Giáo trình Chương 3 Triển vọng của ASEAN +3, tác động của nó tới ASEAN và Việt Nam

3.1. Triển vọng của ASEAN+3

Triển vọng của ASEAN+3 sẽ như thế nào trong hoàn cảnh

thuận lợi cũng nhiều, khó khăn cũng lắm như vậy? Để trả lời

câu hỏi này, có ít nhất sáu vấn đề cần giải đáp.

1. ASEAN+3 có triển vọng chắc chắn không?

2. Nếu không chắc chắn, liệu ASEAN+3 có tồn tại hay không?

3. Nếu có thể tồn tại, ASEAN+3 có khả năng phát triển không?

4. Nếu có khả năng phát triển, lĩnh vực và mức độ hợp

tác đa phương trong ASEAN+3 thế nào?

5. Nếu hợp tác tăng lên, khuôn khổ và cơ cấu của ASEAN+3 có

thay đổi không?

6. Nếu các khả năng trên đều có, mô hình thể chế tương

lai của ASEAN+3 có thể như thế nào?

Đối với câu hỏi đầu tiên, triển vọng của ASEAN+3 là

không chắc chắn và khó dự báo. Cho dù sự hình thành của

thể chế này phù hợp với xu thế chung của thế giới và khu

vực, phù hợp với lợi ích của các quốc gia thành viên, tương lai

của ASEAN+3 vẫn khó đoán định. Cho dù xu thế hợp tác

Đông Á có thể không thay đổi nhưng các hình thức thể chế

khu vực mà ASEAN+3 là một trong số đó vẫn có thể thay đổi.

Hiện nay, ASEAN+3 đang trong quá trình vận động với

những diễn biến khó đoán. Mối quan hệ hợp tác đa phương

trong ASEAN+3 đã được định hình nhưng vẫn chưa chắc

chắn. ASEAN+3 được thành lập nhằm thúc đẩy hợp tác đa

phương. Một khi hợp tác đa phương thay đổi, thể chế cũng sẽ

thay đổi theo. Bởi thế, ASEAN+3 vẫn có thể thay đổi.

Tính chưa chắc chắn trong triển vọng của hợp tác đa

phương ASEAN+3 được quy định bởi nhiều nhân tố khác

nhau. Trong đó có nhân tố tương đối ổn định và nhân tố bất

ổn định. Các vấn đề được nêu trong chương 2 chính là nơi

chứa đựng những nhân tố tương đối ổn định không có lợi cho

hợp tác đa phương ASEAN+3. Gọi là tương đối ổn định bởi sự

hiện diện kéo dài của chúng. Các vấn đề này không hề nhỏ,

tác động của chúng khá mạnh và toàn diện. Thậm chí, một số

vấn đề trong số chúng còn chứa đựng khả năng chấm dứt hợp

tác ASEAN+3. Việc khắc phục chúng khá khó khăn và đòi hỏi

thời gian lâu dài. Chính sự tồn tại của các vấn đề trên khiến

cho triển vọng của ASEAN+3 khó xác định. Trong nhiều năm

tới, chúng vẫn tồn tại và tiếp tục ảnh hưởng không nhỏ lên

tiến trình hợp tác đa phương ASEAN+3.

pdf 41 trang Bích Ngọc 03/01/2024 4160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chương 3 Triển vọng của ASEAN +3, tác động của nó tới ASEAN và Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Chương 3 Triển vọng của ASEAN +3, tác động của nó tới ASEAN và Việt Nam

Giáo trình Chương 3 Triển vọng của ASEAN +3, tác động của nó tới ASEAN và Việt Nam
 191 192 
Chương 3 
TRIỂN VỌNG CỦA ASEAN+3, 
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI ASEAN VÀ VIỆT NAM 
3.1. Triển vọng của ASEAN+3 
Triển vọng của ASEAN+3 sẽ như thế nào trong hoàn cảnh 
thuận lợi cũng nhiều, khó khăn cũng lắm như vậy? Để trả lời 
câu hỏi này, có ít nhất sáu vấn đề cần giải đáp. 
1. ASEAN+3 có triển vọng chắc chắn không? 
2. Nếu không chắc chắn, liệu ASEAN+3 có tồn tại hay không? 
3. Nếu có thể tồn tại, ASEAN+3 có khả năng phát triển không? 
4. Nếu có khả năng phát triển, lĩnh vực và mức độ hợp 
tác đa phương trong ASEAN+3 thế nào? 
5. Nếu hợp tác tăng lên, khuôn khổ và cơ cấu của ASEAN+3 có 
thay đổi không? 
6. Nếu các khả năng trên đều có, mô hình thể chế tương 
lai của ASEAN+3 có thể như thế nào? 
Đối với câu hỏi đầu tiên, triển vọng của ASEAN+3 là 
không chắc chắn và khó dự báo. Cho dù sự hình thành của 
thể chế này phù hợp với xu thế chung của thế giới và khu 
vực, phù hợp với lợi ích của các quốc gia thành viên, tương lai 
của ASEAN+3 vẫn khó đoán định. Cho dù xu thế hợp tác 
Đông Á có thể không thay đổi nhưng các hình thức thể chế 
khu vực mà ASEAN+3 là một trong số đó vẫn có thể thay đổi. 
Hiện nay, ASEAN+3 đang trong quá trình vận động với 
những diễn biến khó đoán. Mối quan hệ hợp tác đa phương 
trong ASEAN+3 đã được định hình nhưng vẫn chưa chắc 
chắn. ASEAN+3 được thành lập nhằm thúc đẩy hợp tác đa 
phương. Một khi hợp tác đa phương thay đổi, thể chế cũng sẽ 
thay đổi theo. Bởi thế, ASEAN+3 vẫn có thể thay đổi. 
Tính chưa chắc chắn trong triển vọng của hợp tác đa 
phương ASEAN+3 được quy định bởi nhiều nhân tố khác 
nhau. Trong đó có nhân tố tương đối ổn định và nhân tố bất 
ổn định. Các vấn đề được nêu trong chương 2 chính là nơi 
chứa đựng những nhân tố tương đối ổn định không có lợi cho 
hợp tác đa phương ASEAN+3. Gọi là tương đối ổn định bởi sự 
hiện diện kéo dài của chúng. Các vấn đề này không hề nhỏ, 
tác động của chúng khá mạnh và toàn diện. Thậm chí, một số 
vấn đề trong số chúng còn chứa đựng khả năng chấm dứt hợp 
tác ASEAN+3. Việc khắc phục chúng khá khó khăn và đòi hỏi 
thời gian lâu dài. Chính sự tồn tại của các vấn đề trên khiến 
cho triển vọng của ASEAN+3 khó xác định. Trong nhiều năm 
tới, chúng vẫn tồn tại và tiếp tục ảnh hưởng không nhỏ lên 
tiến trình hợp tác đa phương ASEAN+3. 
 193 194 
Các nhân tố này đang gây ra những tác động không thuận 
lợi cho tiến trình này từ cả môi trường bên ngoài lẫn môi 
trường bên trong. Không chỉ tạo ra tính không chắc chắn cho 
hợp tác đa phương ASEAN+3, các nhân tố đó còn góp phần 
tạo ra sự nghi ngờ về vai trò thực sự, hiệu quả hợp tác, tương 
lai thể chế hoá và thậm chí là cả khả năng tồn tại của 
ASEAN+3. Từ đó, sự kỳ vọng và tinh thần dấn thân vào 
ASEAN+3 bị giảm sút, làm yếu đi cơ sở chủ quan cho hợp tác 
đa phương ASEAN+3. Như trong chương 2 đã trình bày, chính 
sự tồn tại của các nhân tố này khiến cho ASEAN+3 hiện nay 
vẫn chưa ổn định và đang vận động khó khăn. Và sự khó 
khăn này được tin là sẽ tiếp tục trong tương lai bất chấp 
những thuận lợi không nhỏ đối với tiến trình này. Do quy mô 
và mức độ tác động khá lớn của các vấn đề đó, việc khắc phục 
chúng như thế nào sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tương lai của 
hợp tác đa phương ASEAN+3. 
Bên cạnh đó, triển vọng của ASEAN+3 còn khó đoán định 
hơn bởi sự tác động từ các nhân tố bất ổn định. Đó là các 
nhân tố thường xuất phát từ những nguyên nhân tình huống 
và yếu tố chủ quan. Chúng được gọi là bất ổn định bởi sự tồn 
tại không thường xuyên và tính dễ thay đổi của chúng. Mọi 
thể chế, mọi quan hệ hợp tác quốc tế trên thế giới đều chịu 
tác động bởi các nhân tố này nhưng khả năng chịu đựng và 
hoá giải là khác nhau. Trong trường hợp Đông Á với 
ASEAN+3, khả năng tác động của các nguyên nhân tình 
huống là lớn bởi nhiều lý do. Sự tồn tại các vấn đề nêu trong 
chương 2 chính là nguồn tạo ra các tình huống không có lợi 
cho hợp tác đa phương ASEAN+3. Sự đa dạng lớn là môi 
trường thuận lợi cho các tình huống phát sinh. Lòng tin còn 
yếu là mảnh đất tốt cho sự khuyếch đại tác động tiêu cực của 
tình huống. Tình hình khu vực vẫn phức tạp nên tình huống 
dễ thay đổi và tác động là khó lường. Bên cạnh đó, ASEAN+3 
chưa có sự phát triển chắc chắn nên khả năng đối phó của nó 
với các tình huống chưa cao. Điều này càng làm cho nó dễ bị 
tác động nhiều hơn bởi các nguyên nhân tình huống. 
Một nhân tố bất ổn định khác là tính chủ quan vẫn ngự 
trị đáng kể trong quan hệ quốc tế khu vực Đông Á. Chính 
nhân tố chủ quan này đã khiến quan hệ quốc tế nói chung 
khó dự báo. Đối với Đông Á, tính chủ quan còn có khả năng 
lớn hơn nhiều nơi khác. Ở đây, cái tôi và chủ nghĩa quốc gia 
còn lớn, tâm lý lịch sử và sức nặng tình cảm còn mạnh nên 
chính sách đối ngoại dễ bị tác động bởi các yếu tố chủ quan. 
Ở một số nước Đông Á, do mức độ dân chủ và mức độ đại 
diện cho toàn xã hội không cao nên tính chủ quan cá nhân 
vẫn còn khá lớn trong hoạch định chính sách đối ngoại. Hơn 
nữa, khả năng hạn chế tính chủ quan cũng không cao do mức 
độ thể chế hoá chưa sâu sắc, ý chí tuân thủ thoả thuận còn 
yếu, các nguyên tắc vẫn có thể được thay đổi. Nhìn chung ở 
Đông Á, sự ràng buộc của cái chung còn yếu, sự đa dạng của 
cái riêng còn cao. Vì thế, tính chủ quan vẫn có chỗ đứng đáng 
kể trong hợp tác đa phương ASEAN+3, làm cho tiến trình này 
chưa ổn định, triển vọng của ASEAN+3 chưa chắc chắn. 
Sự thay đổi lãnh đạo, sự biến động bên trong, một ý đồ 
tập hợp lực lượng, một toan tính cá nhân, một tranh chấp 
 195 196 
nảy sinh, một tình huống mới xuất hiện trong khi ASEAN+3 
vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng đều có thể tác động đến sự vận 
động bình thường của nó. Khả năng tác động này còn lớn hơn 
trong trường hợp liên quan đến nước lớn, liên quan đến các 
lĩnh vực và vấn đề nhạy cảm như chủ quyền quốc gia hay 
tranh chấp quyền lực chẳng hạn. 
Chính triển vọng không chắc chắn nói trên của ASEAN+3 
đã dẫn đến câu hỏi thứ hai: Liệu ASEAN+3 có tồn tại được 
hay không. Ngay từ khi mới thành lập ASEAN+3, câu hỏi này 
đã được đặt ra. Từ năm 1999, câu hỏi này ít được đặt ra hơn 
cho dù vẫn còn sự nghi ngờ. Gần đây, khi EAS được hình 
thành, câu hỏi này lại quay trở lại. Trên thực tế, người ta 
không nghi ngờ về sự cần thiết và giá trị của ASEAN+3 
nhưng lại có sự băn khoăn liệu khuôn khổ này có thể vượt 
qua khó khăn để tồn tại hay không. Bị vướng mắc trong một 
mớ khó khăn, ASEAN+3 có thể bị chấm dứt hoặc được thay 
thế bằng hình thức thể chế khác? 
Những vấn đề được nêu trong chương 2 cho thấy khả năng 
đe dọa sự tồn tại của ASEAN+3 là có thật và không nhỏ. 
Nhưng trên thực tế, các vấn đề trên không chỉ có tác động 
một chiều đối với sự tồn tại của ASEAN+3. Các vấn đề đó đều 
chứa đựng những tác động tích cực và tiêu cực đối với hợp tác 
đa phương ASEAN+3. Tính hai mặt của tác động cũng nằm 
trong những tiền đề quy định khả năng hợp tác đa phương 
khu vực như đã trình bày trong phần 1.1. Trong đó, tác động 
chung lớn nhất từ các vấn đề này chính là sức ép thúc đẩy 
hợp tác đa phương nhằm duy trì môi trường ổn định cho khu 
vực và sự phát triển cho quốc gia. 
Là một thể chế được lập ra để hợp tác, ASEAN+3 dễ tồn 
tại hơn trong bối cảnh hợp tác và khó tồn tại hơn trong bối 
cảnh xung đột. Như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, hợp tác hiện 
nay đã trở thành xu thế lớn trên cả cấp độ toàn cầu, khu vực 
và quốc gia. Vì thế, trong bối cảnh đó, ASEAN+3 có nhiều lý 
do để tồn tại hơn là không tồn tại. 
Nhìn chung, xu hướng tăng cường hợp tác đa phương của 
ASEAN+3 vẫn sẽ được tiếp tục. Niềm tin này là có cơ sở bởi 
những lý do sau: Sự tồn tại của các tiền đề địa lý, lịch sử, văn 
hoá-xã hội, an ninh-chính trị và kinh tế đang góp phần tạo ra 
xu hướng khu vực hoá và sự nổi lên của chủ nghĩa khu vực 
Đông Á. Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương ASEAN+3 
là sự phát triển phù hợp với môi trường quốc tế và xu thế hợp 
tác chung của thế giới. Nó có được động lực mạnh mẽ từ nhận 
thức và lợi ích chung của các nước thành viên đối với hợp tác 
đa phương khu vực vì hoà bình, ổn định và thịnh vượng. Xu 
hướng này được sự ủng hộ của lịch sử, của các cố gắng xây 
dựng thể chế khu vực sau Chiến tranh lạnh và của những tiến 
bộ đạt được trong hợp tác đa phương ASEAN+3. Trong 10 
năm qua, hầu hết các nước đều có thêm cơ hội phát triển và 
đã được hưởng lợi ít nhiều từ quá trình này. Tất cả những 
nhân tố trên đang góp phần quy định khả năng tồn tại tiếp 
tục của khuôn khổ hợp tác này. 
Trong những tình huống xấu đi, ASEAN+3 vẫn có thể tồn 
tại ít nhất như nó đã từng ban đầu, tức là một cuộc họp đơn 
 197 198 
thuần của ba ASEAN+1 trong khuôn khổ ASEAN PMC. Đơn 
giản là vì sự tồn tại của ASEAN+3 cần thiết đối với các nước 
thành viên. ASEAN sẽ cố giữ hình thức này vì điều đó giúp 
cho việc duy trì vai trò của ASEAN trong khu vực. Còn ba 
nước Đông Bắc Á thì vẫn có một diễn đàn để trao đổi các vấn 
đề khu vực và duy trì quan hệ với ASEAN. Các nước ASEAN 
và Hàn Quốc cần ASEAN+3 để hạn chế áp lực từ các nước 
lớn. Trung Quốc và Nhật Bản cần ASEAN+3 để kiềm chế lẫn 
nhau và Trung Quốc thì còn có thêm lý do làm giảm áp lực từ 
phía Mỹ. Tất cả chúng đều cần ASEAN+3 để thúc đẩy hợp tác 
phát triển, kiềm chế xung đột và đảm bảo an ninh. Và trong 
bối cảnh toàn cầu hóa, tất cả chúng đều cần ASEAN+3 để 
nâng cao tiếng nói của mình trong quan hệ với bên ngoài. 
Những điều này cho thấy ASEAN+3 có khả năng tồn tại ngay 
cả khi tình hình không hoàn toàn thuận lợi. 
Do đó, khả năng ASEAN+3 bị chấm dứt và thay thế bằng 
hình thức thể chế khác là tương đối ít. Cho dù ASEAN+3 đang 
gặp nhiều khó khăn, đang gặp thách thức từ APEC và EAS, cơ 
hội cho ASEAN+3 tồn tại vẫn lớn hơn so với khả năng trên. 
Đối với những thách thức từ APEC và EAS, ASEAN+3 ngay từ 
đầu đã được cố gắng định hướng như một cơ chế bổ sung và tìm 
cách hạn chế sự chồng chéo với các thể chế khu vực khác. Hơn 
nữa, sự tồn tại của ASEAN+3 cũng đang được hi vọng đóng góp 
ít nhiều cho tự do hoá thương mại trong APEC và tạo tiền đề 
thể chế cho EAS. Khi các thể chế đi cùng một hướng, không 
dẫm lên chân nhau, không ngáng trở nhau thì sự tồn tại của 
ASEAN+3 là hoàn toàn có thể. 
Như vậy, về đại thể, cơ hội tồn tại của ASEAN+3 là có. 
Bên cạnh những xu thế chung của thế giới, khu vực và trong 
từng quốc gia thành viên đang ủng hộ tiến trình ASEAN+3, 
việc ASEAN+3 tồn tại và phát triển được trong 10 năm qua 
bất chấp khó khăn vẫn còn đó đã chứng tỏ sức sống nhất 
định của nó, chứng tỏ khả năng tồn tại tiếp tục của nó. 
Vậy một khi có thể tồn tại, khả năng phát triển của nó sẽ 
ra sao? Vị trí vai trò của ASEAN+3 đối với hợp tác khu vực sẽ 
như thế nào? Đây chính là câu hỏi thứ ba liên quan đến 
triển vọng của ASEAN+3. Hoặc ASEAN+3 sẽ chỉ tồn tại một 
cách hình thức với vai trò yếu ớt, hoặc ASEAN+3 sẽ ngày 
càng phát triển và trở thành thể chế khu vực quan trọng, 
hoặc ASEAN+3 rơi vào tình trạng ở giữa hai mức trên tức là 
có tiến triển nhưng chậm chạp và vai trò của nó chỉ là mức 
vừa phải. 
Khả năng đầu tiên của ASEAN+3 tồn tại chỉ về hình thức 
với những hoạt động không thực chất của ASEAN+3 là có. 
Những khó khăn quá lớn và không được giải quyết trong quá 
trình hợp tác đa phương ASEAN+3 sẽ khiến nó có thể bị rơi 
vào tình trạng này. Thậm chí các nguyên nhân tình huống 
cũng có thể gây ra sự cầm chừng hay tê liệt trong hoạt động. 
Khi đó, ASEAN+3 có thể vẫn tồn tại vì sự cần thiết duy trì đối 
thoại cho tương lai hơn là cố gắng phát triển hợp tác về thực 
chất. Tình trạng như thế sẽ khiến vai trò của nó đối với hợp 
tác đa phương khu vực trở nên yếu ớt. Tình trạng này không 
hề hiếm trong thực tế thể chế ở Đông Á như đã từng xảy ra với 
 199 200 
những trường hợp được coi là thành công hơn cả là ASEAN 
hay APEC trong những năm đầu hoạt động và trong chừng 
mực nào đó là cả ARF hiện nay. Mặc dù khả năng này là có 
nhưng không còn cao trong bối cảnh hiện nay. Tình hình quốc 
tế, điều kiện khu vực, lợi ích của các nước thành viên đều dẫn 
đến yêu cầu phải có một thể chế hợp tác đa phương cho Đông 
Á có tính thực chất chứ không phải hình thức. Một sự thiếu 
thực chất sẽ đồng nghĩa với việc không tồn tại. 
Khả năng thứ hai là ASEAN+3 sẽ ngày càng phát triển 
với tốc độ cao và trở thành thể chế khu vực quan trọng. Xét 
về mặt tiềm năng, khả năng này là có thể, nhất là khi Đông 
Á chưa có một tổ chức hợp tác thuần khu vực nào cả ngoài 
ASEAN+3. Khả năng này còn được phản ánh trong vai trò 
đang có hiện nay của ASEAN+3 và sự kỳ vọng vào nó. Tuy 
nhiên, như chương 2 đã đề cập, ASEAN+3 đang phải đối mặt 
với quá nhiều vấn đề trong hợp tác nội khối. Việc giải quyết 
các vấn đề này khá khó khăn và đòi hỏi nhiều thời gian. Mức 
độ thể chế hoá của nó còn lâu mới thoát khỏi tình trạng lỏng 
lẻo nên khả năng thống nhất nỗ lực không cao, khả năng ứng 
phó linh hoạt thấp. ASEAN+3 cũng đang gặp phải sự cạnh 
tranh của APEC, EAS và ARF về vai trò trong khu vực. Hơn 
nữa, tuy ASEAN+3  ... thực sự dấn sâu vào hợp tác Đông Á 
với việc hình thành ASEAN+3. Kể từ đó, ASEAN ngày càng 
có xu hướng trở thành một bộ phận không tách rời của Đông 
Á. Lợi ích và vấn đề của ASEAN cũng gắn bó nhiều hơn vào 
ASEAN+3. Hợp tác ASEAN+3 trở thành nơi quy định nhiều 
cơ hội và thách thức đối với ASEAN. 
Cho đến nay, ASEAN vẫn tiếp tục tham gia vào tiến trình 
hợp tác này. Số phận của ASEAN sẽ tiếp tục gắn vào Đông Á. 
Sự vận động của ASEAN vẫn đi cùng con đường hợp tác Đông 
Á. Trong bối cảnh hợp tác ASEAN+3, vấn đề duy trì vai trò 
của ASEAN vẫn tiếp tục là lợi ích thiết yếu đối với các thành 
viên. Tuy nhiên, hợp tác đa phương ASEAN+3 cũng đặt ra 
trước ASEAN hàng loạt cơ hội và thách thức mới. Vai trò 
tương lai của ASEAN sẽ phụ thuộc nhiều vào việc tận dụng cơ 
hội và đối phó với các thách thức đó như thế nào. 
ASEAN+3 có vai trò quan trọng đối với Việt Nam. Sự tồn 
tại của ASEAN+3 đem lại cơ hội phát triển và duy trì môi 
trường ổn định cho Việt Nam. Vì thế, Việt Nam đã tham gia 
và ủng hộ quá trình này. Hiện nay, đối với Việt Nam, thúc 
đẩy sự phát triển ASEAN+3 trở thành một mục tiêu chính 
sách quan trọng. Tuy nhiên, trong tiến trình hợp tác 
ASEAN+3, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thuận lợi 
và khó khăn. Và cũng giống như ASEAN, sự tham gia hiệu 
quả của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phát huy 
thuận lợi, hạn chế khó khăn của nước ta trong tiến trình này. 
Tham gia vào tiến trình ASEAN+3, việc nâng cao vai trò 
của Việt Nam là hết sức quan trọng. Vai trò không chỉ giúp 
củng cố sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. 
Nó còn là cơ sở đem lại cho chúng ta khả năng tác động tới 
sự vận động và phát triển của ASEAN+3 sao cho phù hợp 
nhất với lợi ích và điều kiện của Việt Nam. Tất nhiên, điều 
căn bản để có được vai trò đáng kể trong một cơ cấu hợp tác 
 261 262 
quốc tế thì phải có thực lực. Trong bối cảnh quốc tế và định 
hướng kinh tế của ASEAN+3, thực lực được xây dựng chủ yếu 
trên cơ sở trình độ phát triển. Vì thế, giải pháp lâu dài để 
nâng cao vai trò của Việt Nam trong hợp tác ASEAN+3 chính 
là phát triển. Phát triển chính là câu trả lời cho mọi vấn đề. 
Cuối cùng là một số ý kiến liên quan đến vấn đề này. Thứ 
nhất, hợp tác quốc tế ngày càng mang tính sống còn đối với 
một quốc gia. Đây là phương thức quan trọng để thực hiện hai 
lợi ích quốc gia cơ bản là an ninh và phát triển, là nguồn để 
xây dựng nội lực quốc gia. Thứ hai, cần có cách tiếp cận kinh 
tế-chính trị đối với các vấn đề khu vực, kể cả những vấn đề 
thuần kinh tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Đông Á, 
nơi môi trường quan hệ còn đầy phức tạp, đan xen và giằng 
chéo. Thứ ba, cần quan niệm hợp tác quốc tế là công việc của 
cả xã hội chứ không phải chỉ của một bộ phận thượng tầng, 
của nhóm hay giới nào đó. Có thế, trên dưới mới đồng thuận, 
hợp tác mới thực chất và hiệu quả. Thứ tư, cần phải đầu tư 
nghiêm túc và biết thoả hiệp theo tinh thần có đi có lại trong 
quan hệ với bên ngoài. Thứ năm, trong giai đoạn đầu, hợp tác 
ASEAN+3 cần rút kinh nghiệm từ ASEAN và APEC nhiều 
hơn là từ EU và NAFTA. Sự thích hợp này dựa trên những 
điểm chung về chủ thể, môi trường, điều kiện và vấn đề giữa 
các khuôn khổ đó. Thứ sáu, cần quán triệt nguyên tắc tư duy 
thống nhất trong sự đa dạng và linh hoạt trong sự biến đổi. 
Cách thức hành xử theo kiểu “ASEAN way” sẽ không còn dễ 
dàng như trước trong hợp tác ASEAN+3. Thứ bảy, cần có 
nhận thức rằng cơ hội hoàn toàn có thể trở thành thách thức 
nếu không tận dụng được. Ngược lại, thách thức cũng có thể 
chuyển hóa thành cơ hội nếu có cách thức xử lý đúng. Thứ 
tám, cơ chế ra quyết sách của ASEAN+3 phải gồm cả những 
người có quyền, có tiền và có tri thức chứ không nên đơn giản 
như trong ASEAN. Sự kết hợp ba giới chính trị, doanh nhân 
và học giả là cần thiết để có được cái nhìn toàn diện, thực 
tiễn và khoa học. Thứ chín, hợp tác khu vực bao gồm cả hợp 
tác đa phương và song phương, trong đó song phương là cơ sở 
tốt cho đa phương. Có thể cách thức kết hợp song phương và 
đa phương là phù hợp đối với hợp tác ASEAN+3. 
Về phía Việt Nam, để có thể tham gia hiệu quả vào hợp 
tác đa phương ASEAN+3, ngoài việc tăng cường thực lực qua 
phát triển, chúng ta cần tăng cường nghiên cứu và phổ biến 
tri thức về ASEAN+3. Chính sách và tri thức phổ biến ra xã 
hội sẽ trở thành nhận thức chung, tạo ra sự đồng thuận xã 
hội, khai thác và phát huy được các nguồn lực vào công cuộc 
hợp tác quốc tế. Thứ hai, chúng ta phải tìm ra nhiều lợi thế 
so sánh mới. Chúng ta có nhiều tiềm năng nhưng chưa phát 
hiện được những thứ mình có mà người khác cần. Người ta 
cần mình càng nhiều, mình càng dễ có tiếng nói. Chỉ nhìn 
vào những tiềm năng và lợi thế hiện có như dân số đông và 
lực lượng lao động giá rẻ, sẽ không thể làm tăng vị thế của 
chúng ta trong sự phân công lao động khu vực. Thứ ba, duy 
trì vai trò điều phối của ASEAN trong ASEAN+3 là cần thiết 
để có thể giữ vững hoặc nâng cao vai trò của Việt Nam trong 
 263 264 
khuôn khổ hợp tác này. ASEAN vẫn là một khối, là một bên 
trong hợp tác ASEAN thì tiếng nói của chúng ta sẽ là phép 
cộng của Việt Nam và ASEAN – một khối gồm 10 quốc gia. 
Thứ tư, chúng ta cần duy trì được sự cân bằng linh hoạt trong 
quan hệ với các nước lớn liên quan đến ASEAN+3 như Mỹ, 
Trung Quốc và Nhật Bản. Ngoài ra, các thế lực ngoài khu vực 
như EU, Nga, Ấn Độ, Australia và những cơ chế toàn cầu 
khác như Liên Hợp Quốc, WTO cũng cần được chú ý để tạo 
thêm khả năng cân bằng linh hoạt đối với các tác động bất 
lợi từ phía các nước lớn. 
 265 266 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
TIẾNG VIỆT 
1. Ngô Xuân Bình, Hướng tới một cộng đồng kinh tế Đông Á 
phát triển bền vững, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và 
Đông Bắc Á, số 1 (55)-2005 
2. Vũ Văn Hà, Những đặc trưng biến đổi chủ yếu của cộng 
đồng kinh tế khu vực Đông Á, Tạp chí nghiên cứu Nhật 
Bản và Đông Bắc Á, số 1 (55)-2005 
3. Vũ Văn Hà chủ biên, Quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật 
Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam, 
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2007 
4. Dương Phú Hiệp & Vũ Văn Hà chủ biên, Cục diện Châu 
Á-Thái Bình Dương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006 
5. Nguyễn Quốc Hùng, Đông Á trong nền chính trị thế giới 
thế kỷ XX, Tạp chí Khoa học, chuyên san Khoa học Xã hội 
và Nhân văn, số 2E-2003 
6. Nguyễn Thu Mỹ, Hợp tác ASEAN+3: quá trình phát triển, 
thành tựu và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2008 
7. Đỗ Hoài Nam, Võ Đại Lược (chủ biên), Hướng tới Cộng 
đồng kinh tế Đông Á, Nxb Thế giới, Hà Nội 2004 
8. Phạm Đức Thành, “Hợp tác Đông Á (ASEAN+3): Hiện 
trạng và Triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 
số 5, 2002 
9. Kỷ yếu hội thảo “Hướng tới Cộng đồng Đông Á: Cơ hội và 
Thách thức”, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn (ĐHQG Hà Nội), 2005 
TIẾNG ANH 
10.  
11. ADB Institute, Economic Integration and FTA Initiatives 
in East Asia,  
12. Anthony Milner, Our Dignity in Asia, 
13. Bae Geung-Chan, ASEAN+3 Regional Cooperation: Challenges 
and Prospects, Korean Observations on foreign Relations Vol.3, 
No.1, June 2001, Korean Council on Foreign Relations 
14. Chia Siow Yue, East Asian Regionalism and the ASSEAN-
Japan Economic Partnership, pp. 75-94 
15. Chia Siow Yue & Mari Pangestu, The rise of East Asian 
Regionalism, Draft, December 2003 
16. Choong Yong-Ahn, Newly Emerging Economic Integration 
in Northeast Asia: Challenges and Prospects, Korea and 
World Affairs Vol. XXVI, No.1, spring 2002, Research 
Center for Peace and Unification of Korea 
 267 268 
17. Danny Unger, A Regional Economic Order in East and 
Southeast Asia?, The Journal of Strategic Studies Vol. 24, 
No. 4, Dec 2001, Special Issue on Future Trend in East 
Asian International Relations, Frank Cass & Co. Ltd, 
Great Britain 2001 
18. Chang-Jae Lee, East Asian Economic Regionalism and the 
Role of South Korea, Draft prepared for presentation at 
the Korea conference on “Korea as a 21st Century Power” 
at the University off Cambridge, on April 3rd- 6th, 2002 
19. East Asia Study Group, Final Report of the East Asia 
Study Group, ASEAN+3 Summit, 4 November 2002, 
Phnom Penh, Cambodia 
20. East Asia Vision Group, Towards an East Asian Community: 
Region of Peace, Prosperitiy and Progress, ASEAN 
Secretarat, Jakarta 
21. Edward D. Mansfield & Helen V. Milner, The New Wawe 
of Regionalism, International Organization vol 53 No 3 
Summer 1999, The Massachusetts Institute of Technology 
Press, pp. 589-627 
22. Eiji Ogawa, Monetary Integration in East Asia, The 
Journal of East Asian Affairs Vol. XV, No. 2, Fall/Winter 
2001, p 344-368 
23. Eisuke Sakakibara & Sharon Yamakawa, Regional Integration 
in East Asia: Challenges and Opportunities, Part Two: 
Trade, Finance and Integration, World Bank East Asia 
Project, Global Security Research Center-Keio University 
24. Feng Lu, Free Trade Area: Awakening regionalism in 
Easta Asia, Working Paper No. E2003010, China Center 
for Economic Rearch at Peking University, 10/2003 
25. Fu-Kuo Liu and Philippe Régnier, Regionalism in East 
Asia, RoutledgeCuzon, New York 2003 
26. Glenn D. Hook, Globalization, East Asian Regionalism, 
and Japan’s Role in Euro-Asian Interregionalization, 
Japan Review No. 12, 2000, Bulletin of the International 
Research Center for Japan Studies, p 5-40 
27. G. Ikenberry & Jitsuo Tsuchiyama, Between balance of 
power and community: the future of multilateral security 
co-operation in the Asia-Pacific, International Relations of 
Asia Pacific Vol. 2, No. 1, 2002 Journal of the Japan 
Association of International Relations, Oxford University 
Press, p 69-94 
28. Hadi Soesatro, Whither ASEAN Plus 3?, PECC Trade 
Forum, Bangkok, Thailand June 12-13, 2001 
29. A. Hasnan Habib, Defining the “Asia Pacific Region”, The 
Indonesian Quarterly Vol. XXIII No. 4, 1995, pp. 302-308 
30. Ivo Strecker, Soft and Hard Regionalism, Socialogy and 
Ethnology Bulletin Vol. 1, no. 3, 1994, pp. 47-52 
 269 270 
31. Jiro Okatomo, Asian Regionalism and Japan, IDE APEC 
Study Center, 3/1997 
32. John Ravenhill, A Three Bloc World? The New East Asia 
regionalism, International Relations of the Asia-Pacific 
Volume 2 (2002), pp. 167-195 
33. Joseph M. Grieco, Realism and Regionalism: American 
Power and German and Japanese Institutional Strategies 
During and After the Cold War 
34. Lee Poh Ping, Tham Siew Yean, George T. Yu, The 
Emerrging East Asian Community: Security & Economic 
Issues, Penerbit Universiti Kebangsaan Malaysia, Bangi 2006 
35. Linda Low, Multilateralism, Regionalism, Bilateral and 
Crossregional Free Trade Arrangements: All Paved with 
Good Intention for ASEAN?, Asian Economic Journal Vol. 
17, No.1, 2003, pp. 65-87 
36. MOFA (Japan), Summary of ASEAN+3 (People’s Republic 
of China, Japan and the Republic of Korea) Summit 
Meeting, 24/Nov/2000,  
37. Mari Pangestu & Sudarshan Gooptu, New Regionalism: 
Option for China and East Asia, East Asia Integrates: A 
Trade Policy Agenda for Shares Growth, pp. 79-99 
38. Michael J. Green, The United States and East Asia in the 
Unipolar Era, Journal of Strategic Studies Vol. 24, No. 4, 
Dec 2001, Special Issue on Future Trend in East Asian 
International Relations, Frank Cass & Co. Ltd, Great 
Britain 2001 
39. Narihiro Bono, Regionalism in East Asia: The transformation 
of regional political economy in East Asia, 
40. OECD, Miracle, Crisis and Beyond – A Synthesis of Policy 
Coherence Towards East Asia, OECD 2006 
41. Pablo Bustelo, The Impact of the Financial Crises on East 
Asian Regionalism, 8/2000,  
42. Ponciano S. Intal, Jr. and Myrna S. Austria, APEC: A 
Review and the Way Forward 
43. Quanseng Zhao, Asia-Pacific International Relations in the 21st 
Century, Journal of Strategic Studies Vol. 24, No. 4, Dec 2001, 
Special Issue on Future Trend in East Asian International 
Relations, Frank Cass & Co. Ltd, Great Britain 2001 
44. Quanseng Zhao, Asia-Pacific International Relations in the 
21st Century, Journal of Strategic Studies Vol. 24, No. 4, 
Dec 2001, Special Issue on Future Trend in East Asian 
International Relations, Frank Cass & Co. Ltd, Great 
Britain 2001 
45. Razeen Sally, Trade Policy in East Asia: Regionalism Triumphant? 
46. Richard Stubbs, ASEAN Plus Three: Emerging East Asian 
Regionalism? Asian Survey, Vol. XLII, No.3, May/June 
2002, University of California Press 
47. Robert A. Scalapino, Trends in East Asian International 
Relations, Journal of Strategic Studies Vol. 24, No. 4, Dec 2001, 
 271 272 
Special Issue on Future Trend in East Asian International 
Relations, Frank Cass & Co. Ltd, Great Britain 2001 
48. Sang-Hochung, A Move toward an East Asia Community 
and its Future Outlook, The Journal of East Asian Affairs 
Vol. XV, No. 2, Fall/Winter 2001, p 397-420 
49. M. Shamsul Haque, Environmental Security in East Asia: A 
Critical View, Journal of Strategic Studies Vol.24, No.4, Dec 
2001, Special Issue on Future Trend in East Asian 
Itnernational Relations, Frank Cass & Co.Ltd, Great Britain 
50. Shao Rong Lee & YuQin Han & Yong Peng, The role of 
China in East Asia after its Entrance into the WTO, The 
Journal of East Asian Affairs Vol. XV, No. 2, Fall/Winter 
2001, p 369-395 
51. Soogil Young, Varieties of Regionalism in East Asia: A 
Critical Assessement, Pacific Economic Cooperation council 
52. Tsutomu Kikuchi, East Asian Regionalism: A Look at the 
“ASEAN plus three” Framework, Japan Review of 
International Affairs, Spring 2002 
53. Wendy Dobson & Chia Siow Yue, Multinationals and East 
Asian Integration, International Development Research 
Centre, Canada and Institute of Southeast Asian Studies, 
Singapore, 1999 
54. Zhang Yun Ling (edited), East Asian Cooperation: Progress 
and Future, Beijing World Affairs Press, 2003 
55. World Bank, World Development Indicators 2006, 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_chuong_3_trien_vong_cua_asean_3_tac_dong_cua_no_t.pdf