Giải pháp phát triển kinh tế biển Kiên Giang

Bài viết này phân tích tình hình phát triển

kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế. Kết quả phân tích thực

trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Kiên Giang là

căn cứ quan trọng để tác giả đề xuất các biện

pháp có tính chiến lược trong quá trình thực

hiện mục tiêu phát triển kinh tế biển và làm

giàu từ biển, bao gồm: tối ưu hóa cơ cấu ngành

kinh tế biển; tăng cường công tác thăm dò, dự

báo các nguồn lợi của biển đảo; đẩy mạnh

quản lý toàn diện kinh tế biển đảo; tăng đầu tư

vào cơ sở hạ tầng hàng hải và bảo vệ môi

trường biển. Từ những phân tích, giải thích về

thực trạng phát triển kinh tế biển Kiên Giang,

tác giả đã đưa ra các giải pháp phù hợp góp

phần thực hiện vào mục tiêu phát triển nhanh

và bền vững của nền kinh tế biển Kiên Giang.

pdf 12 trang dienloan 5620
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp phát triển kinh tế biển Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp phát triển kinh tế biển Kiên Giang

Giải pháp phát triển kinh tế biển Kiên Giang
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 17 
Giải pháp phát triển kinh tế biển Kiên Giang 
 Nguyễn Đình Bình 
Trường Đại học Sài Gòn - Email: ndinhbinh@gmail.com 
(Bài nhận ngày 10 tháng 9 năm 2016, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 12 tháng 10 năm 2016) 
TÓM TẮT 
Bài viết này phân tích tình hình phát triển 
kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội 
nhập kinh tế quốc tế. Kết quả phân tích thực 
trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Kiên Giang là 
căn cứ quan trọng để tác giả đề xuất các biện 
pháp có tính chiến lược trong quá trình thực 
hiện mục tiêu phát triển kinh tế biển và làm 
giàu từ biển, bao gồm: tối ưu hóa cơ cấu ngành 
kinh tế biển; tăng cường công tác thăm dò, dự 
báo các nguồn lợi của biển đảo; đẩy mạnh 
quản lý toàn diện kinh tế biển đảo; tăng đầu tư 
vào cơ sở hạ tầng hàng hải và bảo vệ môi 
trường biển. Từ những phân tích, giải thích về 
thực trạng phát triển kinh tế biển Kiên Giang, 
tác giả đã đưa ra các giải pháp phù hợp góp 
phần thực hiện vào mục tiêu phát triển nhanh 
và bền vững của nền kinh tế biển Kiên Giang. 
Từ khóa: Kinh tế biển; chiến lược kinh tế biển; phát triển kinh tế biển, Kiên Giang. 
1. GIỚI THIỆU 
Phát triển kinh tế biển và làm giàu từ biển là 
một chiến lược lớn của Đảng trong quá trình 
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Kế hoạch 
phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020 đã được 
Đảng nhấn mạnh “Phát triển mạnh các ngành 
kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ 
quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân 
vùng biển, đảo. Khuyến khích các thành phần kinh 
tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến 
dầu khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, 
vận tải biển; khai thác và chế biến hải sản, các 
dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển, đảo...” 
[3, tr 71-72]. 
Thực hiện chủ trương của Đảng, Văn kiện 
Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ X, 
nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định: “Đầu tư 
khai thác hải sản xa bờ, dịch vụ hậu cần nghề 
cá, nuôi trồng thủy sản ven biển, quanh các 
đảo, gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản và vùng 
biển - đảo, trọng tâm xây dựng đảo Phú Quốc 
thành khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng biển -
đảo hiện đại, cao cấp, tầm cơ khu vực và quốc 
tế”[4, tr 67]. Làm thế nào để khai thác có 
hiệu quả nguồn lợi của biển, đảo và khu vực 
ven biển, biến chủ trương, chính sách của Đảng 
thành hiện thực là một vấn đề có ý nghĩa chiến 
lược không chỉ đối với Kiên Giang mà còn là 
vấn đề mang tính quyết định đối với sự phát 
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tiến 
trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Cơ sở lý thuyết về phát triển kinh tế 
biển 
2.1.1. Khái niệm kinh tế biển 
Khái niệm kinh tế biển đã được trình bày 
một cách khá rõ trong một báo cáo của Nathan 
Associates (1974), cho Cục phân tích kinh tế 
Mỹ rằng: “kinh tế biển là nền kinh tế tận dụng 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 18 
nguồn lực của biển trong quá trình sản xuất 
hay là quá trình sản xuất một sản phẩm hoặc 
dịch vụ phụ thuộc vào chất lượng của các 
nguồn lực biển'' [11, tr 112]. 
Theo Vụ Nghề cá và Đại dương Canada 
(DFO), (2002) thì: “Kinh tế biển là những 
ngành được thành lập trong khu vực hàng hải và 
các cộng đồng ven biển liền kề với các khu vực 
này, hay những ngành mà thu nhập của chúng 
phụ thuộc vào các khu vực này” [6, tr 119]. 
Cố vấn Allen (2004), khi bàn về kinh tế 
biển trong báo cáo của mình đã phân biệt “các 
hoạt động sử dụng các nguồn tài nguyên biển 
(như nghề cá thương mại hoặc khai thác dầu 
và khí đốt khu vực biển), những ngành có liên 
quan đến việc cung cấp các dịch vụ liên quan 
đến vận tải biển (như các ngành công nghiệp 
vận chuyển và các hoạt động cảng) và những 
ngành khác mà lợi ích của chúng phụ thuộc 
vào các thuộc tính tích cực của môi trường 
biển (như du lịch biển)” [1, tr 167]. 
Một nghiên cứu được thực hiện bởi Hiệp hội 
thống kê New Zealand (2006), ước tính đóng 
góp của kinh tế biển vào tổng GDP của nền kinh 
tế trong giai đoạn 1997 - 2002. Trong nghiên 
cứu này, các tác giả đã khẳng định: “kinh tế biển 
là tổng thể các hoạt động kinh tế sử dụng hoặc 
diễn ra trong môi trường biển, hoặc sản xuất 
các hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho các hoạt 
động trên biển” [12, tr 112]. 
Trong báo cáo của Chương trình kinh tế 
biển Quốc gia (NOEP), Colgan (2007) đã phân 
biệt giữa kinh tế biển và kinh tế ven biển. Theo 
họ, cả hai khái niệm đều liên quan chặt chẽ, 
nhưng được thể hiện dưới các khái niệm khác 
nhau. “Trong khi kinh tế ven biển dùng để chỉ 
tất cả các hoạt động kinh tế diễn ra ở vùng 
hoặc khu vực ven biển, thì kinh tế biển được 
giới hạn cho các hoạt động kinh tế trực tiếp 
hay gián tiếp sử dụng các nguồn lực từ đại 
dương làm yếu tố đầu vào” [2, tr 195]. 
Một nghiên cứu gần đây được thực hiện bởi 
Ecorys (2012), thì “kinh tế biển là nền kinh tế 
mà trong đó bao gồm tất cả các hoạt động kinh 
tế ngành và liên ngành có liên quan đến đại 
dương, biển và vùng ven biển” [7, tr 115]. Định 
nghĩa này cũng bao gồm các nhóm hoạt động 
phục vụ như là hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho 
hoạt động của các ngành kinh tế biển, do đó, 
ngoài các khu ven biển, các hoạt động này cũng 
có thể được tìm thấy ở ngoài khơi. 
Theo Zhai Ren-Xiang, Li Wei (2013), kinh 
tế biển là tổng thể của nhiều loại hình hoạt 
động cho sự phát triển công nghiệp, khai thác 
và bảo vệ nguồn lợi của biển cũng như các 
hoạt động liên kết với chúng [14, tr 656]. 
Cũng như các nghiên cứu quốc tế, ở Việt 
Nam, khái niệm kinh tế biển vẫn còn nhiều 
quan điểm khác nhau. Theo Đào Duy Quát và 
Phạm Văn Linh (2008), kinh tế biển là hoạt 
động kinh tế có ba lợi ích kinh tế phục vụ con 
người rõ ràng nhất là vận tải biển, khai thác 
nguồn tài nguyên phong phú của biển và du 
lịch viễn thông [5, tr 33]. 
Theo tài liệu nghiên cứu về kinh tế biển Đà 
Nẵng của tác giả Huỳnh Văn Thanh (2002) 
kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt 
động kinh tế trên biển với các hoạt động kinh tế 
trên đất liền, trong đó biển chủ yếu đóng vai 
trò khai thác nguyên liệu, hoạt động vận tải, 
hoạt động du lịch trên biển, còn hầu hết các 
hoạt động tổ chức sản xuất, chế biến, hậu cần, 
dịch vụ phục vụ khai thác biển lại nằm trên đất 
liền. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ 
thuật trong mấy thập niên gần đây cho phép 
con người có thể khai thác, sử dụng nhiều loại 
tài nguyên thiên nhiên của biển và đại dương” 
[8, tr 43]. 
Dù có sự khác nhau về cách tiếp cận, tuy 
nhiên, các khái niệm đều có những điểm chung 
khi coi kinh tế biển là toàn bộ hoạt động kinh tế 
liên quan đến biển, phát triển kinh tế biển là 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 19 
một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát 
triển kinh tế của quốc gia. 
Từ những phân tích ở trên, tác giả cho rằng: 
Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế 
diễn ra trực tiếp trên biển (khai thác thủy sản; 
khai tác dầu khí ngoài khơi; cảng biển; vận tải 
biển; du lịch biển; công nghiệp chế biến thủy, 
hải sản; làm muối) và các hoạt động kinh tế có 
liên quan trực tiếp đến hoạt động trên biển 
(đóng và sửa chữa tàu biển; công nghiệp chế 
biến dầu, khí; cung cấp dịch vụ biển; thông tin 
liên lạc biển; nghiên cứu khoa học công nghệ 
biển; đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế 
biển và điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường 
biển). 
2.1.2. Phát triển kinh tế biển 
Phát triển kinh tế là quá trình thay đổi theo 
hướng tiến bộ về mọi mặt kinh tế - xã hội của 
một quốc gia trong bối cảnh nền kinh tế đang 
tăng trưởng. Phát triển kinh tế được biểu hiện 
qua các tiêu chí như: tăng trưởng kinh tế dài 
hạn; cơ cấu kinh tế - xã hội thay đổi theo hướng 
tiến bộ; nội lực nền kinh tế được phát huy và 
đạt được sự cải thiện sâu rộng về chất lượng 
cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội. 
Theo Lại Lâm Anh (2014), phát triển kinh 
tế biển là việc mở rộng cả về mặt quy mô, chất 
lượng và gia tăng mức độ khai thác các nguồn 
lợi trực tiếp cũng như gián tiếp từ biển, tăng tỷ 
trọng phát triển của các ngành kinh tế biển... 
kèm với nó là phải thay đổi phương thức phát 
triển để hướng tới một nền kinh tế biển hiện đại 
[10, tr 29]. 
Theo tác giả, phát triển kinh tế biển là sự 
thay đổi phương thức hoạt động, cơ cấu của 
nền kinh tế trong quá trình khai thác các nguồn 
lợi từ biển (trực tiếp và gián tiếp), trên cơ sở 
ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ 
vào khái thác các tiềm năng của đại dương, 
biển và ven biển, nhằm nâng cao tỷ trọng của 
các ngành kinh tế biển trong nền kinh tế và góp 
phần giải quyết việc làm cho xã hội. 
Sự phát triển kinh tế biển được xác định bởi 
các đặc trưng như: Thứ nhất, việc khai thác các 
nguồn lợi từ biển một cách trực tiếp và gián 
tiếp được thay đổi theo hướng phù hợp, hiện 
đại và hiệu quả, đồng thời góp phần giải quyết 
việc làm cho xã hội. Thứ hai, nghiên cứu và 
ứng dụng khoa học công nghệ biển trở thành 
một nhu cầu tất yếu trong quá trình phát triển vì 
đó là phương thức để thăm dò, khai thác hiệu 
quả các nguồn lợi từ biển, tránh ô nhiễm môi 
trường, cạn kiệt tài nguyên. Thứ ba, tỷ trọng 
các ngành kinh tế biển trong nền kinh tế phải 
được tăng lên tương xứng với tiềm năng vốn có 
của mỗi vùng, miền và toàn bộ nền kinh tế. 
2.1.3. Các tiêu chí đánh giá tình hình phát 
triển kinh tế biển 
Thứ nhất, tổng sản phẩm kinh tế biển và 
đóng góp của nó vào nền kinh tế. Tổng sản 
phẩm của kinh tế biển trong toàn bộ nền kinh tế 
là tiêu chí quan trọng nhất, phản ánh xu hướng 
vận động và mức độ thành công của quá trình 
phát triển kinh tế biển. Các tác giả Xu - Zhao 
Jiang, Tie - Ying Liu và Chi - Wei Su (2014), 
Karyn Morrissey, Cathal O’Donoghue (2012) 
trong các bài viết của mình đều lấy tổng sản 
phẩm kinh tế biển và đóng góp của nó vào tổng 
sản phẩm của nền kinh tế làm tiêu chí quan 
trọng hàng đầu để đánh giá quy mô, mức độ 
phát triển của kinh tế biển. 
Thứ hai, tạo việc làm và cơ cấu lao động 
đang làm việc trong kinh tế biển. Sự phát triển 
của một ngành kinh tế luôn luôn gắn liền với 
khả năng tạo việc làm từ chính nền kinh tế đó. 
Trong các phân tích về kinh tế biển, các tác giả 
luôn đề cao khả năng tạo việc làm từ nền kinh 
tế bởi đây là nhân tố tạo nên tính năng động, 
sáng tạo của kinh tế biển đồng thời tạo ra 
những hiệu ứng mạnh mẽ đối với toàn bộ nền 
kinh tế thông qua cơ chế tiêu dùng và tái đầu tư 
của tư bản xã hội. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 20 
Thứ ba, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu 
và cơ cấu hàng xuất khẩu. Kinh tế biển và ven 
biển có liên quan trực tiếp và gián tiến đến các 
ngành nghề kinh tế. Đánh giá về đóng góp của 
kinh tế biển vào tổng kim ngạch xuất khẩu 
không chỉ xem xét trên góc độ giá trị ngành 
riêng biệt mà được xét trong tổng thể sự tác 
động qua lại với nền kinh tế. Chẳng hạn như 
giá trị xuất khẩu của các ngành công nghiệp 
chế biến thủy sản, công nghiệp dầu khí được 
hoạch toán độc lập nhưng đều có nguồn gốc 
chủ yếu từ hoạt động của kinh tế biển. Vì vậy, 
đóng góp vào giá trị xuất khẩu của kinh tế biển 
càng được khẳng định ở một vị trí lớn hơn 
trong nền kinh tế. 
Thứ tư, đời sống nhân dân các vùng ven 
biển. Đây là mục tiêu cuối cùng và cũng là tiêu 
chí phản ánh sát thực nhất quy mô và trình độ 
phát triển kinh tế của một quốc gia. Phát triển 
kinh tế biển sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực nhằm 
tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội, mang 
lại thu nhập ổn định cho nhân dân các vùng ven 
biển, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của 
nhân dân các vùng ven biển ngày càng khởi 
sắc, chủ quyền biển đảo được giữ vững. 
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 
Bài viết tiếp cận theo phương pháp luận duy 
vật biện chứng và sử dụng các phương pháp 
nghiên cứu định tính như phương pháp trừu 
tượng hóa khoa học, phân tích tổng hợp, logic - 
lịch sử và thống kê kinh tế nhằm phân tích các 
số liệu thứ cấp về kinh tế biển. 
Bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên 
cứu này, tác giả đã khái quát và xây dựng được 
khái niệm về kinh tế biển, phân tích tình hình 
phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong một giai 
đoạn lịch sử trên các ngành, các lĩnh vực kinh tế 
biển cụ thể. Kết quả nghiên cứu từ các phương 
pháp này đã góp phần xây dựng một bức tranh 
về kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội 
nhập, là căn cứ quan trọng để xác định những 
mặt đạt được cần phát huy, những mặt còn hạn 
chế cần khắc phục trong thời gian tới. Kết quả 
này là bằng chứng khách quan để đề xuất các 
giải pháp cụ thể, thiết thực, phù hợp với thực 
tiễn phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong 
điều kiện mới. 
3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
BIỂN KIÊN GIANG GIAI ĐOẠN 2006 -
2015 
3.1. Những kết quả đạt đƣợc 
3.1.1. Tổng giá trị các ngành kinh tế biển 
trong nền kinh tế 
Tổng sản phẩm kinh tế thuần biển trên địa 
bàn tỉnh không ngừng tăng lên. Sau 10 năm, 
tổng sản phẩm kinh tế thuần biển tỉnh Kiên 
Giang tăng 6,67 lần, từ 8.382 tỷ đồng năm 
2006 lên 46.710 tỷ đồng năm 2015, chiếm 
47,6% GDP của tỉnh. Trong đó, ngành khai 
thác, nuôi trồng thủy sản (NTTS) liên tục tăng 
lên và đóng góp nhiều nhất với 34.168 tỷ đồng, 
tiếp đến là các ngành công nghiệp chế biến 
(CNCB) thủy sản với 6.602 tỷ đồng, dịch vụ 
cảng biển đóng góp 1.611 tỷ đồng, vận tải biển 
đạt 1.087 tỷ đồng và công nghiệp đóng tàu đạt 
994 tỷ đồng. Ngành du lịch biển có sự phát 
triển mạnh mẽ nhất, từ 205 tỷ đồng năm 2006 
lên 2.248 tỷ đồng năm 2015, tăng 10,96 lần. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 21 
Bảng 1. Tổng sản phẩm các ngành kinh tế biển Kiên Giang 2006 - 2015 
 (Đơn vị tính: tỷ đồng) 
 2006 2008 2010 2011 2012 2013 2014 2015 
Tổng GRDP 18.856 31.370 44.086 625.370 69.563 77.535 86.118 98.217 
Tổng sản phẩm 
KT biển (GROP) 
8.382 12.769 20.002 27.549 32.380 35.569 41.263 46.710 
Đóng góp % 44,4 40,7 45,3 44,1 46,5 45,9 47,9 47,6 
Trong đó: 
Khai thác, NTTS 5.157 8.654 14.909 22.048 25.617 27.186 31.407 34.168 
CNCB thủy sản 2.006 2.491 3.185 3.315 3.972 4.984 5.884 6.602 
Du lịch biển 205 360 575 752 877 1.132 1.538 2.248 
Vận tải biển 316 397 486 436 617 732 803 1.087 
CN đóng tàu 302 382 412 423 564 698 708 994 
Dịch vụ cảng biển 396 485 435 575 733 837 923 1.611 
 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang 2006 - 2015 
3.1.2. Lao động đang làm việc trong các 
ngành kinh tế biển 
Một trong những đóng góp có ý nghĩa về 
mặt kinh tế - xã hội của kinh tế biển là vấn đề 
tạo việc làm cho xã hội. Số liệu thống kê cho 
thấy, tổng lao động các ngành kinh tế biển tăng 
liên tục qua các năm, từ 93.954 người năm 
2006, chiếm 10,79% lên 187.326 người năm 
2015, chiếm 17,48% tổng lao động của toàn 
tỉnh. Trong đó, lao động ngành khai thác, nuôi 
trồng thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất và ghi 
nhận mức tăng khá cao, từ 69.660 người năm 
2006 lên 161.518 người năm 2015. Tiếp đến là 
lao động các ngành du lịch biển, công nghiệp 
(CN) chế biến thủy sản lần lượt đóng góp 
11.9 ...  
tàu đánh bắt xa bờ và hệ thống vận tải biển 
quốc tế. Tuy có nhiều điều kiện để phát triển 
cảng biển quốc tế, nhưng đến nay hệ thống 
cảng Kiên Giang chủ yếu đáp ứng nhu cầu neo 
đậu, tránh trú bão của tàu cá nằm rải rác quanh 
các đảo và ven biển. Ngay cả khi cảng biển 
quốc tế An Thới đã hoàn thành và đi vào hoạt 
động thì Kiên Giang vẫn chưa đủ nguồn lực để 
tiếp nhận vận hành hoạt động. Vận tải biển chủ 
yếu phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân từ đất 
liền ra đảo và giữa các đảo với nhau. Công 
nghiệp đóng tàu tuy phát triển nhưng chỉ đáp 
ứng nhu cầu đóng mới các tàu công suất nhỏ 
bằng gỗ và sửa chữa một số tàu vỏ sắt. 
Thứ ba, khoa học công nghệ phục vụ kinh tế 
biển chưa được đầu tư đúng mức, số lượng các 
đề tài nghiên cứu về kinh tế biển hoặc phục vụ 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 24 
các ngành kinh tế biển chưa nhiều, sự liên kết 
giữa nhà khoa học với ngư dân chưa chặt chẽ, 
công tác nghiên cứu, thăm dò khoáng sản ngoài 
khơi chưa được chú trọng. Việc áp dụng tiến bộ 
khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn 
chế, nên rủi ro còn lớn, thiệt hại trong nuôi trồng 
còn khá cao. Lao động có tay nghề cao của 
ngành công nghiệp chế biến còn hạn chế nên 
việc sản xuất chủ yếu dừng lại ở khâu sơ chế, 
hiệu quả kinh tế thấp, không giữ được sự ổn 
định của các thị trường xuất khẩu. 
Thứ tư, ngành nuôi trồng thủy sản chưa 
khai thác được lợi thế của biển đảo và vùng ven 
biển, hình thức nuôi chuyên canh, bán chuyên 
canh tại các vùng quy hoạch phát triển còn 
chậm. Sản lượng và năng suất nuôi trồng chưa 
ổn định, rủi ro còn lớn, một số vùng, khu vực 
nuôi trồng thủy sản còn mang tính tự phát, hệ 
thống thủy lợi, giao thông, cơ sở dịch vụ phục 
vụ cho nuôi trồng chưa đáp ứng kịp yêu cầu. 
Tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản trên biển, quanh 
các đảo rất lớn nhưng chưa tập trung đầu tư 
khai thác để đạt hiệu quả cao. Tình trạng hạn 
hán, xâm nhập mặn chưa được dự báo và khắc 
phục kịp thời dẫn đến nhiều thiệt hại cho ngành 
nuôi trồng thủy sản. 
Thứ năm, tệ nạn xã hội trên các đảo có dấu 
hiệu gia tăng cả về số vụ và mức độ nguy hiểm. 
Các giá trị văn hóa truyền thống đang bị mai 
một trước sự thâm nhập quá mạnh của đồng 
tiền và cuộc sống thực dụng trong xã hội hiện 
đại. Trong điều kiện dân trí chưa cao, sự thay 
đổi quá nhanh về điều kiện kinh tế xã hội đã 
làm cho khả năng thích ứng của một bộ phận 
giới trẻ chưa theo kịp. Mặt khác, sự phát triển 
mạnh mẽ của các công trình, dự án cũng làm 
cho số lượng lao động vãng lai trên các đảo 
tăng đột biến, làm cho tình hình xã hội diễn 
biến phức tạp. 
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế 
Thứ nhất, chưa có một kế hoạch tổng thể, 
có tính chiến lược về phát triển kinh tế biển, 
đảo trên địa bàn tỉnh. Từ năm 2010 trở lại đây, 
việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước đang 
diễn ra một cách ồ ạt, các nguồn lợi biển đảo 
đang bị cắt xén một cách ồ ạt, tình trạng tư 
nhân hóa các bãi biển, các khu du lịch đang là 
vấn đề gây bức xúc cho quá trình phát triển bền 
vững kinh tế biển, đảo Kiên Giang. 
Thứ hai, các nguồn lực kinh tế về vốn, khoa 
học công nghệ, trình độ nguồn nhân lực, khả 
năng quản lý của tỉnh còn nhiều hạn chế nên 
việc đầu tư phát triển các ngành nghề đòi hỏi 
vốn lớn, trình độ kỹ thuật cao như cảng biển 
nước sâu, vận tải biển quốc tế, công nghiệp 
đóng tàu công suất lớn gặp nhiều khó khăn. 
Thói quen bám biển bằng những công cụ đánh 
bắt thô sơ như thuyền thúng, ghe công suất nhỏ 
đánh bắt gần bờ đã gắn chặt với cuộc sống của 
người dân nên muốn thay đổi là cả một quá 
trình lâu dài. Nhận thức của một bộ phận cán 
bộ và nhân dân về phát triển bền vững kinh tế 
biển còn nhiều hạn chế, các quan niệm về sự vô 
tận của tài nguyên biển đảo vẫn còn chế ngự ý 
thức và hành động của con người. 
Thứ ba, địa hình Kiên Giang rất phức tạp, 
cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, các hoạt động 
dịch vụ chưa phát triển nên việc thu hút đầu tư 
trong và ngoài nước vào các khu kinh tế ven 
biển, hải đảo như Thổ Chu, Hải Tặc, Nam Du, 
Kiên Hải còn nhiều khó khăn. Ngoại trừ những 
chính sách ưu đãi đặc thù từ Trung ương dành 
cho Phú Quốc, đến nay tỉnh Kiên Giang chưa 
có nhiều chính sách đủ mạnh để thu hút đầu tư 
phát triển kinh tế biển, đảo ở các khu vực khác 
trong tỉnh. 
Thứ tư, công tác quy hoạch, kế hoạch diễn 
ra còn chậm, thiếu đồng bộ, công tác dự báo 
tình hình còn hạn chế nên việc đối phó với các 
vấn đề mới nảy sinh như biến đổi khí hậu, xâm 
nhập mặn, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng 
còn nhiều lúng túng. Các chính sách đào tạo, 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 25 
thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ 
kinh tế biển chưa được chú trọng nhiều nên 
việc chuyển đổi các mô hình phát triển kinh tế 
biển gặp nhiều khó khăn. 
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT 
TRIỂN KINH TẾ BIỂN KIÊN GIANG 
4.1. Tối ƣu hóa cơ cấu ngành kinh tế biển 
Phát triển kinh tế biển Kiên Giang cần được 
quy hoạch một cách khoa học trên bình diện 
tổng thể cũng như các ngành, các lĩnh vực cụ 
thể nhằm khai thác hiệu quả các nguồn tài 
nguyên biển đảo, đồng thời cho phép huy động 
các nguồn lực của địa phương, tận dụng tối đa 
các nguồn lực bên ngoài. 
Cần có chính sách phát triển các ngành khai 
thác thủy sản hợp lý, hạn chế việc đánh bắt gần 
bờ, cải tiến, nâng cấp hệ thống tàu cá phục vụ 
đánh bắt xa bờ, kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, 
nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Cần 
chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp chế 
biến hàng nông thủy sản phục vụ xuất khẩu, 
hạn chế và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn việc xuất 
khẩu các sản phẩm thô, giá trị kinh tế thấp. 
Phát triển du lịch biển đảo và các dịch vụ phục 
vụ ngành du lịch như nhà hàng, khách sạn, 
thông tin liên lạc, các dịch vụ mua sắm, giải trí 
đáp ứng nhu cầu du khách thập phương. Chuẩn 
bị đầy đủ các điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ 
thuật, nguồn nhân lực nhằm phát triển các 
ngành có khả năng cạnh tranh cao như cảng 
biển, vận tải biển, công nghiệp đóng tàu, thăm 
dò và khai thác khoáng sản ngoài khơi nhằm 
thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền 
vững nền kinh tế. 
4.2. Tăng cƣờng công tác thăm dò, dự 
báo các nguồn lợi của biển, đảo 
Chú trọng đầu tư công tác thăm dò khoáng 
sản ngoài khơi nhằm tìm kiếm, quy hoạch và 
xây dựng lộ trình phát triển ngành công nghiệp 
khai khoáng như dầu mỏ, khí đốt, khoáng sản ti 
tan Thực hiện tốt công tác đánh giá nguồn 
lợi thủy sản ngoài khơi để có kế hoạch phát 
triển ngành đánh bắt xa bờ. Thăm dò các tiềm 
năng du lịch trên các đảo, đặc biệt là các đảo xa 
để chủ động xây dựng các đề án phát triển du 
lịch sinh thái biển đảo chất lượng cao. Xây 
dựng các tuyến du lịch kết nối giữa Phú Quốc, 
Kiên Hải, Thổ Chu, Hải Tặc và Hà Tiên. Khảo 
sát, kiểm tra chất lượng môi trường, nguồn 
nước, dinh dưỡng ở các vịnh, đầm để xây dựng 
chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy 
sản. Tăng cường công tác nghiên cứu để tạo ra 
các loại cây trồng, vật nuôi có khả năng thích 
ứng trước tình hình biến đổi khí hậu và tình 
trạng xâm nhập mặn đang diễn ra ngày càng 
phức tạp hiện nay. 
4.3. Đẩy mạnh quản lý toàn diện kinh tế 
biển đảo 
Cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, 
tổ chức và cá nhân để cải thiện hệ thống quản 
lý biển đảo và khu vực ven biển nhằm khai thác 
hiệu quả các nguồn lợi của biển. Tăng cường 
giám sát việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở 
các đảo xa, đặc biệt là các đảo có điều kiện 
kinh tế khó khăn, dân cư sinh sống thưa thớt 
hoặc chưa có dân cư sinh sống, tạo điều kiện để 
nhân dân bám đảo, phát triển kinh tế trên các 
đảo xa. 
Tăng cường công tác tuyên truyền, giám sát 
đối với việc bảo vệ môi trường biển đảo, phối 
hợp với các cơ quan chuyên môn nhằm bảo vệ 
và cải tạo hệ thống sinh thái biển. Ngăn chặn 
việc khai thác quá mức các nguồn thủy sản, đầu 
tư đóng mới, cải hoán, nâng cấp đội tàu đánh 
bắt xa bờ, tiến tới xóa bỏ các hình thức đánh 
bắt có tính chất tận diệt nguồn lợi thủy sản như 
lưới cào, chất nổ, kích điện. Thiết lập cơ chế 
phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhằm 
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế biển, duy trì 
trật tự thị trường trong khu vực kinh tế. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 26 
4.4. Tăng đầu tƣ vào cơ sở hạ tầng hàng 
hải 
Coi trọng việc hỗ trợ xây dựng các công 
trình giao thông, năng lượng điện và tài nguyên 
nước nhằm đảm bảo cuộc sống của nhân dân 
trên các đảo. Tăng cường các biện pháp tài 
chính nhằm hỗ trợ ngư dân đóng mới, nâng cấp 
tàu đánh cá, giúp ngư dân trên các đảo bám 
biển dài ngày. Từng bước hoàn thiện hệ thống 
cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải bằng đường 
biển nhằm kích thích đầu tư phát triển các cơ 
sở chế biến thủy sản trên các đảo xa, đáp ứng 
nhu cầu tiêu thụ hàng thủy sản cho ngư dân. 
Đầu tư phát triển hệ thống thông tin liên lạc 
giữa các đảo, giữa đất liền với các đảo, nhằm 
mở rộng liên doanh, liên kết giữa các đảo ven 
bờ với thế giới bên ngoài. Hoàn thiện cơ chế, 
chính sách thu hút đầu tư, bảo đảm tất cả các 
nhà đầu tư trong và ngoài nước đều được 
khuyến khích và hỗ trợ để có thể tham gia vào 
việc phát triển kinh tế biển, tạo điều kiện để 
phát triển các ngành kinh tế tiềm năng như du 
lịch sinh thái biển đảo. 
4.5. Tăng cƣờng bảo vệ môi trƣờng biển 
Cùng với các chính sách đẩy mạnh phát 
triển kinh tế biển đảo, Kiên Giang cần chú 
trọng vào công tác bảo vệ môi trường biển đảo 
và khu vực ven biển. Những bài học quý giá từ 
các sự cố môi trường ở các khu kinh tế ven 
biển trong cả nước thời gian qua nhắc nhở 
chúng ta phải chú trọng hơn đối với công tác 
bảo vệ môi trường biển đảo. Phối hợp với các 
cơ quan chuyên môn xây dựng hệ thống quan 
trắc môi trường để kịp thời phát hiện, xử lý các 
biểu hiện vi phạm môi trường của các công ty, 
xí nghiệp. Tiêu chuẩn hóa các dựa án theo kỹ 
thuật tiên tiến trong quá trình thẩm định, tránh 
nhập khẩu công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi 
trường. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát hoạt động 
của các điểm kinh doanh du lịch trên các bãi 
biển, khu vực ven biển và trên các đảo. Thực 
hiện quy hoạch khoa học, phối hợp kiểm tra 
giám sát chặt chẽ, khách quan là đảm bảo cuối 
cùng cho sự phát triển nhanh và bền vững của 
kinh tế biển đảo Kiên Giang. 
5. KẾT LUẬN 
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, 
kinh tế biển Kiên Giang đã từng bước khẳng 
định vai trò, vị trí của mình trong chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp quan trọng 
vào tổng giá trị nền kinh tế. Năm 2015, giá trị 
kinh tế biển chiếm 47,6% GDP, giải quyết 
17,48% lao động và đóng góp 40,33% tổng giá 
trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh các 
ngành nghề truyền thống như khai thác, nuôi 
trồng và chế biến thủy sản, sự phát triển của 
các ngành mới như du lịch biển, kinh tế hàng 
hải, kinh tế đảo, lấn biển và các ngành dịch vụ 
phục vụ kinh tế biển đang tạo ra những động 
lực to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế 
biển của địa phương. Tuy nhiên, những kết quả 
đạt được chưa phản ánh hết tiềm năng, thế 
mạnh của Kiên Giang. Để khai thác có hiệu quả 
các nguồn lợi biển đảo, Kiên Giang cần có 
chiến lược tổng thể nhằm tranh thủ tối đa 
nguồn lực bên ngoài trên cơ sở phát huy các 
nguồn lực của địa phương, tăng cường xây 
dựng gắn liền với việc bảo vệ các nguồn lợi 
biển và môi trường sinh thái, góp phần thực 
hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của 
nền kinh tế. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 27 
Strategic Measures for the Marine Economic 
Development of Kien Giang Province 
 Nguyen Dinh Binh 
Sai Gon University - Email: ndinhbinh@gmail.com 
ABSTRACT 
This paper analyzes the current situation 
of Kien Giang’s marine economic development 
in the process of international integration. 
Based on the analysis, the authors propose 
some strategic measures for implementing the 
goals of marine economic development and 
enriched income from harvesting the sea, 
which are: optimizing marine industry 
structure; strengthening the exploration of and 
forecast about ocean resources; promoting a 
comprehensive management of marine 
economy; and increasing the investment in 
marine infrastructure and marine 
environmental protection. From the analyzes 
and explanations about the Kien Giang’s 
marine economic development, the author has 
proposed suitable solutions to contribute to the 
fast and sustainable development of the marine 
economy in Kien Giang. 
Keywords: Kien Giang, marine economy development, marine economy. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Allen Consulting (2004), The economic 
contribution of Australia’s marine 
industries 1995–1996 to 2002–2003: a 
report prepared for the National Oceans 
Advisory Group. The Allen Consulting 
Group Pty Ltd, Australia. 
[2]. Colgan CS (2007), A guide to the 
measurement of the market data for the 
ocean and coastal economy in the National 
Ocean Economics Program. National 
Ocean Economics Program, USA. 
[3]. Đảng bộ tỉnh Kiên Giang (2015), Văn kiện 
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X nhiệm kỳ 
2015 – 2020. 
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5]. Đào Duy Quát, Phạm Văn Linh (2008), 
Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển 
đảo Việt Nam, Ban tuyên giáo Trung ương, 
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[6]. Department of Fisheries and Oceans (DFO) 
(2002), Developing a common methodology 
and approach for future ocean industries 
studies. Workshop report, Ocean Industries 
Workshop; Halifax, Nova Scotia, Canada. 
[7]. ECORYS (2012), Blue growth scenarios and 
drivers for sustainable growth from the 
oceans, seas and coasts. Final report for the 
European Commission, DG MARE. ECORYS, 
Rotterdam, The Netherlands. 
[8]. Huỳnh Văn Thanh (2002), Giải pháp cơ 
bản nhằm phát triển bền vững và có hiệu 
quả kinh tế biển thành phố Đà Nẵng, Đề tài 
Khoa học cấp thành phố, Sở Kế hoạch và 
Đầu Tư, UBND TP Đà Nẵng. 
[9]. Karyn Morrissey (2011), Cathal O’Donoghue, 
The Irish marine economy and regional 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 28 
development. Published by Institute of Electrical 
and Electronics Engineers. 
[10]. Lại Lâm Anh (2014), Phát triển kinh tế biển 
của Trung Quốc, Malaysia, Singapore và 
gợi ý chính sách cho Việt Nam. Sách 
chuyên khảo. Nhà xuất bản Khoa học Xã 
hội. Hà Nội. 
[11]. Nathan Associates (1974), Gross product 
originating from ocean-related activities. 
Washington DC: Bureau of Ecsonomic 
Analysis. 
[12]. New Zealand’s environmental statistics 
team, New Zealand’s marine economy 
1997–2002. Statistics New Zealand, 
Environmental series, New Zealand (2006). 
[13]. Niên Giám Thống kê tỉnh Kiên Giang năm 
2006 – 2015. 
[14]. Zhai Ren-Xiang, Li Wei (2013), 
Econometrics Forecasting the Marine 
Economic Development in Jiangsu 
Province. Published by Institute of 
Electrical and Electronics Engineers. 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_phat_trien_kinh_te_bien_kien_giang.pdf