các chủng A. bisexualis phát triển tốt nhất trong khoảng pH 6–8 và 
không phát triển ở pH ≤ 3 và ≥ 11. pH ức chế sự phát triển của vi nấm ở các mức pH là 4, 9 và 
10. Ở mức pH 4 và 9 có 1 chủng A. bisexualis ở cá tra, 1 chủng ở cá điêu hồng và 2 chủng ở cá lóc 
phát triển nhưng rất ít sợi nấm trong môi trường. Ngoài ra, 5 trong 6 chủng A. bisexualis có sợi 
nấm phát triển trung bình ở pH 5. Ở mức pH 10, các chủng A. bisexualis ở cá điêu hồng bị ức chế 
(Bảng 3). 
 Bảng 3. Ảnh hưởng của pH đến sự phát triển của vi nấm A. bisexualis 
A. bisexualis ở loài cá 
pH 
3 4 5 6 7 8 9 10 11 
Cá tra 0 1 2 3 3 3 1 1 0 
Cá điêu hồng 0 1 2 3 3 2 1 0 0 
Cá lóc 0 1 2 3 3 3 1 1 0 
Ghi chú: 3: vi nấm phát triển nhiều; 2: vi nấm phát triển vừa; 1: vi nấm ít và 0: vi nấm không phát triển 
Đặng Thị Mai Thy và CS. Tập 126, Số 3D, 2017 
148 
Kết quả này tương đồng với kết quả của Madan và Thind (1998) và cho thấy vi nấm có 
thể chịu đựng trong môi trường có khoảng pH rộng và sinh trưởng tối ưu ở pH 7 hoặc môi 
trường axít nhẹ. Quá trình phát triển của nấm bị ngưng lại trong môi trường axít (pH 3) và 
kiềm (pH 8–9). Hơn nữa, trong môi trường axít màng tế bào vi nấm bị bão hòa, do đó làm hạn 
chế sự trao đổi của các ion thiết yếu. Các giống Saprolegnia, Aphanomyces và Achlya phát triển 
trong khoảng pH tối ưu từ 5 đến 10 [10]. Ngoài ra, Achlya và A. bisexualis nhiễm trên cá rô phi 
tại Thái Lan sinh trưởng tốt và động bào tử có thể nảy mầm ở pH 4–11 và nấm phát triển tối ưu 
trong khoảng pH 6–8 [16]. A. klebsiana nhiễm trên cá chép có thể phát triển ở pH 6–7 [3]. 
3.3 Ảnh hưởng của độ mặn đến sự phát triển của vi nấm Achlya bisexualis 
Khảo sát ảnh hưởng của độ mặn (NaCl) đến sự phát triển của vi nấm ghi nhận được độ 
mặn càng tăng thì A. bisexualis phát triển càng giảm. Các chủng nấm A. bisexualis không phát 
triển ở độ mặn 2 %. A. bisexualis có thể sinh trưởng tốt đến độ mặn 0,5 %. Ở nồng độ 1 %, tăng 
trưởng của các chủng vi nấm giảm hơn ½ so với nồng độ 0–0,5 %. Độ mặn ở mức 1,5 % ức chế 
sự phát triển của 5 chủng A. bisexualis (Bảng 4). Kết quả xử lý thống kê cho thấy không có sự 
khác biệt ở độ mặn 0–0,5 % nhưng khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) ở độ mặn 1–2 %. 
Bảng 4. Ảnh hưởng của độ mặn đến sự phát triển của vi nấm Achlya bisexualis 
A. bisexualis ở loài cá 0 % 0,5 % 1 % 1,5 % 2 % 
 Đường kính khuẩn lạc (mm) sau 5 ngày 
Cá tra 79,2 ± 1,5aA 78,6 ± 3,4aA 36,9 ± 3,1bA 18,4 ± 2,4cA – 
Cá điêu hồng 80,3 ± 2,1aA 80,0 ± 2,3aA 39,1 ± 2,9bB 16,6 ± 3,4cB – 
Cá lóc 77,9 ± 2,1aA 78,2 ± 2,4aA 38,7 ± 2,5bB 16,9 ± 3,5 cB – 
Ghi chú: Các chữ thường khác nhau trong cùng một hàng và các chữ in hoa khác nhau trong cùng một cột 
thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Kết quả của nghiên cứu tương đồng với kết quả của Nguyễn Thị Thúy Hằng (2011) trên 
Achlya bisexualis và cho thấy nấm phát triển đến độ mặn 1 % và bị ức chế hoàn toàn ở độ mặn 
2 %. Theo Abking và cs. (2008), trên trứng cá tra dầu (Pangasianodon gigas) nấm Achlya spp. tăng 
trưởng tối ưu với nồng độ muối là 1,5 % và cũng không thấy có sự phát triển của nấm ở độ mặn 
2 %–2,5 %. Trong khi đó, Fuangsawat và cs. (2011) cho rằng nấm Achlya bisexualis có khả năng 
tồn tại đến nồng độ muối 2,5 %. Hơn nữa, sự tăng nồng độ muối ảnh hưởng trực tiếp đến quá 
trình thẩm thấu của sợi nấm. Lúc này, NaCl hoạt động như một chất độc đối với màng tế bào 
nấm gây sự mất ổn định của màng ngoài và hoạt động của enzym, nhưng một số loài vi nấm có 
thể phát triển tốt hơn trong môi trường có muối [6]. 
3.4 Khả năng sử dụng cacbohydrat của vi nấm Achlya bisexualis 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3D, 2017 
149 
Cacbohydrat là một trong các nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho quá trình sinh trưởng của 
vi nấm. Thí nghiệm bổ sung các nguồn cacbohydrat khác nhau ghi nhận các chủng A. bisexualis 
đều sử dụng sucrose, maltose và manose trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các chủng vi 
nấm khác nhau sử dụng các loại đường khác nhau trong đó các chủng nấm nhiễm trên cá tra 
không có khả năng sử dụng arabinose ngược lại các chủng A. bisexualis nhiễm trên cá điêu hồng 
và cá rô phi có khả năng sử dụng arabinose. Hai chủng nấm nhiễm trên cá điêu hồng đều có 
khả năng sử dụng maltose, sucrose, arabinose, nhưng mannose chỉ có một chủng nấm có khả 
năng sử dụng (Bảng 5). 
Bảng 5. Khả năng sử dụng cacbohydrat của Achlya bisexualis 
A. bisexualis ở loài cá Glucose Sucrose Maltose Mannose Arabinose 
Cá tra + + + + – 
Cá điêu hồng + + + + + 
Cá lóc + + + + + 
(+): vi nấm phát triển và (–): vi nấm không phát triển 
Kết quả của thí nghiệm có sự tương đồng với kết quả của Kitancharoen và Hatai (1998) 
và cho thấy tất cả các chủng Achlya sp. có thể sử dụng được 14/19 loại cacbohydrat như glucose, 
maltose, mannose, sucrose nhưng lại không sử dụng arabinose. Theo các tác giả, glucose là 
cacbohydrat mà tất cả các giống nấm đều có thể hấp thu được, nhưng đối với arabinose, xylose 
và sucrose thì khả năng đồng hóa của các giống vi nấm khác nhau. Một số cacbohydrat có khả 
năng gây độc cho vi nấm khi bổ sung vào môi trường cho thấy vi nấm ít hoặc không có khả 
năng phát triển. Theo Czeczuga và cs. (2013), thí nghiệm nghiên cứu trên trứng cá da trơn ở 
Châu Phi ghi nhận thấy các loài của Achlya, Aphanomyces, Leptolegnia và Saprolegnia có thể sử 
dụng glucose và tinh bột, nhưng không đồng hóa arabinose và salicin. 
3.5 Ảnh hưởng của nitrit đến sự phát triển của vi nấm Achlya bisexualis 
Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của nitrit đến sự phát triển của vi nấm ghi nhận được 
các chủng A. bisexualis của 3 loài cá đều phát triển trong môi trường có bổ sung NO2 nồng độ 
5 mM nhưng không phát triển ở nồng độ 43 mM. Đường kính khuẩn lạc trung bình của 2/3 
chủng A. bisexualis ở môi trường có 5 mM NO2 cao hơn so với môi trường không bổ sung NO2 
(Bảng 6). 
Bảng 6. Ảnh hưởng của NO2 đến sự phát triển của vi nấm A. bisexualis 
Đặng Thị Mai Thy và CS. Tập 126, Số 3D, 2017 
150 
A. bisexualis ở loài cá 0 5 mM 43 mM 
 Đường kính khuẩn lạc (mm) sau 5 ngày 
Cá tra 32,4 ± 1,9aA 26,3 ± 2,2bA – 
Cá điêu hồng 37,2 ± 2,9aB 34,8 ± 2,5bB – 
Cá lóc 34,3 ± 3,1aB 34,2 ± 2,3bB – 
Ghi chú: Các chữ thường khác nhau trong cùng một hàng và các chữ in hoa khác nhau trong cùng một cột 
thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) 
Kết quả này tương tự với kết quả của Kitancharoen và Hatai (1998) ở giống Achlya, 
Saprolegnia, Aphanomyces, Pythium, Leptolegnia nhiễm trên trứng cá hồi. Chúng đều có thể phát 
triển trong môi trường NO2 (5 mM), nhưng chỉ có Saprolegnia và Leptolegnia có thể tồn tại được ở 
nồng độ NO2 43 mM. NO2 là chất gây độc cho tế bào sống vì thế ở nồng độ 43 mM NO2 các 
chủng A. bisexualis đều không phát triển [17]. Bên cạnh đó, ni tơ cũng là một nguồn dinh dưỡng 
cần thiết cho vi nấm. Trong tế bào vi nấm, ni tơ được sử dụng để tổng hợp các hợp chất hữu cơ 
như protein, enzyme, một số vitamin và chitin. Thông qua quá trình trao đổi chất, vi nấm sử 
dụng nitrat chuyển thành NO2, hyponitrite và ammonia. Vi nấm thường không sử dụng NO2 
trong môi trường pH tối ưu và axít. Nitrit gây độc bởi vì không thể hòa tan axít nitrơ, do đó ảnh 
hưởng đến protein và các axít amin của tế bào vi nấm [12]. 
4 Kết luận 
A. bisexualis sinh trưởng và phát triển ở nhiệt độ 28–33 C, pH trong khoảng 6–8, độ mặn 
0–0,5 % và sử dụng nguồn cacbonhydrat chủ yếu là glucose và sucrose. Trong môi trường có 
NO2 nồng độ 5 mM thì A. bisexualis có thể tồn tại và phát triển. 
Tài liệu tham khảo 
1. Abking, N., W. Fuangsawat and O. Lawhavinit (2008), Achlya spp. isolated from eggs of the 
Mekong Giant Catfish (Pangasianodon gigas, Chevey), Department of Microbiology and 
Immunology, Faculty of Veterinary Medicine, Kasetsart University, Bangkok 10900, 
Thailand. 
2. Bly, J.E., L.A. Lawson, D.J. Dale, A.J. Szalai, R.M. Durborow and L.W. Clem (1992), Winter 
saprolegniasis in channel catfish, Diseases of Aquatic Organisms, 13, 155–164. 
3. Chukanhom, K. and K. Hatai (2004), Freshwater fungi isolated from eggs of the common 
carp Cyprinus carpio in Thailand, Mycoscience, 45, 42–48. 
4. Czeczuga, B., E. Czeczuga-Semeniuk, A. Semeniuk and J. Semeniuk (2013), Straminipiles 
(Oomycota) developing on the eggs of an African catfish, Clarias gariepinus Burchell in 
water bodies of Poland, African Journal of Microbiology Research , 7 (20), 2378–2384. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 3D, 2017 
151 
5. De Hoog, G.S., J. Guarro, J. Gené and M.J. Figueras (2000), Atlas of clinical fungi. 2nd 
edition, Centraalbureau voor schimmelculture. 1126p. 
6. El-Abyad, M.S., H. Hindorf and M.A. Rizk (1988), Impact of salinity stress on soil-borne 
fungi of sugarbeet. I. Pathogenicity implications, Plant Soil, 110, 27–32. 
7. Fuangsawat, W., N. Abking and O. Lawhavinit (2011), Sensitivity comparison of 
pathogenic aquatic fungal hyphae to sodium chloride, hydrogen peroxide, acetic acid and 
povidone iodine, Kasetsart Journal, 45, 84–89. 
8. Hatai, K. and G.I Hoshiai (1994), Pathogenicity of Saprolegnia parasitica Coker. In: Saloon 
saprolegniasis, 87–98. 
9. Kitancharoen, N. and K. Hatai (1998), Some biochemical characteristics of fungi isolate 
from salmonid eggs, Mycoscience, 39, 249–255. 
10. Kitancharoen, N., A. Yamamoto and K. Hatai (1997), Fungicidal effect of hydrogen peroxide 
on fungal infection of rainbow trout eggs, Mycoscience, 38, 375–378. 
11. Koeypudsa, W., P. Phadee, J. Tangtrongpiros and K. Hatai (2005), Influence of pH, 
temperature and sodium chloride concentration on growth rate of Saprolegnia sp. Journal of 
Scientific research Chulalongkorn University, 30 (2), 123–130. 
12. Madan, M. and K.S. Thind (1998), Physiology of Fungi, APH Punlishing Corporation, New 
Delhi, 219. 
13. Nguyễn Thị Huyền (2006), Xác định nấm thủy mi nhiễm trên trứng cá Tra (Pangasianodon 
hypophthalmus) và cá Basa (Pangasius bocouri) – thử nghiệm hiệu quả phòng, Luận văn Thạc sỹ 
Sinh học, Đại Học Quốc Gia TP.HCM. 
14. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2011), Phân lập và định danh vi nấm ký sinh trên cá lóc (Channa 
striata) giai đoạn giống, Luận văn tốt nghiệp cao học, Đại Học Cần Thơ. 
15. Panchai, K., C. Hanjavanit and N. Kitancharoen (2007), Charaterristics of Achlya bisexualis 
isolated from eggs of Nile tilapia (Oreochromis niloticus Linn.), KKU Research Journal, 12 (3), 
195–202. 
16. Panchai, K., C. Hanjavanit, N. Rujinanont, S. Wada, O. Kurata, K.Hatai (2014), Freshwater 
oomycete isolated from net cage cultures of Oreochromis niloticus with water mold infection 
in the Nam Phong River, Khon Kaen Province, Thailand. AACL Bloflux, 7 (6), 529–542. 
17. Pateman, J.A. and J.R. Kinghorn (1976), Nitrogen metabolism. In: The filamentous fungi, vol. 
2, Biosynthesis and metabolism, (ed. by Smith, J.E. and Berry, D.R.), 159–237, Academic 
Press, London. 
18. Phạm Minh Đức và Nguyễn Thị Thúy Hằng (2011), Bước đầu nghiên cứu bệnh nấm thủy 
mi trên cá lóc (Channa striata) giống ở tỉnh Đồng Tháp, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông 
thôn 12, 35–43. 
19. Phạm Minh Đức, Trần Ngọc Tuấn và Trần Thị Thanh Hiền (2012), Khảo sát mầm bệnh trên 
cá lóc (Channa striata) ao nuôi thâm canh ở An Giang và Đồng Tháp, Tạp chí Khoa học Trường 
Đại Học Cần Thơ, 21b, 124–132. 
20. Rakmanee, C, C. Hanjavanit and N. Yuasa (2004), Effect of the temperature, pH and sodium 
chloride on the growth of Saprolegnia and Achlya isolated from infected eggs of African 
Đặng Thị Mai Thy và CS. Tập 126, Số 3D, 2017 
152 
catfish (Clarias gariepinus Burch) and common carp (Cyprinus carpio L.). – In: Rakmanee, C. 
M.Sc. Thesis, Khon Kaen University. 
BIOLOGICAL CHARACTERISTICS OF Achlya bisexualis 
INFECTED IN INTENSIVELY CULTURED FISH 
Đang Thuy Mai Thy*, Tran Thi Tuyet Hoa, Pham Minh Đuc 
Can Tho University, 3/2 Road, Ninh Kieu, Can Tho, Vietnam 
Abstract: This paper aims at determining the biological characteristics of Achlya bisexualis which 
causes pathogenic in some intensively cultured freshwater fish. The experiment was carried out 
on six strains of A. bisexualis isolated from striped catfish (Pangasianodon hypophthalmus), 
snakehead fish (Channa striata) and red tilapia (Oreochromis sp.). The results showed that 
optimal temperature of the strains ranged from 28 °C to 33 °C. All isolates tested grew rapidly 
at pH 6–8. The strains were unable to grow at 2.0 % salinity. The strains were able to consume 
glucose, maltose, mannose, sucrose and arabinose. A. bisexualis were able to react with NO2 5 
mM but did not react with NO2 43 mM. 
Keywords: Achlya bisexualis, red tilapia, snakehead fish, striped catfish, biochemical, strain 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_sinh_hoc_cua_vi_nam_achlya_bisexualis_nhiem_tren_ca.pdf