Đánh giá yếu tố kỹ thuật và hiệu quả tài chính trong nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc tại Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh một số yếu tố kỹ thuật và hiệu quả tài chánh của
mô hình nuôi tôm thẻ theo quy trình biofloc và nuôi theo quy trình truyền thống. Đề tài
được thực hiện tại xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre, trên 6 ao nuôi với diện tích
0,3 ha/ao, trong đó ba ao nuôi theo quy trình biofloc và ba nuôi theo mô hình truyền thống
(đối chứng, trong cùng một trang trại, và khảo sát 15 nông hộ nuôi tôm thẻ xung quanh).
Kết quả nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc cho thấy vật chất lơ lửng, mật độ
tổng vi khuẩn, động vật phù du trong nghiệm thức biofloc cao hơn và đồng thời hàm lượng
ammonia và mật độ thực vật phù du thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng (p<0,05). khả="">0,05).>
năng chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ nuôi theo quy trình biofloc là tốt nhất so với nghiệm
thức đối chứng và số liệu khảo sát. Tỷ lệ sống của tôm nuôi giữa nghiệm thức biofloc tăng
gần 30% so với tôm nuôi theo quy trình truyền thống (p<0,05). ở="" nghiệm="" thức="" biofloc="" chi="">0,05).>
phí tăng thêm từ bột gạo khoảng 5% nhưng lợi nhuận tăng thêm gấp đôi so với nghiệm
thức đối chứng và số liệu khảo sát. Năng suất của nghiệm thức biofloc tăng hơn 63%, giảm
giá thành sản xuất đến 16,8% so với nghiệm thức đối chứng và 38,8% so với số liệu khảo
sát. Qua kết quả thực nghiệm cho thấy nuôi tôm theo quy trình biofloc có bổ sung
carbohydrate giúp gia tăng lượng biofloc, kích thích vi khuẩn dị dưỡng phát triển, hạn chế
vi khuẩn Vibrio gây bệnh, cải thiện chất lượng nước từ đó giúp tôm nuôi sinh trưởng phát
triển tốt hơn so với quy trình nuôi tôm truyền thống, góp phần nâng cao năng suất cũng
như lợi nhuận trong nuôi tôm thẻ chân trắng tại huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Từ khóa: Bột gạo, công nghệ biofloc, tôm thẻ chân trắng, thâm canh.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá yếu tố kỹ thuật và hiệu quả tài chính trong nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc tại Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 86 ĐÁNH GIÁ YẾU TỐ KỸ THUẬT VÀ HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH TRONG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG THEO QUY TRÌNH BIOFLOC TẠI THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE Tạ Văn Phương1*, Nguyễn Văn Hòa2, Phạm Công Kỉnh3 và Nguyễn Văn Bá1 1Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô (Email: tvphuong73@gmail.com) 2Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ 3Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Bến Tre Ngày nhận: 27/02/2018 Ngày phản biện: 15/3/2018 Ngày duyệt đăng: 25/3/2018 TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh một số yếu tố kỹ thuật và hiệu quả tài chánh của mô hình nuôi tôm thẻ theo quy trình biofloc và nuôi theo quy trình truyền thống. Đề tài được thực hiện tại xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre, trên 6 ao nuôi với diện tích 0,3 ha/ao, trong đó ba ao nuôi theo quy trình biofloc và ba nuôi theo mô hình truyền thống (đối chứng, trong cùng một trang trại, và khảo sát 15 nông hộ nuôi tôm thẻ xung quanh). Kết quả nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc cho thấy vật chất lơ lửng, mật độ tổng vi khuẩn, động vật phù du trong nghiệm thức biofloc cao hơn và đồng thời hàm lượng ammonia và mật độ thực vật phù du thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng (p<0,05). Khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ nuôi theo quy trình biofloc là tốt nhất so với nghiệm thức đối chứng và số liệu khảo sát. Tỷ lệ sống của tôm nuôi giữa nghiệm thức biofloc tăng gần 30% so với tôm nuôi theo quy trình truyền thống (p<0,05). Ở nghiệm thức biofloc chi phí tăng thêm từ bột gạo khoảng 5% nhưng lợi nhuận tăng thêm gấp đôi so với nghiệm thức đối chứng và số liệu khảo sát. Năng suất của nghiệm thức biofloc tăng hơn 63%, giảm giá thành sản xuất đến 16,8% so với nghiệm thức đối chứng và 38,8% so với số liệu khảo sát. Qua kết quả thực nghiệm cho thấy nuôi tôm theo quy trình biofloc có bổ sung carbohydrate giúp gia tăng lượng biofloc, kích thích vi khuẩn dị dưỡng phát triển, hạn chế vi khuẩn Vibrio gây bệnh, cải thiện chất lượng nước từ đó giúp tôm nuôi sinh trưởng phát triển tốt hơn so với quy trình nuôi tôm truyền thống, góp phần nâng cao năng suất cũng như lợi nhuận trong nuôi tôm thẻ chân trắng tại huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Từ khóa: Bột gạo, công nghệ biofloc, tôm thẻ chân trắng, thâm canh. Trích dẫn: Tạ Văn Phương, Nguyễn Văn Hòa, Phạm Công Kỉnh và Nguyễn Văn Bá, 2018. Đánh giá yếu tố kỹ thuật và hiệu quả tài chánh trong nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình Biofloc tại Thạnh Phú – tỉnh Bến Tre. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế, Trường Đại học Tây Đô. 03: 86-99. *TS. Tạ Văn Phương, Giảng viên Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 87 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tổng sản lượng tôm nuôi của Việt Nam, năm 2014 tăng so với năm 2013 từ 560.499 tấn lên 569.000 tấn, sản lượng tôm tăng chủ yếu từ sản lượng tôm thẻ chân trắng từ 267.615 tấn lên 328.000 tấn, trong khi đó tôm sú lại giảm từ 292.884 tấn xuống 241.000 tấn, tỷ lệ tôm thẻ chân trắng chiếm 47,7% năm 2013 tăng lên 57,6% năm 2014 (Tổng cục Thủy sản, 2014). Nhìn chung sản lượng tôm thẻ chân trắng nuôi có xu hướng tăng, tuy nhiên dịch bệnh và môi trường ô nhiễm đã gây không ít khó khăn cho nghề nuôi tôm theo quy trình nuôi truyền thống. Nghiên cứu thực nghiệm của Schneider et al., (2005) cho thấy khi tỉ lệ C/N dưới 10 thì hàm lượng đạm được tích lũy thường ở dạng gây độc (Ammonia, Nitrite), nhưng khi tăng tỉ lệ carbohydrate thì môi trường ao nuôi được cải thiện nên có khả năng tiết kiệm thức ăn và nuôi với mật độ cao, giúp gia tăng năng suất, tăng lợi nhuận cho người nuôi. Trong hệ thống nuôi thì sự phát triển của tảo và vi khuẩn trong ao thường có khuynh hướng kết hợp lại ở dạng những hạt xốp và có khả năng lơ lửng trong nước những hạt này được gọi là hạt biofloc. Hạt biofloc trong ao được xem là hệ thống điều hòa sinh học, chứa nhiều vi khuẩn dị dưỡng và cả tự dưỡng nên có thể hấp thu chuyển hóa các chất đạm vô cơ gây độc để tổng hợp thành protein cho cơ thể nên chất lượng nước được cải thiện (Avnimelech, 1999). Nuôi tôm có bổ sung thêm carbohydrate để tạo ra các hạt lơ lửng (biofloc) còn được gọi là công nghệ biofloc (BFT). Nền tảng xây dựng quy trình biofloc do Yoram Avnimelech người Israel ứng dụng từ những năm 1999 và được phát triển thành công ở các nông trại Indonesia, Malaysia từ năm 2004 (Taw et al., 2011) và ở Úc năm 2007 (Smith et al., 2007). Việc thành công của quy trình mang lại nhiều hứa hẹn cho ngành công nghiệp nuôi tôm cho năng suất cao (Taw et al., 2011). Việc ứng dụng quy trình biofloc trong nuôi tôm được ứng dụng ở một vài nơi trên thế giới, nhưng còn rất hạn chế ở Việt Nam, nên nghiên cứu và ứng dụng quy trình biofloc trong nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh là rất cần thiết. Qua đó giúp nâng cao năng suất và tăng lợi nhuận cho người nuôi tôm thẻ chân trắng ở Thạnh Phú – Bến Tre nói riêng và Đồng Sông Cửu Long nói chung. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thời gian và địa điểm Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5/2014-2/2015, tại xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre. Các ao nuôi thực nghiệm tại trang trại nuôi tôm Kỉnh-Thanh và 15 nông hộ được khảo sát xung quanh khu vực thực nghiệm với cùng thời gian thả nuôi (tôm thẻ). 2.2. Phương pháp nghiên cứu Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên trên 6 ao nuôi với diện tích 0,3 ha/ao, trong đó ba ao nuôi theo quy trình biofloc và ba nuôi theo truyền thống, độ mặn nước ban đầu là 20‰ của cùng trang trại, cùng nguồn giống, cùng nguồn nước cấp, cùng phương pháp cải tạo, gây màu, chế độ chăm sóc và quản lý như nhau. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 88 Bảng 1. Các thông số bố trí thí nghiệm và khảo sát trong nuôi tôm thẻ Chân trắng thâm canh Biofloc Đối chứng Khảo sát Tỷ lệ C:N 15:1 7,8:1 7,8:1 Mật độ (con/m2) 100 100 85,9±16,7 Diện tích (ha) 0,30 0,30 0,29±0,047 Công suất quạt nước (HP) 25,0 25,0 28,0±6,68 Cỡ giống PL12 PL12 PL10-PL13 Bột gạo (*)/Thức ăn (%) 19,1 - - (*) Tỷ lệ Carbon và Nitrogen có trong bột gạo lần lượt là 73,4% và là 0,26% (Tạ Văn Phương, Nguyễn Văn Bá và Nguyễn Văn Hòa, 2014). (Nguồn: carbohydrate được bổ sung là bột gạo, bột gạo được gia nhiệt ở 40oC, đem ủ kín trong 48 giờ và được điều chỉnh pH=7,0; với nhịp bổ sung 3 ngày/lần (Tạ Văn Phương và ctv., 2014) bột gạo được bổ sung theo thức ăn với tỷ lệ C:N=15:1 theo cách tính của Avnimelech, 1999.) Phương pháp thu và phân tích mẫu Mẫu nước được thu vào buổi sáng với nhịp thu mẫu 10 ngày/lần, chỉ tiêu Nhiệt độ và pH được đo ngày 2 lần vào 6-7 giờ sáng và 14-15 giờ chiều. Mẫu thủy hóa được thu vào chai nhựa 2 lít và được giữ lạnh ở 4oC, mẫu thực vật phiêu sinh được thu vào lúc 8 giờ sáng bằng ca nhưa vào nhựa 20 lít với nhiều điểm trong ao ở 5 vị trí (4 góc ao và giữa ao), sau đó trộn đều cho vào can nhựa 1 lít và được cố định bằng formol 2-4% (thu lắng); mẫu động vật nổi được thu lọc, thu 50 lít nước qua lưới có mắc lưới 60µm ở nhiều vị trí trong ao (tương tự thực vật); riêng mẫu vi sinh được thu vào ống nghiệm thủy tinh với thể tích 20ml đã được tiệt trùng; lượng biofloc (FVI) được thu vào 8 giờ sáng và được để lắng trong 20 phút. Tôm nuôi được thu để cân đo trọng lượng từ ngày 20 trở đi. Để ước lượng sản lượng tôm trong ao nuôi thông qua việc chài và đặt thêm vào mỗi ao nuôi 4 sàng ăn vào chiều mát (17 giờ) nhằm điều chỉnh thức ăn cho phù hợp với nhịp 3 ngày/lần. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 89 Bảng 2. Phương pháp phân tích mẫu trong nuôi tôm thẻ Chân trắng thâm canh STT Chỉ tiêu Phương pháp phân tích mẫu 1. Yếu tố thủy lý 1.1 pH Bút đo pH HANA 1.2 Nhiệt độ Nhiệt kế 2. Yếu tố thủy hóa 2.1 Độ kiềm Chuẩn độ acid 2.2 Tiêu hao oxy hóa học (COD) Oxy hóa bằng KMnO4 2.3 Ammonia tổng (TAN) Indophenol Blue 2.4 Nitrite (NO2 -) Diazonium 2.5 Hydro sunfua (H2S) Iodine 2.6 Tổng vật chất lơ lững (TSS) Lọc, sấy 105oC 3. Yếu tố thủy sinh và hạt biofloc 3.1 Định lượng Phytoplankton Buồng đếm Sedgewick-Rafter (**) 3.2 Định lượng Zooplankton Buồng đếm Sedgewick-Rafter (**) 3.3 Tổng vi khuẩn Môi trường NA+ 3.4 Vi khuẩn Vibrio Môi trường TCBS 3.5 Lượng biofloc (FVI) Floc volume Imhoff (lắng 20 phút) 3.6 Chiều rộng hạt biofloc (R) Trắc vi thị kính 3.7 Chiều dài hạt biofloc (D) Trắc vi thị kính 4. Phân tích yếu tố kỹ thuật và tài chánh 4.1 Yếu tố kỹ thuật Phân tích yếu tố kỹ thuật trên ao nuôi thực nghiệm và ao nuôi được khảo sát 4.2 Yếu tố tài chánh Phân tích yếu tố kinh tế trên ao nuôi thực nghiệm và ao nuôi được khảo sát (**): Theo Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh (2013). Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 90 Phương pháp khảo sát nông hộ Khảo sát nông hộ theo phiếu phỏng vấn soạn sẵn về phương thức sản xuất tôm thẻ Chân trắng như diện tích, chiều sâu mực nước, phương pháp cải tạo, mật độ thả, kích cỡ giống, cách chăm sóc quản lý, trang thiết bị và hạch toán hiệu quả kinh tế. Các nông hộ được khảo sát là những hộ xung quanh khu vực nuôi thực nghiệm, có cùng thời điểm thả giống nhằm so sánh một số yếu tố kỹ thuật và hiệu quả kinh tế so với mô hình thực nghiệm biofloc. 2.3. Phương pháp nghiên cứu xử lý số liệu Sau khi kết thúc thí nghiệm, số liệu được tính toán các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng phần mềm Microsoft Excel và được xử lý thống kê ANOVA bằng phần mềm SPSS 16.0 với phép thử DUNCAN để tìm ra sự khác biệt. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Yếu tố thủy lý Nhiệt độ trong thí nghiệm dao động từ 28-32oC, nhiệt độ ít có sự chênh lệch giữa các nghiệm thức (p>0,05). Nhiệt độ trung bình buổi sáng của nghiệm thức biofloc và đối chứng lần lượt là 29,9±0,06oC; 29,9±0,05oC và buổi chiều là 32,0±0,07oC và 31,9±0,06 oC. pH trong thí nghiệm dao động từ 7,2-8,5, pH ít có sự chênh lệch giữa các nghiệm thức (p>0,05). pH trung bình buổi sáng của nghiệm thức biofloc và đối chứng lần lượt là 7,36±0,07; 7,38±0,08 và buổi chiều là 7,78±0,11 và 7,79±0,09. Bảng 3. Biến động các yếu tố thủy lý sáng và chiều giữa các nghiệm thức Thủy lý Sáng Chiều Biofloc Đối chứng Biofloc Đối chứng Nhiệt độ (oC) 29,9±0,06 29,9±0,05 32,0±0,07 31,9±0,06 pH 7,36±0,07 7,38±0,08 7,78±0,11 7,79±0,09 Kết quả từ Bảng 3 cho thấy nhiệt độ trong suốt quá trình thí nghiệm ít biến động và nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm thẻ chân trắng (Trần Viết Mỹ, 2009). Theo Phạm Xuân Thủy và ctv., (2010) tôm thẻ chân trắng phát triển ở nhiệt độ từ 18 – 37oC, thích hợp nhất 25 – 32oC, khoảng nhiệt độ 28 – 30oC là khoảng tối ưu cho sự phát triển của biofloc và vi khuẩn dị dưỡng (Hargreaves, 2013). Theo Trần Viết Mỹ (2009) thì khoảng pH thích hợp trong nuôi tôm thẻ chân trắng từ 7,5-8,5 và theo Wasielesky et al., (2006) thì pH từ 7,3 –7,9. Theo kết quả nghiên cứu của Dan Willett & Catriona Morrison (2006) thấy rằng khi bổ sung carbohydrate sẽ gia tăng mật số vi khuẩn dị dưỡng và hạn chế sự phát triển của tảo trong ao, cân bằng quá trình quang hợp và dị dưỡng giúp pH ổn định. Nhìn chung, nhiệt độ và pH ở các nghiệm thức là tương đối ổn định, phù hợp cho tôm thẻ chân trắng sinh trưởng và phát triển. 3.2. Yếu tố thủy hóa Qua kết quả Bảng 4 cho thấy tổng vật chất lơ lửng trong mô hình biofloc dao Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 91 động từ 151-197 mg/L cao hơn so với nghiệm thức đối chứng 104-142 mg/L (p<0,05). Hàm lượng tổng ammonia (TAN) ở nghiệm thức biofloc dao động từ 2,6-3,2 mg/L thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng dao động từ 3,4-4,1 mg/L (p<0,05). Đối với nồng độ Nitrite, COD thì ở cả 2 nghiệm thức đều ở mức thấp và khác biệt không có ý nghĩa giữa 2 nghiệm thức (p>0,05). Lượng biofloc (FVI) trong mô hình có bổ sung carbohydrate (bột gạo) cao hơn 3,5 lần so với nghiệm thức đối chứng (p<0,05). Bảng 4. Biến động các yếu tố thủy hóa giữa các nghiệm thức Thủy hóa Đơn vị tính Biofloc Đối chứng Độ Kiềm mgCaCO3/L 102±8,56a 100±18,1a TSS mg/L 166±26,3b 127±16,4a TAN mg/L 2,87±0,28a 3,75±0,39b NO2 - mg/L 0,93±0,20a 0,50±0,28a COD mg/L 13,1±1,73a 12,6±2,10a FVI ml/L 2,42±0,38b 0,69±0,29a Giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau tương ứng khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) Theo nghiên cứu của Avnimelech (2006) và Kuhn et al., (2008) thì khi bổ sung thêm lượng carbohydrate sẽ làm gia tăng tốc độ hình thành hạt biofloc đồng thời kích thích vi khuẩn gia tăng mật độ. Độ kiềm trong trong nước ao nuôi theo biofloc phản ánh sự phát triển của hệ vi khuẩn dị dưỡng trong nước (Ebeling, 2006). Charantchakool et al., (2003) cho rằng, độ kiềm lý tưởng cho tăng trưởng và phát triển của tôm nuôi là từ 80-120 mgCaCO3/L, độ kiềm thấp hơn 40 mgCaCO3/L ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe tôm nuôi. Theo kết quả thí nghiệm của Azim (2008) thì hàm lượng TSS trong hệ thống biofloc dao động từ 16,6 – 560 mg/L và theo đề nghị của Wasielesky et al., (2006) nuôi tôm thẻ chân trắng trong hệ thống biofloc nên duy trì hàm lượng TSS dưới 500 mg/L. Theo Boyd, (2003) thì hàm lượng TAN thích hợp cho ao nuôi thủy sản là khoảng 2 mg/L, tuy nhiên còn tùy thuộc vào nhiệt độ, pH và hàm lượng nitrite trong ao. Trong thí nghiệm này cho thấy pH khá thấp nên hàm lượng ammonia dạng NH3 chỉ chiếm khoảng khoảng 0,1- 0,2 mg/L nên ít có khả năng gây độc cho tôm nuôi (Chen & Chin, 1998). Theo Boyd (1998) thì hàm lượng nitrite cho phép trong ao nuôi thủy sản là không vượt quá 10 mg/L tốt nhất là nhỏ hơn 2,0 mg/L và theo Chen & Chin (1998) thì nồng độ an toàn đối với tôm giống là 4,5 mg/L, theo nhận định của Gross (2004) thì mặn cao sẽ làm giảm tính gây độc nitrite đối với tôm nuôi. Theo Trương Quốc Phú và ctv.,(2006) hàm lượng COD thích hợp cho ao nuôi thủy sản nằm trong khoảng 15-30 mg/L và theo Smith et al., (2002); Boyd (1998) thì hàm lượng COD trong ao nuôi tôm nên khống chế dưới 20 mg/L. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 92 Nhìn chung các yếu tố thủy hóa dao động trong khoảng thích hợp cho tôm tăng trưởng và phát triển, chỉ tiêu TAN khá cao nhưng trong điều kiện pH thấp nên đã hạn chế khả năng gây độc. Qua kết quả thí nghiệm cho thấy ở nghiệm thức bổ sung bột gạo đã làm gia tăng lượng biofloc trong ao cao hơn so với ao đối chứng, chính điều này có thể đã làm hàm lượng TAN giảm thấp hơn ao đối chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 3.3. Yếu tố thủy sinh và kích thước hạt biofloc Từ Bảng 5 cho thấy mật độ tổng vi khuẩn trong nghiệm thức biofloc ... đối chứng (55,7%) có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Qua số liệu khảo sát cho thấy tỷ lệ sống tôm nuôi cao hơn so với nghiệm thức đối chứng, tuy nhiên có thể do thời gian ngắn hơn nên kích cỡ tôm nhỏ hơn dẫn đến năng suất tôm nuôi không khác biệt có ý nghĩa (p>0,05). Bảng 6. Các thông số kỹ thuật giữa ao nuôi thực nghiệm và ao nuôi được khảo sát Thông số ao nuôi Mô hình Biofloc Đối chứng Khảo sát Diện tích ao nuôi (ha) 0,30±0,00a 0,30±0,00a 0,29±0,02a Độ sâu (m) 1,40±0,00a 1,40±0,00a 1,55±0,24a Mật độ (con/m2) 100±0,00a 100±0,00a 97,6±7,33a Thời gian nuôi (ngày/vụ) 85,0±5,0a 79,7±5,5a 60,5±8.14a Cỡ thu hoạch (con/kg) 76,7±6,43a 93,7±8,62a 120±47,7a Tỷ lệ sống (%) 72,0±9,64b 55,7±2,52a 72,9±16,3b Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) 1,31±0,02b 1,38±0,03a 1,54±0,35ab Năng suất (tấn/ha/vụ) 9,32±2,30b 5,72±0,108a 6,53±2,09ab Giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau tương ứng khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). Số liệu phân tích từ khảo sát là những hộ nuôi tôm có lợi nhuận (n=9) chiếm 60% tổng số hộ được khảo sát. Kết quả trình bày ở Bảng 6 cho thấy khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm thẻ nuôi theo quy trình biofloc là tốt nhất, tỷ lệ lượng thức ăn trên sản lượng tôm là thấp nhất (1,31) so với nghiệm thức đối chứng (1,38) và số liệu khảo sát (1,54). Khi so sánh thống kê cho thấy số liệu khảo sát do có sự biến động lớn về FCR nên không có sự khác biệt so với thực nghiệm (p>0,05). Ở nghiệm thức biofloc hệ số FCR thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng (p<0,05), qua đây cho thấy lượng thức ăn ở nghiệm thức biofloc có thể tiết kiệm được khoảng 1,5 triệu đồng và tiết kiệm khoảng 5,7 triệu đồng so với số liệu Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 95 khảo sát cho một tấn tôm nuôi. Năng suất tôm nuôi giữa nghiệm thức biofloc cao hơn nghiệm thức đối chứng gần 63% (p<0,05) và tăng 17,2% so với số liệu điều tra nhưng không có sự khác biệt (p>0,05). 3.4.2. Phân tích yếu tố kỹ thuật và tài chánh Chi phí lớn nhất của vụ nuôi là chi phí thức ăn thường chiếm từ 50-60%, lượng thức ăn lại phụ thuộc vào sản lượng tôm nuôi, kinh nghiệm quản lý thức ăn và phương thức ước lượng sản lượng tôm nuôi. Qua Bảng 7 cho thấy nghiệm thức biofloc và nghiệm thức đối chứng không có sự khác biệt (p>0,05). Chi phí ở các nghiệm thức thực nghiệm thấp hơn so với số liệu khảo sát bao gồm chi phí về thuốc hóa chất, vi sinh và chi phí về nhiên liệu (p<0,05). Bảng 7. Các thông số kinh tế giữa ao nuôi thực nghiệm và ao nuôi được khảo sát Hạch toán chi phí Biofloc Đối chứng Khảo sát Giống (triệu đồng/ha/vụ) 75,0±0,0a 75,0±0,0a 89,0±14,2a Thức ăn (triệu đồng/ha/vụ) 366±89,7a 236±6,7a 372±122a Khấu hao (triệu đồng/ha/vụ) 33,1±1,2a 32,4±1,1a 30,6±6,9a Thuốc, khoáng và vi sinh (triệu đồng/ha/vụ) 49,2±3,5a 46,5±3,4a 104±32,5b Lao động (triệu đồng/ha/vụ) 22,0±1,5a 22,0±1,5a 24,0±3,3a Nhiên Liệu (*) 30,0±3,0a 24,0±2,5a 64,6±24,6b Bột gạo (triệu đồng/ha/vụ) 24,9±6,1 - - Giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau tương ứng khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) Theo số liệu khảo sát cho thấy các chi phí cao hơn ao nuôi thực nghiệm chủ yếu là chí phí diệt khuẩn, cấy lại vi sinh, bón thêm vôi sau mỗi lần thay nước, bên cạnh đó sử dụng thuốc kháng sinh ngừa bệnh, do thay nước thường xuyên nên chi phí xử lý nước và chi phí bơm nước từ ao lắng sang ao nuôi. Ở nghiệm thức biofloc có bổ sung thêm bột gạo làm chi phí tăng thêm 25 triệu/ha/vụ chiếm khoảng 4,1 - 5,7% nhưng lợi nhuận tăng thêm gấp đôi so với nghiệm thức đối chứng và so với nông dân trong khu vực (Bảng 8). Bảng 8. Các thông số tài chánh giữa ao nuôi thực nghiệm và ao nuôi được khảo sát Hạch toán kinh tế Biofloc Đối chứng Khảo sát Chi phí cố định (triệu đồng/ha/vụ) 33,1±1,15a 32,4±0,00a 31,0±4,40a Chi phí biến đổi (triệu đồng/ha/vụ) 572±98,8b 409±5,56a 675±97,9b Tổng chi phí (triệu đồng/ha/vụ) 605±97,3b 441±5,99a 687±141b Giá thành (1.000 đ/kg) 66,0±5,86b 77,1±0,54a 91,6±20,6a Giá bán (1.000đ/kg) 126±4,36b 111±6,56a 116±9,60ab Tổng doanh thu (triệu đồng/ha/vụ) 1.189±308b 639±29,1a 881±389b Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 583±211b 198±34,3a 194±283ab Lợi nhuận/Chi phí 0,94±0,20b 0,45±0,08a 0,44±0,24a Lợi nhuận/Doanh thu 0,48±0,05b 0,31±0,04a 0,29±0,12a Giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau tương ứng khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 96 Qua Bảng 8, chi phí cố định giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt và chiếm tỉ lệ thấp, chỉ có biến phí thay đổi đưa đến tổng chi phí khác biệt giữa nghiệm thức biofloc cao hơn 37,2% so với nghiệm thức đối chứng (p<0,05), và có khuynh hướng thấp hơn so với số liệu khảo sát 13,6%, (p>0,05). Do năng suất tôm nuôi của nghiệm thức biofloc tăng hơn 63%, nhưng chi phí chỉ tăng 37,2% so với nghiệm thức đối chứng, điều này giúp làm giảm giá thành sản xuất đến 16,8% so với nghiệm thức đối chứng và 38,8% so với số liệu khảo sát. Bên cạnh đó kích cỡ tôm thu hoạch của nghiệm thức biofloc lớn hơn nên giá bán trung bình là 126 ngàn đồng/kg cao hơn so với nghiệm thức đối chứng (111 ngàn đồng/kg) và số liệu điều tra (116 ngàn đồng/kg). Tất cả các vấn đề vừa nêu cho thấy lợi nhuận mang lại từ nghiệm thức biofloc là rất cao (94%) so với lợi nhuận mang lại từ nghiệm thức đối chứng (45%) và số liệu khảo sát (44%) khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). 4. KẾT LUẬN Nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc ngoài ao đất tại Thạnh Phú, Bến Tre có các yếu tố TSS, FVI, mật độ tổng vi khuẩn, động vật phù du trong nghiệm thức biofloc cao hơn và đồng thời hàm lượng TAN, mật độ thực vật phù du và hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng và số liệu khảo sát. Lượng thức ăn ở nghiệm thức biofloc có thể tiết kiệm được cho một tấn tôm khoảng 1,5 triệu đồng so với nghiệm thức đối chứng và 5,7 triệu đồng so với số liệu khảo sát. Tỷ lệ sống của tôm nuôi giữa nghiệm thức biofloc tăng gần 30% và năng suất tăng gần 63% so với tôm nuôi theo truyền thống. Nuôi tôm thẻ theo quy trình biofloc chi phí tăng thêm từ bột gạo khoảng 25 triệu/ha/vụ chiếm khoảng 4,12-5,7% nhưng lợi nhuận tăng thêm gấp đôi so với nghiệm thức đối chứng và số liệu khảo sát. Năng suất của nghiệm thức biofloc tăng hơn 63%, nhưng chi phí chỉ tăng 37,2% so với nghiệm thức đối chứng, điều này giúp giảm giá thành sản xuất đến 16,8% so với nghiệm thức đối chứng và 38,8% so với số liệu khảo sát. Kết quả nghiên cứu này cần được phổ biến rộng rãi để người nuôi có cơ hội lựa chọn quy trình nuôi mới. Cần mở rộng nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc ở nhiều vùng sinh thái khác nhau với tôm giống cỡ lớn để có thể rút ngắn thời gian nuôi, đồng thời giảm thiểu rủi ro trong thực tế sản xuất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alberto J.P. Nunes, Leandro F. Castro, Hassan Sabry-Neto, 2011. The protein sparing effect of microbial flocs in diets for the white shrimp, Litopenaeus vannamei. World Aquaculture 2011. 2. Anderson I C, Poth M, Homstead J, et al., 1993. A comparison of NO and N2O production by the autotrophic Nitrosomonas europaea and the heterotrophic nitrifier Alcaligenes gaecalis. Applied Environmental Microbioliology, 59, 3525 - 3533. 3. Avnimelech, Y., 1999. Carbon/nitrogen ratio as a control Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 97 element in aquaculture systems. Aquaculture 176, 227–235. 4. Avnimelech, Y. 2006. Bio-filters: the need for an new comprehensive approach. Aquac. Eng. 34 (3). 5. Avnimelech, Y. 2012. Biofloc Technology - A Practical Guide Book, 2nd Edition. The World Aquaculture Society, Baton Rouge, Louisiana, United State. 6. Azim M.E., litter D.C., 2008. The biofloc technology (BFT) in indoor tanks: Water quality biofloc composition, and grawth and wefare of Nile talipia (Oreochromis niloticus). Aquaculture 283, 29-35 7. Boyd, C. E., 1998. Water quality for pond aquaculture. Deparment of fisheries and allied aquaculture auburn University, Alabama 26849 USA. pp 37. 8. Boyd, C.E., Thunjai, T., 2003. Concentrations of major ions in waters of inland shrimp farms in China, Ecuador, Thailand and the United States. J. World Aquac. Soc. 34, 524– 532. 9. Bùi Quang Tề, 2009. Nuôi thâm canh tôm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm theo mô hình GAqP. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trung tâm khuyến nông khuyến ngư quốc gia. 10. Burke Michael & Tung Hoang, 2007. Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Nha Trang, Việt Nam và Department of Primary Industries and Fisheries, Bribie Island Aquaculture Research Centre, Bribie Island, Queensland, Australia. 11. Chanratchakool, P., J.F. Turnbull, J.S. Funge Smith, I.H. Macrae and C. Limsuwan. 2003. Health management in shrimp ponds. Third edition. Aquatic animal Health Research Institute, Department of Fisheries, Kasetsart University Campus, Bangkok. 12. Chen, J. C and T. S. Chin, 1998. Accute oxicty of nitrite to tiger praw, Penaeus monodon, larvae. Aquaculture 69, pp. 253-262. 1998 ISSN: 0044- 8486. 13. Crab, R., Chielens, B., Wille, M., Bossier, P., Verstraete, W., 2010. The effect of different carbon sources on the nutritional value of bioflocs, a feed for Macrobrachium rosenbergii postlarvae 14. Dan Willett and Catriona Morrison, 2006. Using molasses to control inorganic nitrogen and pH in aquaculture ponds. Department of Primary Industries and Fisheries. Queensland Aquaculture News, 28, 6- 7. 15. Ebeling, J.M., Timmons, M.B., Bisogni, J.J. 2006. Engineering analysis of the stoichiometry of photoautotrophic, autotrophic, and heterotrophic removal of ammonia– nitrogen in aquaculture systems. 16. Ebeling, M., Michael B. Timmons, 2011. The three pathways Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 98 for the removal of ammonia-nitrogen in Aquaculture system. Current Issues in Biofloc Technology Systems AAS- 2011 17. Hargreaves, J.A. 2013. Biofloc Production Systems for Aquaculture. Southern regional aquaculture center. SRAC Publication No. 4503. 18. Kuhn, D.D., Boardman, G.D., Craig, S.R., Flick, Jr.G.J., McLean, E. 2008. Use of microbial flocs generated from tilapia effluent as a nutritional supplement for shrimp, Litopenaeus vannamei, in recirculating aquaculture sistems. 19. Lightner DV., 1993. Diseases of cultured penaeid shrimp. In: Mc-Vey JP (ed) CRC hand book of mariculture, Crustacean aquaculture, 2nd edn. CRC Press, Boca Raton, pp 393-486. 20. Moriarty DJW., 1997. The role of microorganisms in aquaculture ponds. Aquaculture 151:333–349. 21. Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Thị Ngọc Anh và Đinh Kim Diệu, 2014. Đánh giá sự phát triển và giá trị dinh dưỡng của biofloc ở các độ mặn khác nhau trong điều kiện thí nghiệm. Tạp chí khoa học trường Đại học Cần Thơ. Chuyên đề Thủy sản. Tập 2, trang 150- 158. 22. Phạm Xuân Thủy, Phạm Xuân Yến và Trình Văn Liễn, 2010. Chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi thâm canh tôm he chân trắng cho tỉnh QUảng Bình. Tạp chí khoa học công nghệ thủy sản Đại Học Nha Trang. Số 1/2010. 23. Schneider, O.,Sereti, V., Eping, Ep. H., Verreth, J. A. J., 2005. Molasses as C source for heterotrophic bacteria product on solid fish waste. Aquaculture 261: 1239-1248. 24. Tạ Văn Phương, Nguyễn Văn Bá và Nguyễn Văn Hòa, 2014. Ảnh hưởng của thời gian thủy phân và phương thức bổ sung bột gạo lên năng suất tôm thẻ chân trắng. Tạp chí khoa học trường Đại Học Cần Thơ. Tạp chí khoa học trường Đại học Cần Thơ. Chuyên đề Thủy sản. Tập 2, trang 54- 62. 25. Taw Nyan, 2011. Intensive Shrimp Culture Water Management: Biofloc Technology and Waste Water Treatment System. Blue Archipelago Bhd. Malaysian National Committee On Irrigation and Drainage. 26. Tổng cục Thủy sản, 2014. Báo cáo tổng kết nuôi tôm nước lợ năm 2014 và triển khai kế hoạch năm 2015. Hội nghị tại tỉnh Bến Tre do Bộ Nông nghiện và Phát triển Nông thôn tổ chức. 27. Trần Viết Mỹ, 2009. Cẩm nang nuôi tôm thẻ chân trắng. Nhà xuất bản nông nghiệp. 28. Trương Quốc Phú và Nguyễn Lê Hoàng Yến, 2006. Giáo trình Quản lý chất lượng nước nuôi thủy sản. Khoa thủy sản trường Đại Học Cần Thơ 29. Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh, 2013. Giáo trình Thực vật và Động vật thủy sinh. Nhà Xuất Bản Đại Học Cần Thơ 342 trang. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018 99 TECHNICAL AND FINANCIAL ASPECTS OF WHITE LEG SHRIMP INTENSIVE CULTURE APPLYING BIOFLOC TECHNOLOGY IN THANH PHU - BEN TRE Ta Van Phuong1, Nguyen Van Hoa2, Pham Cong Kinh3 and Nguyen Van Ba1 1Faculty of Applied Biology, Tay Do University (Email: tvphuong73@gmail.com) 2Faculty of Fisheries, Can Tho University 3Center of Agriculture and Fisheries Promotion, Ben Tre Province ABSTRACT The aim of this study was to compare the technical and financial aspects of white leg shrimp culture applying biofloc technology (BFT) and traditional culture. Study has been conducted in An Nhon Commune, Thanh Phu District and Ben Tre Province, in 6 earthen ponds with 0.3 ha each, in which two treatments were implemented with three replications. There were two treatments, the first treatment shrimp was culture in biofloc technology (BFT) system while the control followed traditional culture method at salinity of 20‰. A survey was also carried out on 15 shrimp farmers nearby for technical and financial evaluation. Results indicated that suspended solid, total bacteria, zooplankton in the first treatment (BFT) were much higher than the conventional treatment (p< 0.05). Food conversion rate (FCR) of BFT treatment was the lowest compared to the traditional and surveyed farmer ponds. Survival ratio increased 30% compared to the conventional culture (p<0.05). The input in BFT treatment was increased 5% but profit was obtained double the traditional system and farmer ponds. Shrimp yield in BFT increased 63%, but it reduced production cost down to 16.8 % compared to the traditional system and farmer ponds. In conclusion, BFT culture of white leg shrimp with the supplement of carbohydrate enhanced biofloc volume, stimulate development of heterotrophic bacteria, inhibit harmful Vibrio, improve water quality and thus led to increase growth rate of shrimp, as well as production yield and profit in compared to those cultured in traditional methods in Thanh Phu – Ben Tre. Keywords: Biofloc technology, intensive culture, Litopenaeus vannamei, rice flour.
File đính kèm:
- danh_gia_yeu_to_ky_thuat_va_hieu_qua_tai_chinh_trong_nuoi_to.pdf