Đánh giá khả năng bổ sung bột đậu nành trong nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc

TÓM TẮT

Đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá khả năng thay thế hoàn toàn hoặc một

phần thức ăn cho tôm bằng bột đậu nành.Thử nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên

trong thời gian 63 ngày với bảy nghiệm thức và ba lần lặp lại. Tôm giống thả nuôi có

trọng lượng ban đầu là 0,7±0,015 g/con trên bể composite 0,5 m3 với mật độ thả nuôi

150 con/m3. Các nghiệm thức được thay thế hoàn toàn bằng bột đậu nành theo khẩu

phần giảm dần: 100%, 80% và 60% (ĐN-100, ĐN-80, ĐN-60). Các nghiệm thức thay thế

với tỷ lệ 50:50 lượng thức ăn bằng bột đậu nành tương ứng (TA50-ĐN50, TA40-ĐN40,

TA30-ĐN30) và nghiệm thức đối chứng (TA-100) tôm nuôi được cho ăn với khẩu phần

thức ăn là 100% (42% Protein, Lotus-CP). Bột gạo được bổ sung vào hệ thống với tỷ lệ

C:N=15:1 để kích thích sự phát triển của vi sinh vật trong hạt biofloc. Kết quả cho thấy

thay thế 50% thức ăn viên bằng bột đậu nành (TA50-ĐN50) trong nuôi tôm thẻ chân

trắng theo quy trình biofloc đạt tỷ lệ sống, khối lượng tôm nuôi khi thu hoạch tương

đương với nghiệm thức TA-100, trong khi đó chất lượng nước được cải thiện đáng kể so

với nghiệm thức đối chứng, giảm lần lượt TSS và VSS (71%), TAN (92%), NO2 (91%)

và Vibrio (65%). Kết quả thử nghiệm cho thấy có thể thay thế 50% thức ăn bằng bột đậu

nành trong khẩu phần thức ăn nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc. Một lợi

thế khác nữa là tôm nuôi theo quy trình biofloc không sử dụng thuốc hóa chất nên nguồn

tôm nguyên liệu tạo ra là sản phẩm sạch và an toàn sinh học.

Keywords: Bột đậu nành, bột gạo, Litopenaeus vannamei, hệ thống Biofloc

pdf 17 trang Bích Ngọc 05/01/2024 1620
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá khả năng bổ sung bột đậu nành trong nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá khả năng bổ sung bột đậu nành trong nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc

Đánh giá khả năng bổ sung bột đậu nành trong nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
198 
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG BỔ SUNG BỘT ĐẬU NÀNH 
TRONG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG 
THEO QUY TRÌNH BIOFLOC 
Tạ Văn Phương1, Nguyễn Văn Hòa2, Nguyễn Văn Bá1 
Nguyễn Xuân Linh1, Nguyễn Hải Âu2 
1Khoa Sinh học Ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô 
2Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ 
(Email: tvphuong73@gmail.com) 
Ngày nhận: 03/5/2016 
Ngày phản biện: 25/5/2017 
Ngày chấp nhận: 23/6/2017 
TÓM TẮT 
Đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá khả năng thay thế hoàn toàn hoặc một 
phần thức ăn cho tôm bằng bột đậu nành.Thử nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên 
trong thời gian 63 ngày với bảy nghiệm thức và ba lần lặp lại. Tôm giống thả nuôi có 
trọng lượng ban đầu là 0,7±0,015 g/con trên bể composite 0,5 m3 với mật độ thả nuôi 
150 con/m3. Các nghiệm thức được thay thế hoàn toàn bằng bột đậu nành theo khẩu 
phần giảm dần: 100%, 80% và 60% (ĐN-100, ĐN-80, ĐN-60). Các nghiệm thức thay thế 
với tỷ lệ 50:50 lượng thức ăn bằng bột đậu nành tương ứng (TA50-ĐN50, TA40-ĐN40, 
TA30-ĐN30) và nghiệm thức đối chứng (TA-100) tôm nuôi được cho ăn với khẩu phần 
thức ăn là 100% (42% Protein, Lotus-CP). Bột gạo được bổ sung vào hệ thống với tỷ lệ 
C:N=15:1 để kích thích sự phát triển của vi sinh vật trong hạt biofloc. Kết quả cho thấy 
thay thế 50% thức ăn viên bằng bột đậu nành (TA50-ĐN50) trong nuôi tôm thẻ chân 
trắng theo quy trình biofloc đạt tỷ lệ sống, khối lượng tôm nuôi khi thu hoạch tương 
đương với nghiệm thức TA-100, trong khi đó chất lượng nước được cải thiện đáng kể so 
với nghiệm thức đối chứng, giảm lần lượt TSS và VSS (71%), TAN (92%), NO2 (91%) 
và Vibrio (65%). Kết quả thử nghiệm cho thấy có thể thay thế 50% thức ăn bằng bột đậu 
nành trong khẩu phần thức ăn nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc. Một lợi 
thế khác nữa là tôm nuôi theo quy trình biofloc không sử dụng thuốc hóa chất nên nguồn 
tôm nguyên liệu tạo ra là sản phẩm sạch và an toàn sinh học. 
Keywords: Bột đậu nành, bột gạo, Litopenaeus vannamei, hệ thống Biofloc 
Trích dẫn: Tạ Văn Phương, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Xuân Linh và 
Nguyễn Hải Âu, 2017. Đánh giá khả năng bổ sung bột đậu nành trong nuôi 
tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và 
Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 01: 198-214. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
199 
1. ĐẶTVẤN ĐỀ 
Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus 
vannamei) được nuôi phổ biến trên 
thế giới (gần 80%), sản lượng tôm 
năm 2010 gần 4 triệutấn. Năm 2011 
và 2012 sản lượng giảm 9,7% còn xấp 
xỉ 3,5 triệu tấn (AquacultureAsia, 
2015). Sụt giảm sản lượng tôm năm 
2012 là do bùng phát hội chứng tôm 
chết sớm (EMS) tại một số nước châu 
Á (FAO, 2013). Để hạn chế dịch bệnh 
lây nhiễm mô hình nuôi tôm ít thay 
nước trở nên phổ biến nhằm tăng 
cường an toàn sinh học (McIntosh, 
2001). Tuy nhiên, lại tích lũy dinh 
dưỡng, đặc biệt là ammonia (TAN). 
Thực vật phù du có thể được hấp thụ 
và đồng hóa TAN (Burford et al. 
2004). Nhưng, thực vật phù du chủ 
yếu phân bố ở tầng nước mặt, trong 
khi sự tích lũy của ammonia ở tầng 
đáy lại cao, nên đây có thể xem là sự 
bất lợi (Lê Văn Cát, 2007). Theo 
Avnimelech (1999), nuôi trồng thủy 
sản thâm canh theo quy trình Biofloc 
có nhiều lợi ích (i) cải thiện chất 
lượng nước, không gây ô nhiễm môi 
trường (ii) ít bùng phát dịch bệnh (iii) 
có thể nuôi với mật độ cao và (iv) tiết 
kiệm chi phí thức ăn. Nghiên cứu 
nhằm đánh giá khả năng thay thế thức 
ăn bằng bột đậu nành trong nuôi tôm 
thẻ theo quy trình biofloc góp phần 
tiết kiệm chi phí thức ăn, tăng lợi 
nhuận và không ảnh hưởng đến năng 
suất tôm nuôi. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên 
cứu 
Thí nghiệm được tiến hành từ tháng 
3 đến tháng 5 năm 2014, tại trại thực 
nghiệm thủy sản khoa Sinh học Ứng 
dụng - Trường Đại học Tây Đô. 
2.2. Vật liệu nghiên cứu 
Giống tôm thẻ chân trắng có 
khốilượng 0,7±0,1 g/con, được nuôi 
trên bể composite 0,5 m3 với thể tích 
nuôi là 0,25 m3 và mật độ nuôi 150 
con/m3. Nước nuôi được pha từ nguồn 
nước ót Vĩnh Châu - Sóc Trăng 
(75‰) và nước máy thành phố Cần 
Thơ thành nước có độ mặn 15‰. 
Nước được xử lý bằng chlorine 30 
ppm trong 48 giờ bằng cách sục khí 
mạnh trong 72 giờ. 
Bột gạo được sử dụng với nhãn 
hiệu (AAA) được mua từ chợ SADEC 
- tỉnh Đồng Tháp với hàm lượng 
carbohydrate là 73,43% và Nitrogen 
là 0,26 % N. Bột gạo được gia nhiệt 
40oC trong 2 giờ và được ủ 48 giờ, 
sau đó điều chỉnh pH=7 bằng CaCO3 
(Tạ Văn Phương ctv. 2013). 
Bột đậu nành được mua từ đậu 
nành nguyên liệu sử dụng trong chăn 
nuôi với hàm lượng protein là 45% 
(7,2 %N). Tôm được cho ăn hoàn toàn 
bằng bột đậu nành (45% protein) được 
tính theo Nitơ (Nitrogen có trong thức 
ăn) với tỷ lệ 60%, 80%, 100%. Thức 
ăn sử dụng là thức ăn hiệu Lotus của 
công ty CP - Việt Nam với hàm lượng 
protein là 42% (6,72 %N). 
2.3. Bố trí thí nghiệm 
Thí nghiệm được bố trí gồm 7 
nghiệm thức (Bảng 1) hoàn toàn ngẫu 
nhiên, lượng thức ăn bổ sung vào bể 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
200 
nuôi được tính trên hàm lượng đạm 
100% từ thức ăn (Roy et al. 2012) và 
cách tính C:N dựa trên nguyên tắc 
tính của Avnimelech (1999). 
Bảng 1. Bố trí thí nghiệm 
NT 
Mật độ 
(con/m3) 
Tỷ lệ C:N Diễn giải 
ĐN-100 150 15:1 Nghiệm thức cho ăn 100% đậu nành (ĐN) 
ĐN-80 150 15:1 Đậu nành (80% so với lượng thức ăn của ĐC) 
ĐN-60 150 15:1 Đậu nành (60% so với lượng thức ăn của ĐC) 
TA50-ĐN50 150 15:1 Thức ăn (50%) + Đậu nành (50%) 
TA40-ĐN40 150 15:1 Thức ăn (40%) + Đậu nành (40%) 
TA30-ĐN30 150 15:1 Thức ăn (30%) + Đậu nành (30%) 
TA-100 (ĐC) 150 15:1 Nghiệm thức cho ăn 100% thức ăn (TA) 
Chăm sóc và quản lý: tôm được 
cho ăn ngày 4 lần (6, 10, 14 và 18 giờ) 
và lượng thức ăn được tính theo công 
thức Y = 13.39W-0.5558 (Wyk et al. 
1999). Trong đó Y là khẩu phần (%) 
thức ăn được tính theo trọng lượng 
thân W (g). 
2.4. Các chỉ tiêu theo dõi 
Trước khi tiến hành bố trí thí 
nghiệm, tiến hành thu mẫu ban đầu, 
định kỳ thu mẫu và phân tích để theo 
dõi các chỉ tiêu trong suốt quá trình 
thí nghiệm. Tùy vào từng chỉ tiêu mà 
nhịp thu mẫu và phương pháp thu 
mẫu sẽ khác nhau. Phương pháp thu 
mẫu: tất cả các mẫu đều được thu vào 
buổi sáng, lúc 7 giờ. Thu mẫu thủy 
hóa và mẫu Biofloc vào trong chai 
nhựa, bảo quản lạnh ở 4oC (Bảng 2). 
Bảng 2. Các chỉ tiêu thu mẫu và phân tích mẫu 
STT Chỉ tiêu Nhịp thu mẫu Phương pháp phân tích 
I Mẫu nước 
1 pH 2 lần/ngày Máy đo pH 
2 Nhiệt độ 2 lần/ngày Nhiệt kế 
3 Độ đục 7 ngày/lần Đo bằng máy quang phổ 
4 Độ kiềm 7 ngày/lần Chuẩn độ acid 
5 TAN 7 ngày/lần Indophenol blue 
6 N-NO2- 7 ngày/lần Diazonium 
7 TSS-VSS 7 ngày/lần Lọc, sấy 1050C và nung 5500C 
II Mẫu sinh vật 
8 Thực vật 7 ngày/lần Phân tích định tính, định lượng 
9 Động vật 7 ngày/lần Phân tích định tính, định lượng 
10 Vi khuẩn tổng 7 ngày/lần Môi trường NA+ 
11 Vi khuẩn Vibrio 7 ngày/lần Môi trường TCBS 
III Mẫu Biofloc 
12 Lượng Biofloc 7 ngày/lần Đo thể tích bằng ống đong 
13 Cở hạt Bifoloc 7 ngày/lần Trắc vi thị kính 
IV Mẫu tôm 
14 Tỷ lệ sống 1lần/vụ Thu và đếm số tôm trong bể 
15 Trọng lượng tôm 7 ngày/lần Sử dụng cân điện tử 1 số lẻ 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
2 
2.5. Xử lý số liệu 
Các số liệu thu thập được tính toán 
các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, 
tối đa, tối thiểu, vẽ đồ thị bằng phần 
mềm Excel, xử lý thống kê bằng 
ANOVA một nhân tố và phép thử 
Duncan bằng SPSS 22.0. 
3. KẾT QUẢ THẢO LUẬN 
3.1. Các yếu tố thủy lý hóa 
3.1.1. Nhiệt độ và pH 
Kết quả cho thấy nhiệt độ nước 
buổi sáng và buổi chiều giữa các 
nghiệm thức không có sự khác biệt 
(p> 0,05). Trong suốt quá trình thí 
nghiệm, nhiệt độ nước bể nuôi dao 
động trong khoảng 27-28,5oC phù hợp 
cho sự phát triển của tôm thẻ chân 
trắng (Trần Viết Mỹ, 2009). 
Bảng 3. Biến động nhiệt độ và pH trong thí nghiệm 
Nghiệm thức 
Nhiệt độ (oC) pH 
Sáng Chiều Sáng Chiều 
ĐN-100 27,3±0,33 27,9±0,32 7,95±0,06 7,99±0,05 
ĐN-80 27,4±0,35 27,9±0,37 7,95±0,06 7,98±0,05 
ĐN-60 27,4±0,35 27,9±0,37 7,95±0,06 7,98±0,04 
TA50-ĐN50 27,4±0,35 27,9±0,40 7,94±0,05 7,99±0,04 
TA40-ĐN40 27,3±0,34 27,9±0,34 7,95±0,06 7,98±0,05 
TA30-ĐN30 27,3±0,34 27,9±0,39 7,95±0,06 7,98±0,05 
TA-100 (ĐC) 26,9±1,16 27,8±1,25 7,91±0,59 8,21±0,49 
Ghi chú: Các trị số theo sau (±) biểu thị độ lệch chuẩn của các giá trị trung bình 
nghiệm thức (n=3) 
Qua Bảng 3 cho thấy pH dao động 
trong khoảng 7,9-8,2 đây là khoảng 
thích hợp cho sự phát triển của tôm 
7,7-8,3 (Bùi Quang Tề, 2009) và 
không khác biệt giữa các nghiệm thức 
(p>0,05). 
3.1.2. Độ kiềm 
Trong thí nghiệm độ kiềm được 
kiểm tra thường xuyên và cho thấy độ 
kiềm của nước trong bể nuôi ở các 
nghiệm thức dao động trong khoảng 
60-150 mgCaCO3/L. Độ kiềm trong 
thí nghiệm rất phù hợp cho sự tăng 
trưởng và phát triển của tôm nuôi thẻ 
chân trắng (Trần Viết Mỹ, 2009). 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
202 
Hình 1. Biến động Độ kiềm giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05) 
Qua Hình 1 cho thấy ở các nghiệm 
thức cho tôm ăn hoàn toàn bằng bột 
đậu nành thì độ kiềm dao động tương 
đối đồng đều và điều này đã minh 
chứng rằng mật độ vi khuẩn dị dưỡng 
đã tạo OH- nên làm cho độ kiềm có xu 
hướng tăng lên từ ngày 28 về cuối thí 
nghiệm (Lê Quang Huy và ctv. 2009). 
3.1.3. Độ đục 
Độ đục ở các nghiệm thức ĐN-100 
cho độ đục cao nhất lên đến 210 NTU 
ở thời điểm tôm đã lớn (hơn 49 ngày) 
nên ít gây ảnh hưởng cho tôm. Trong 
khi đó ở nghiệm thức cho tôm thẻ 
chân trắng ăn thức ăn kết hợp bột đậu 
nành thì độ đục thấp hơn dao động 
trong khoảng từ 9-44 NTU. 
Hình 2. Biến động Độ đục giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCTtheo quy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05) 
Qua Hình 2 cho thấy độ đục giữa 
nghiệm thức cho tôm ăn hoàn toàn 
bằng bột đậu nành cao hơn so với các 
nghiệm thức cho ăn có kết hợp giữa 
thức ăn và bột đậu nành (p<0,05) và 
độ đục có xu hướng tăng dần theo thời 
gian bố trí thí nghiệm. Kết quả thí 
nghiệm cho thấy độ đục ở nghiệm 
ccc
bcbb
a
0
20
40
60
80
100
120
140
160
TA-100 ĐN80 ĐN-100 ĐN60 TA30-ĐN30 TA50-ĐN50 TA40-ĐN40
Đ
ộ
 k
iề
m
 (
m
g
C
a
C
O
3
/L
)
a a a 
 ab 
 b
 b b
-
30
60
90
120
150
180
TA30-ĐN30 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50 TA-100 ĐN60 ĐN80 ĐN-100
Đ
ộ
 đ
ụ
c 
(N
T
U
)
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
thứcTA-100 không có sự khác biệt 
với các nghiệm thức còn lại (p>0,05). 
Độ đục ở các nghiệm thức hoàn toàn 
bằng bột đậu nành cho thấy độ đục 
khá cao, nhưng chưa vượt quá so với 
mức đề nghị của Avnimelech, (2009) 
là từ 75-150 NTU. 
3.1.4. Tổng vật chất lơ lửng (TSS) 
Qua Hình 3 cho thấy TSS ở các 
nghiệm thức cho tôm ăn hoàn toàn 
bằng bột đậu nành đều cao hơn so với 
các nghiệm thức cho tôm ăn thức ăn 
có kết hợp bột đậu nành (p<0,05) do 
tôm không ăn trực tiếp bột đậu nành 
(hạt mịn) mà chúng chỉ ăn được thông 
qua hạt biofloc, nên hàm lượng vật 
chất lơ lửng khá (108 - 384 mg/L). 
Nghiệm thức TA-100 lại cho hàm 
lượng TSS cao nhất là (384 mg/L) 
điều này cho thấy ở TA-100 lượng 
thức ăn có thể dư thừa so với đề nghị 
của Wasielesky et al. (2013) cho rằng 
nuôi tôm thẻ chân trắng trong hệ 
thống biofloc nên duy trì ở mức từ 
200-400 mg/L. 
Hình 3. Biến động TSS giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy trình 
biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05) 
3.1.5. Vật chất lơ lửng dễ bay hơi 
(VSS) 
Từ Hình 4 cho thấy vật chất lơ lửng 
dễ bay hơi của các nghiệm thức cho 
tôm ăn hoàn toàn bằng bột đậu nành 
cao hơn nhiều so với các nghiệm thức 
cho tôm ăn thức ăn kết hợp bột đậu 
nành (p<0,05) và cao nhất ở ĐN-100 
(184 mg/L), trong khi đó ở TA50-
ĐN50 là 52,5 mg/L. 
c
b
b
b
aaa
0
100
200
300
400
500
600
TA30-ĐN30 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50 ĐN-60 ĐN-80 ĐN-100 TA-100
H
à
m
 l
ư
ợ
n
g
 T
S
S
 (
m
g
/L
)
203 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
204 
Hình 4. Biến động VSS giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy trình 
biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05) 
Từ các Hình 2, Hình 3 và Hình 4 
cho thấy khi cho tôm ăn thức ăn kết 
hợp bột đậu nành thì có độ đục, tổng 
vật chất lơ lửng và vật chất lơ lửng dễ 
bay hơi đều thấp hơn so với các 
nghiệm thức chỉ cho tôm ăn bằng bột 
đậu nành, điều này có thể đã ảnh 
hưởng đến tỷ lệ sống của tôm nuôi. 
3.1.6. Tỷ lệ vật chất lơ lửng dễ bay hơi 
trong tổng vật chất lơ lửng (VSS/TSS) 
Từ Hình 5 cho thấy ở các nghiệm 
thức cho tôm ăn hoàn toàn bằng bột 
đậu nành có tỷ lệ vật chất hữu cơ 
khoáng hóa trong tổng vật chất lơ 
lửng cao hơn so với các nghiệm thức 
cho tôm ăn thức ăn kết hợp bột đậu 
nành (p<0,05). 
Hình 5. Biến động Tỷ lệ VSS/TSS giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm theoquy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05) 
a a
 a 
b
 b
b b
-
50
100
150
200
250
300
TA30-ĐN30 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50 ĐN-60 ĐN-80 TA-100 ĐN-100
H
à
m
 l
ư
ợ
n
g
 V
S
S
 (
m
g
/L
)
 a a
 a a
b b b 
-
20
40
60
80
100
TA40-ĐN40 TA30-ĐN30 TA-100 TA50-ĐN50 ĐN-60 ĐN-80 ĐN-100
T
ỷ
 l
ệ
 V
S
S
/T
S
S
 (
%
)
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
 3.1.7. Tổng ammonia (TAN) 
Qua Hình 6 cho ta thấy hàm lượng 
TAN của các nghiệm thức cho tôm ăn 
thức ăn kết hợp bột đậu nành thấp hơn 
(0,03-0,44 mg/L) so với các nghiệm 
thức cho tôm ăn hoàn toàn bằng bột 
đậu nành (0,96-1,93 mg/L) hay 
nghiệm thức TA-100 (4,2 mg/L) 
(p<0,05). 
Hình 6. Biến động TAN giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05) 
Kết quả thí nghiệm cho thấy ở 
nghiệm thức cho tôm ăn hoàn toàn 
bằng bột đậu nành hàm lượng tổng 
đạm ammonia khá cao, dao động từ 
0,96-1,32 mg/L tại thời điểm tôm đã 
được bố trí hơn 20 ngày, khả năng 
chịu đựng của tôm giống lớn tương 
đối tốt nên ít gây ảnh hưởng đến tăng 
trưởng cũng như tỷ lệ sống của tôm. 
3.1.8. Nitrite (NO2-) 
Qua Hình 7 cho thấy, ở các nghiệm 
thức cho tôm ăn thức ăn có bổ sung 
bột đậu nành thì hàm lượng nitrite rất 
thấp so với nghiệm thức TA-100 có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). 
Hình 7. Biến động NO2- giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký ... ho tôm ăn hoàn toàn bằng bột đậu 
nành và nghiệm thức cho tôm ăn thức 
ăn kết hợp bột đậu nành. Ở các 
nghiệm thức cho tôm ăn hoàn toàn 
bằng bột đậu nành thì lượng Rotifera 
dao động từ 17-67 ct/ml, thấp hơn so 
với Protozoa 111 ct/mL. 
Hình 9. Biến động Rotifera giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05) 
Mật độ Rotifera không có sự khác 
biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). 
Qua đây cho thấy mật độ Rotifera gần 
tương đương với mật độ Protozoa và 
chúng được xem là nguồn thức ăn tốt 
cho tôm nuôi (Vũ Ngọc Út và Dương 
Thị Hoàng Oanh, 2013). 
3.2.3. Tổng vi khuẩn 
Qua Hình 10 cho thấy, ở nghiệm 
thức cho tôm ăn hoàn toàn bằng bột 
đậu nành thì có mật độ vi khuẩn tổng 
thấp hơn so với nghiệm thức cho tôm 
ăn bằng thức ăn kết hợp bột đậu nành 
và cao nhất là 210.500 CFU/mL, 
trong khi ở nghiệm thức cho tôm thức 
ăn kết hợp bột đậu nành là 529.000 
CFU/mL. Do khi cho tôm ăn thức ăn 
kết hợp bột đậu nành thì độ đục, tổng 
vật chất lơ lửng và vật chất lơ lửng dễ 
bay hơi thấp vào thời điểm độ kiềm 
tăng làm cho mật độ vi khuẩn di 
dưỡng phát triển nhanh. Ở nghiệm 
thức TA40-ĐN40 và TA50-ĐN50 mật 
độ tổng vi khuẩn cao hơn so với các 
nghiệm thức còn lại khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05) ngoại trừ 
nghiệm thức TA-100 (p>0,05). 
a a a a
a a
a
0
7
14
21
28
35
42
49
56
63
ĐN-100 TA40-ĐN40 ĐN-80 TA30-ĐN30 TA-100 TA50-ĐN50 ĐN-60
M
ậ
t 
đ
ộ
 R
o
ti
fe
ra
 (
ct
/m
L
)
207 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
Hình 10. Tổng vi khuẩn giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê 
(p>0,05). 
3.2.4. Vi khuẩn Vibrio 
Qua Hình 11 cho thấy mật độ vi 
khuẩn Vibrio ở các nghiệm thức cho 
tôm ăn thức ăn kết hợp bột đậu nành 
(530-3.570 CFU/mL) thấp hơn so với 
nghiệm thức TA-100 (12.700 
CFU/mL) có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05) ngoại trừ nghiệm thức ĐN-
80 (p>0,05). 
Hình 11. Vi khuẩn Vibrio giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy 
trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê 
(p>0,05). 
Nhìn chung, ở các nghiệm thức cho 
tôm ăn hoàn toàn bằng bột đậu nành 
thì vi khuẩn Vibrio có mật độ thấp và 
không có sự khác biệt (p>0,05). 
3.3. Các yếu tố về biofloc 
3.3.1. Kích cỡ hạt biofloc 
Qua Hình 12 cho thấy, kích thước 
hạt biofloc trong các nghiệm thức cho 
 a 
 a
 a a 
 ab
 bc
c
-
100.000
200.000
300.000
400.000
500.000
600.000
ĐN-80 ĐN-60 ĐN-100 TA30-ĐN30 TA-100 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50
T
ổ
n
g
 v
i 
k
h
u
ẩ
n
 (
C
F
U
/m
L
)
 a a
 a a 
a
ab
 b 
-
2.000
4.000
6.000
8.000
10.000
12.000
14.000
TA30-ĐN30 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50 ĐN-100 ĐN-60 ĐN-80 TA-100
V
i 
k
h
u
ẩ
n
 V
ib
ri
o
 (
C
F
U
/m
L
)
208 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
tôm ăn hoàn toàn bằng bột đậu nành 
có kíchcỡ hạt biofloc lớn hơn so với 
các nghiệm thức cho tôm ăn thức ăn 
kết hợp bột đậu nành (p<0,05). 
Hình 12. Kích cỡ hạt biofloc giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy 
trình biofloc. Các nghiệm thức có cùng ký tự thường (a, b) hoặc ký tự hoa (A, B) biểu thị 
sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05). 
Riêng các nghiệm thức cho tôm ăn 
thức ăn kết hợp bột đậu nành hay chỉ 
cho ăn bằng bột đậu nành thì khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Kích thước hạt biofloc lớn nhất của 
các nghiệm thức cho tôm ăn hoàn toàn 
bằng bột đậu nành từ 14-21 ngày và 
sau đó ổn định từ ngày 42 trở về cuối 
thí nghiệm. Ở các nghiệm thức cho 
tôm ăn thức ăn có kết hợp bột đậu 
nành thì kích cỡ hạt biofloc nhỏ hơn 
so với các nghiệm thức cho tôm ăn 
hoàn toàn bằng bột đậu nành 
(p<0,05). 
3.3.2. Lượng biofloc 
Qua Hình 13 cho thấy thể tích 
biofloc ở các nghiệm thức cho tôm ăn 
hoàn toàn bằng bột đậu nành cao hơn 
so với các nghiệm thức cho ăn kết hợp 
(p<0,05). 
Hình 13. Lượng biofloc (FVI) giữa các nghiệm thức trong nuôi tôm TCT theo quy trình 
biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê 
(p>0,05). 
 b b 
 b 
 a a a 
 a 
 B
 B
 B
 A A A
 A 
-
0,4
0,8
1,2
1,6
2,0
2,4
TA-100 TA30-ĐN30 TA50-ĐN50 TA40-ĐN40 ĐN-60 ĐN-80 ĐN-100
K
íc
h
 c
ở
 B
io
fl
o
c
 (
m
m
)
Floc-D Floc-R
 a a a
 a
b 
b
b 
-
5
10
15
20
25
30
35
40
TA30-ĐN30 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50 TA-100 ĐN-60 ĐN-80 ĐN-100
L
ư
ợ
n
g
 B
io
fl
o
c
 (
m
l/
L
)
209 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
Lượng biofloc (FVI) trong các 
nghiệm thức chỉ cho tôm ăn bằng bột 
đậu nành, lượng FVI luôn cao hơn 15 
ml/L nên có thể gây ảnh hưởng đến 
tăng trưởng cũng như tỷ lệ sống của 
tôm nuôi (Avnimelech, 2009). 
3.4. Kết quả tăng trưởng, tỷ lệ sống 
và sinh khối tôm nuôi 
3.4.1. Khối lượng tôm nuôi 
Qua thí nghiệm cho thấy nghiệm 
thức cho khối lượng cao nhất lần lượt 
là TA-100 và TA50-ĐN50 tương ứng 
11,97 g/con; 11,70 g/con và khác biệt 
so với các nghiệm thức còn lại 
(p<0,05). Nghiệm thức cho kết quả 
khá tốt là nghiệm thức TA40-ĐN40 
cao hơn so với các nghiệm thức 
(p<0,05). Nếu lấy nghiệm thức TA-
100 là chuẩn (100%) để so sánh về 
khối lượng tôm nuôi thì nghiệm thức 
ĐN-60 (46%), ĐN-80 (58%), TA30-
ĐN30 (73%), ĐN-100 (75%), TA40-
ĐN40 (91%) và TA50-ĐN50 (98%). 
Như vậy, có thể sử dụng bột đậu nành 
thay thế một phần thức ăn (TA50-
ĐN50; TA40-ĐN40) trong nuôi tôm 
thẻ chân trắng theo quy trình biofloc. 
Hình 14. Sự tăng trưởng cảu tôm TCT giữa các nghiệm thức nuôitheo quy trình biofloc 
Trong nuôi trồng thủy sản thì chi 
phí thức ăn là một trong những chi phí 
quyết định đến hiệu quả kinh tế, chi 
phí này thường chiếm khoảng 50-70% 
trong tổng chi phí tôm (Lê Xuân Sinh, 
2010). Vì vậy, để giảm được chi phí 
mà vẫn đảm bảo được tăng trưởng và 
sinh khối của tôm nuôi là yếu tố vô 
cùng quan trọng trong nuôi tôm 
thương phẩm và là vấn đề được quan 
tâm bởi sẽ mang lại hiệu quả kinh tế 
cho người nuôi. 
3.4.2. Tỷ lệ sống 
Qua Hình 15 cho thấy tỷ lệ sống 
của tôm ở nghiệm thức cho ăn hoàn 
toàn bằng bột đậu nành thấp hơn so 
với các nghiệm thức cho tôm ăn thức 
ăn kết hợp bột đậu nành khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). 
-
2,0
4,0
6,0
8,0
10,0
12,0
14,0
D1 D7 D14 D21 D28 D35 D42 D49 D56 D63
K
h
ố
i 
lư
ợ
n
g
 (
g
/c
o
n
)
ĐN-100 TA50-ĐN50
ĐN-80 TA40-ĐN40
ĐN-60 TA30-ĐN30
TA-100
210 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
Hình 15. Tỷ lệ sống của tôm TCT giữa các nghiệm thức nuôi theo quy trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05). 
Tôm trong các nghiệm thức cho 
tôm ăn hoàn toàn bằng bột đậu nành 
tôm không thể ăn trực tiếp mà phải 
đợi một thời gian khi hạt biofloc được 
hình thành thì tôm mới có thể ăn; 
đồng thời, ở các nghiệm thức này 
nồng độ tổng ammonia và Protozoa 
cao hơn so với các nghiệm thức cho 
tôm ăn thức ăn kết hợp bột đậu nành. 
Nhìn chung, tỷ lệ sống của các 
nghiệm thức TA-100, TA50-ĐN50 và 
TA40-ĐN40 là cao nhất và giữa 
chúng không có sự khác biệt (p>0,05). 
3.4.3. Sinh khối tôm nuôi 
Qua Hình 16 cho thấy, nghiệm thức 
TA-100 và TA50-ĐN50 có sinh khối 
tôm nuôi cao nhất lần lượt là 1.387 
g/m3 và 1.428 g/m3 so với các 
nghiệm thức còn lại (p<0,05) và giữa 
chúng không có sự khác biệt (p>0,05). 
Hình 16. Sinh khối của tôm TCT giữa các nghiệm thức nuôi theo quy trình biofloc 
Các nghiệm thức có cùng ký tự biểu thị sự khác biệt không có nghĩa thống kê (p>0,05). 
Nếu chọn nghiệm thức TA-100 làm 
chuẩn (100%) thì sinh khối lần lượt 
theo thứ tự ĐN-60 (26%) < ĐN-80 
(35%) < ĐN-100 (46%) < TA30-
ĐN30 (57%) < TA40-ĐN40 (77%) < 
TA50-ĐN50 (97%). Qua đây, có thể 
nhận định rằng tôm nuôi hoàn toàn có 
thể sử dụng biofloc làm thức và khả 
a a
a
b
bc
c c
0%
20%
40%
60%
80%
100%
ĐN-60 ĐN-80 ĐN-100 TA30-ĐN30 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50 TA-100
T
ỷ
 l
ệ
 s
ố
n
g
 f 
 a 
b 
c 
d 
 e 
 f 
-
200
400
600
800
1.000
1.200
1.400
1.600
1.800
ĐN-60 ĐN-80 ĐN-100 TA30-ĐN30 TA40-ĐN40 TA50-ĐN50 TA-100
S
in
h
 k
h
ố
i 
(g
/m
3
)
211 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
năng bổ sung thay thế thức ăn bằng 
bột đậu nành lên đến 50% mà không 
ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, tăng trưởng 
và năng suất tôm nuôi trong điều kiện 
nuôi theo quy trình biofloc có bổ sung 
bột gạo (C:N=15:1) với mật độ nuôi 
150 con/m3 mà không cần thay nước, 
si phong hay sử dụng bất cứ thuốc hay 
hóa chất nào trong suốt quá trình nuôi. 
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
4.1. Kết luận 
- Nghiệm thức TA50-ĐN50 chất 
lượng nước bể nuôi được cải thiện 
giảm lần lượt như: TSS và VSS 
(71%), TAN (92%), NO2- (91%) vi 
khuẩn Vibrio (65%) đồng thời các yếu 
tố độ kiềm tăng 48% và tổng vi khuẩn 
tăng 63%, các yếu cải thiện rõ ràng và 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
- Bột đậu nành hoàn toàn có khả 
năng bổ sung thay thế 50% vào khẩu 
phần thức ăn trong nuôi tôm thẻ theo 
quy trình biofloc mà không làm ảnh 
hưởng đến tỷ lệ sống tăng trưởng và 
năng suất tôm nuôi so với cho tôm ăn 
hoàn toàn bằng thức ăn (ĐC). 
- Qua thí nghiệm cho thấy tôm thẻ 
chân trắng nuôi theo quy trình biofloc 
hoàn toàn tạo ra nguồn nguyên liệu 
tôm sạch và mang tính bền vững bởi 
không sử dụng thuốc hóa chất hay 
không thải nước giàu dinh dưỡng ra 
môi trường. 
4.2. Đề xuất 
Cần bổ sung bột đậu nành trước 
khoảng 4 tuần để chuẩn bị sẵn quần 
thể tổng vi khuẩn hay lượng biofloc ở 
mức cao và môi trường ổn định trước 
khi thả tôm nuôi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aquaculture Asia Pacific, 2015. 
Marine Shrimp in Asia in 2014: 
Production Trends. Zuridah 
Merican. Volume 11, Number 1, 
Page 18, January/February 2015. 
2. Avnimelech Y, 1999. Carbon and 
nitrogen ratio as a control element in 
aquaculture systems. Aquaculture 
176: 227–235. 
3. Avnimelech Y., 2009. Biofloc 
Technology – A Practical Guide 
Book. The Word Aquaculture Society, 
Baton Rounge, Louisiana, United 
State.182 pp. 
4. Bùi Quang Tề, 2009. Nuôi thâm 
canh tôm đảm bảo an toàn vệ sinh 
thực phẩm theo mô hình GAP. Bộ 
nông nghiệp và phát triển nông thôn. 
Trung tâm khuyến nông khuyến ngư 
quốc gia. 
5. Burford MA, Thompson PJ, 
McIntosh RP, Bauman RH, Pearson 
DC, 2004. The contribution of 
flocculated material to shrimp 
(Litopenaeus vannamei) nutrition in a 
highintensity, zero-exchange system. 
Aquaculture 232:525–537. 
6. Lê Quang Huy, Nguyễn Phước 
Dân, Nguyễn Thanh Phong, 2009.Ứng 
dụng quá trình thiếu khí từng mẻ để 
xử lý oxit nitơ nồng độ cao trong nước 
rác cũ.Trường Đại học Bách khoa, 
ĐHQG-HCM. Science & Technology 
Development, Vol 12, No.02 - 2009. 
Trang 64-73. 
7. Lê Văn Cát, 2007. Xử lý nước thải 
giàu hợp chất nitơ và photpho.Nhà 212 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công 
nghệ Hà Nội, 2007. 
8. Lê Xuân Sinh, 2010. Kinh tế thủy 
sản.Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. 
9. McIntosh D, Samocha TM, Jones 
ER, Lawrence AL, Horowitz S, 
Horowitz A, 2001. Effects of two 
commercially available low protein 
diets (21% and 31%) on water 
sediment quality, and on the 
production of Litopenaeus vannamei 
in an outdoor tank system with limited 
water discharge. Aquac Eng 25:69–
82. 
10. Roy Luke A., D. Allen Davis and 
Gregory N. Whitis, 2012. Effect of 
Feeding Rate and Pond Primary 
Productivity on Growth of 
Litopenaeus vannamei Reared in 
Inland Saline Waters of West 
Alabama. North American Journal of 
Aquaculture 74:20–26, 2012. 
American Fisheries Society 2012. 
ISSN: 1522-2055 print / 1548-8454 
11. Tạ Văn Phương Nguyễn Văn Bá 
và Nguyễn Văn Hòa, 2013. Thử 
nghiệm nuôi tôm thẻ chân trắng theo 
quy trình biofloc từ giai đoạn PL15-
PL45. Tạp chí CNSH, Nhà xuất bản 
ĐHCT. 
12. Trần Viết Mỹ, 2009. Cẩm nang 
nuôi tôm chân trắng thâm canh 
(Penaeus vannamei).Sở nông nghiệp 
và phát triển nông thôn TP. Hồ Chí 
Minh, Trung tâm Khuyến nông.Nhà 
xuất bản nông nghiệp. 
13. Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng 
Oanh, 2013. Giáo trình Thực vật và 
động vật thủy sinh.Nhà Xuất bản Đại 
Học Cần Thơ. 
14. Wyk, P. V., Samocha, T.M., A.D. 
David, A.L. Lawrence, C.R. Collins, 
1999. Intensive and super-intensive 
production of the Pacific White 
Litopenaeus vannamei in greenhouse 
– enclose raceway system. In Book of 
abstracts, Aquaculture Lake Buena 
Visa, L, 573p. 
213 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 01 - 2017 
EVALUATION OF SOYBEAN MEAL AS REPLACEMENT FOR SHRIMP FEED 
IN CULTURE OF WHITE SHRIMP APPLYING BIOFLOC TECHNOLOGY 
Ta Van Phuong1, Nguyen Van Hoa2, Nguyen Van Ba1, 
Nguyen Xuan Linh1 and Nguyen Hai Au2 
1Faculty of Applied Biology, Tay Do University 
(Email: tvphuong73@gmail.com) 
2Faculty of Aquaculture & Fisheries, Can Tho University 
ABSTRACT 
The study aimed to evaluate a possibility to subtitute/replace partly or completely 
commercial feed by soya meal in white leg shrimp (Litopenaeus vannamei) culture. A 
randomized set-up of seven treatments and three replicates each was carried out during 
63-day experiment. An initial PL of 0.7±0.015 g/ind. with density of 150 PL/m3were 
cultured in composite tanks of 0.5 m3. Treatments with pellet replacement were declining 
in respective rates of 100%, 80% và 60% (i.e. soya meal-100, soya meal-80, and soya 
meal-60). And those were repalced with soya-meal in a ratio of 50:50 in corresponding 
to (pellet 50-Soya meal 50, pellet 40-soya meal 40, and pellet 30-soya meal 30, 
respectively) and the control was 100 % pellet (pellet-100); shrimp was fed with Lotus 
pellet (42% Protein, Lotus-CP). Rice flour (as carbon source) was supplied at a ratio of 
C:N = 15:1 in order to stimulate a growth of bacteria in biofloc particles. Results 
indicated that replacing pellet by soya meal at a ratio of 50% (pellet 50-soya meal 50) 
in tank culture of white leg shrimp with biofloc technology (BFT) led to non significant 
difference in term of survial, and biomass at harvest, while water quality was 
considerably improved compared to the control (pellet-100). There were significant 
decline/reduction of TSS and VSS (71%), TAN (92%), NO2
- (91%) and Vibrio (65%) 
compared to the control. These helps to conclude that replacing 50% of pellet in white 
leg shrimp in BFT system is possible. Moreover, to produce shrimp under BFT without 
applying drugs/chemicals help to produce shrimps as clean and biosecurity products. 
Keywords: Soybean meal, Rice flour, Litopenaeus vannamei, Biofloc system 
214 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_kha_nang_bo_sung_bot_dau_nanh_trong_nuoi_tom_the_ch.pdf