Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm vùng đồng bằng sông Cửu Long

Tóm tắt

Nguyên nhân của hiện tượng “điệp khúc trồng chặt” diễn ra sôi động trong những thập kỷ

qua ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, cũng như việc chuyển dịch từ lúa sang tôm như một hành vi

chấp nhận rủi ro dễ được đoán định dựa trên cơ sở duy lý thị trường theo đó người dân chuyển từ

đối tượng nuôi trồng này sang đối tượng nuôi trồng khác là do chạy theo lợi nhuận cao. Tuy nhiên,

trong thực tế thực hiện chuyển dịch cũng như trong quá trình sản xuất, nông dân vùng đồng bằng

sông Cửu Long nói chung và nông dân nuôi tôm nói riêng thể hiện rất rõ tư duy giảm thiểu và phân

tán rủi ro như một đáp ứng với môi trường sản xuất đặc trưng của họ. Qua nghiên cứu quá trình

sản xuất của nông dân nuôi tôm, bài viết cho là do môi trường sản xuất có nhiều bất ổn nên trong

hoạt động kinh tế của mình, nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đã luôn thể hiện tư duy phân

tán và giảm thiểu rủi ro như một đáp ứng “duy lý” với môi trường sản xuất.

Từ khóa: rủi ro, giảm thiểu, phân tán, nuôi tôm, duy lý, thị trường

pdf 12 trang Bích Ngọc 05/01/2024 820
Bạn đang xem tài liệu "Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm vùng đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm vùng đồng bằng sông Cửu Long

Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm vùng đồng bằng sông Cửu Long
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(33)-2017 
 95 
HÀNH VI GIẢM THIỂU VÀ PHÂN TÁN RỦI RO CỦA NGƯỜI NÔNG 
DÂN NUÔI TÔM VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
Ngô Thị Phương Lan(1) 
(1)Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU-HCM) 
Ngày nhận 20/11/2016; Chấp nhận đăng 10/02/2017; Email: ngophuonglan@hcmussh.edu.vn 
Tóm tắt 
Nguyên nhân của hiện tượng “điệp khúc trồng chặt” diễn ra sôi động trong những thập kỷ 
qua ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, cũng như việc chuyển dịch từ lúa sang tôm như một hành vi 
chấp nhận rủi ro dễ được đoán định dựa trên cơ sở duy lý thị trường theo đó người dân chuyển từ 
đối tượng nuôi trồng này sang đối tượng nuôi trồng khác là do chạy theo lợi nhuận cao. Tuy nhiên, 
trong thực tế thực hiện chuyển dịch cũng như trong quá trình sản xuất, nông dân vùng đồng bằng 
sông Cửu Long nói chung và nông dân nuôi tôm nói riêng thể hiện rất rõ tư duy giảm thiểu và phân 
tán rủi ro như một đáp ứng với môi trường sản xuất đặc trưng của họ. Qua nghiên cứu quá trình 
sản xuất của nông dân nuôi tôm, bài viết cho là do môi trường sản xuất có nhiều bất ổn nên trong 
hoạt động kinh tế của mình, nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đã luôn thể hiện tư duy phân 
tán và giảm thiểu rủi ro như một đáp ứng “duy lý” với môi trường sản xuất. 
Từ khóa: rủi ro, giảm thiểu, phân tán, nuôi tôm, duy lý, thị trường 
Abstract 
BEHAVIOR MINIMIZING AND DISTRACTING RISK OF THE SHRIMP 
HATCHING FARMERS IN MEKONG DELTA. 
The cause of the phenomenon of "planting and chopping" has taken place in the decades in 
the Mekong Delta, as well as the transfer from rice to shrimp, a predictable risk-taking behavior 
based on market rationalization, farmers moved from the cultured species to the other ones because 
of high profits. However, this transfer as well as the production process, farmers in the Mekong 
Delta in general and shrimp hatching farmers in particular have showed very clearly the mindset of 
mitigating and dispersing risk as respond to their specific production environment. By studying the 
shrimp culturing process of farmers, the article assumed that due to the unstable production 
environment, farmers in the Mekong Delta have always showed behavior dispersing and 
minimizing risk as a "rational" response to the production environment. 
1. Giới thiệu 
Trong các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu 
Long (ĐBSCL), có thể nói mô hình chuyển dịch từ trồng lúa năng suất thấp sang nuôi tôm 
thương mại trong những năm qua là một trong những mô hình diễn ra mạnh mẽ và quy mô 
nhất, tác động đến các khía cạnh kinh tế, xã hội và sinh thái vùng ĐBSCL. Ở các vùng nuôi 
tôm của ĐBSCL, do điều kiện sinh thái đặc thù của vùng giao thoa giữa đất liền và biển với sáu 
tháng nước ngọt và sáu tháng nước mặn, trước khi chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm, một 
Ngô Thị Phương Lan Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm... 
 96 
năm người nông dân đa phần chỉ có thể làm được một vụ lúa và do vậy năng suất không 
cao.Trong điều kiện mới về nhu cầu thị trường, chính sách nhà nước, sự phát triển của khoa học 
kỹ thuật, và lợi thế so sánh tự nhiên thích hợp cho việc nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là con tôm, 
một mặt hàng có giá trị cao, những vùng nước lợ này đã bắt đầu gia nhập mạnh mẽ vào sản 
xuất thị trường. Tuy nhiên, cùng với việc chuyển từ trồng lúa với chi phí đầu tư và hiệu quả 
kinh tế thấp sang nuôi tôm với vốn đầu tư và hiệu quả kinh tế cao và phụ thuộc mạnh mẽ vào 
thị trường, nông dân cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro. Việc chấp nhận những rủi ro này có thể 
vừa là một con đường dẫn đến sự tăng trưởng về kinh tế cho người nông dân nhưng cũng vừa 
có thể là một thảm họa cho đời sống của họ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khác với cách tiếp cận tránh rủi ro của James Scott 
(1976), chúng tôi cho là tránh rủi ro là một đặc trưng của nông dân nhưng điều đó không có 
nghĩa là họ không chấp nhận rủi ro và không chấp nhận sự cải tiến. Và cũng khác với cách tiếp 
cận kinh tế thị trường của Samuel Popkin (1979), chúng tôi thấy việc chấp nhận rủi ro của nông 
dân diễn ra với bản chất khác. Đó là, khi nông dân chấp nhận rủi ro trong những điều kiện bất 
ổn, ở họ đã hình thành tư duy giảm thiểu và phân tán rủi ro. Trong nghề nuôi tôm, tư duy giảm 
thiểu và phân tán rủi ro này thể hiện qua hai hành vi: chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm và 
thực hành nuôi tôm. Dữ liệu của bài viết có được từ các cuộc nghiên cứu thực địa từ năm 2006 
đến năm 2012 của chúng tôi tại các vùng nuôi tôm ở ĐBSCL như Kiên Giang, Sóc Trăng, Bến 
Tre, Trà Vinh, đặc biệt là dữ liệu từ cuộc nghiên cứu trường hợp tại hai địa điểm ở Cà Mau và 
Long An được thực hiện trong năm 2009 và năm 2010. Cụ thể là đợt điều tra bảng hỏi và phỏng 
vấn sâu tại Cà Mau vào tháng 5 năm 2009 và tại Long An vào tháng 7 năm 2009. Sau đó, 
chúng tôi tiến hành các cuộc phỏng vấn sâu, các đợt quan sát tham dự hoạt động của cộng đồng 
và bổ sung dữ liệu từ tháng 8 năm 2009 đến tháng 6 năm 2010. 
Để thu thập thông tin và dữ liệu, chúng tôi sử dụng cả hai phương pháp thu thập thông tin 
định tính và định lượng trong đó phương pháp định tính được dùng chủ yếu để thu thập thông 
tin cho đề tài. Thông tin định lượng thu thập từ các phiếu điều tra khảo sát của 354 hộ ở cả hai 
địa bàn cung cấp những thông tin nền tảng về đặc điểm kinh tế xã hội và bức tranh chung về 
việc chuyển dịch từ lúa sang tôm của hai cộng đồng. Thông tin định tính qua các cuộc phỏng 
vấn sâu và quan sát tham dự cung cấp các thông tin chiều sâu về tiến trình, động thái, các phân 
tích, đánh giá của nông dân về hành vi kinh tế và các mối quan hệ xã hội của họ. 
2. Rủi ro và chấp nhận rủi ro 
2.1. Quá trình tạo dựng ý nghĩa rủi ro của nông dân nuôi tôm 
Khi nghiên cứu về hành vi chấp nhận rủi ro của nông dân, các nhà kinh tế học nông 
nghiệp cho là rủi ro là xác suất có thể xảy ra của các tình huống vốn sẽ ảnh hưởng đến kết quả 
của một quá trình ra quyết định. Trong khi đó, bất ổn đề cập đến đặc trưng miêu tả của môi 
trường kinh tế của nông dân, một môi trường chứa nhiều sự kiện bất ổn mà theo đó người nông 
dân sẽ có những mức độ đánh giá độ rủi ro khác nhau tùy theo ý kiến chủ quan của họ [Ellis 
1993, tr. 84-85]. 
Thực tế khảo sát ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cho thấy khái niệm rủi ro trong nghề 
nuôi tôm được hình thành theo hai nghĩa, đó là xác suất của cái được và mất và là sự nguy hiểm. 
Tính xác suất thể hiện đó là “tính bạo phát và bạo tàn” của nghề nuôi tôm. Tuy nhiên, xác suất 
này không thể được đánh giá và tính toán một cách khách quan mà nó được nông dân nhận thức 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(33)-2017 
 97 
qua quá trình đánh giá có tính chủ quan các điều kiện sản xuất của họ. Ở giai đoạn đầu của quá 
trình chuyển dịch, rủi ro không hoàn toàn có tính chất là một “hiểm họa” mà còn có tính chất của 
một “cơ hội” mà sẽ tác động đến hành vi chuyển dịch của nông dân. Hiện nay, việc nuôi tôm theo 
“may rủi” cũng thể hiện tính xác suất này trong tư duy của nông dân. Khái niệm rủi ro có tính chủ 
quan cá nhân tùy thuộc vào kiến thức và điều kiện của từng cá nhân. Trong nuôi tôm cách hiểu về 
rủi ro như một xác suất này xuất phát từ đặc trưng điều kiện kinh tế xã hội của người nông dân đó 
là họ chưa có kiến thức và kinh nghiệm về nuôi tôm trong khi đã có kiến thức và kinh nghiệm 
vững chắc đối với nghề trồng lúa và đang có thu hoạch ổn định từ hoạt động nông nghiệp này; 
vốn đầu tư cho nuôi tôm cao hơn nhiều hơn so với trồng lúa; khi đã chuyển sang nuôi tôm hệ sinh 
thái sẽ phải thay đổi từ ưu tiên nước ngọt sang nước mặn; nông dân trực tiếp hay gián tiếp chứng 
kiến sự thành công vang dội hay sự thất bại của nghề nuôi tôm ở những địa phương/ hàng xóm 
lân cận. Do vậy, tính xác suất thể hiện nếu chuyển sang nuôi tôm thành công, người nông dân sẽ 
đạt được một cơ hội lớn, một sự “đổi đời” vì thu nhập từ tôm cao hơn lúa gấp từ bảy đến mười 
lần trên cùng một đơn vị diện tích canh tác và nếu thất bại thì thu nhập sẽ bị ảnh hưởng và nông 
dân sẽ mất một số vốn đầu tư đáng kể. Ngoài ra, khi đã chuyển sang nuôi tôm thì việc muốn quay 
lại trồng lúa phải cần nhiều công sức và vốn để cải tạo lại. 
Bên cạnh ý nghĩa có tính xác suất giữa cái được và cái mất, qua những trải nghiệm thực tế 
các nông dân nhận thức nghề nuôi tôm là một nghề rủi ro theo nghĩa nguy hiểm. Nghĩa tiêu cực 
này của rủi ro đó là sự dễ dàng thất bại, thể hiện qua tính “bạo tàn”, “siêu rủi ro” của nghề nuôi 
tôm. Và sự nguy hiểm này được hình thành trong bối cảnh sản xuất có nhiều bất ổn. Trong nghề 
nuôi tôm khái niệm rủi ro được hình thành theo hai nghĩa. Thứ nhất, đó là một xác suất có tính 
chủ quan giữa cái được và mất; và thứ hai, đó là sự nguy hiểm có ý nghĩa tiêu cực và bất ổn là 
những điều kiện dẫn đến rủi ro. Quá trình tạo dựng xã hội ý nghĩa rủi ro theo nghĩa tiêu cực của 
nghề nuôi tôm được hình thành qua quá trình trải nghiệm thực tiễn nuôi tôm của các nông dân. 
2.2. Chấp nhận rủi ro: các hướng tiếp cận nghiên cứu 
Về hành vi chấp nhận rủi ro của nông dân, có hai quan điểm tiếp cận. Quan điểm thứ 
nhất cho nông dân là những người chấp nhận rủi ro. Công trình của Popkin (1979) điển hình 
cho hướng tiếp cận này. Quan điểm này xuất phát từ thuyết sự chọn lựa duy lý cho là hành vi 
của con người bao giờ cũng có mục đích, đó là hướng tới việc tối đa hóa lợi ích bản thân, giảm 
thiểu chi phí. Tiền đề quan trọng của thuyết sự chọn lựa duy lý đó là (a) những chủ thể hành 
động bị chi phối bởi sự tối đa hóa lợi ích cá nhân không bị cản trở bởi những yếu tố khác và 
những quy tắc xã hội; (b) các chủ thể hành động không tình cảm (emotional), không phi lý 
(irrational), không bốc đồng (impulsive), và không quen thói (habitual) trong chọn lựa mà họ 
luôn hành động một cách duy lý [Zey 2001, tr.12751]. 
Trái với quan điểm thứ nhất, quan điểm thứ hai cho là nông dân là những người tránh rủi 
ro. Công trình Kinh tế học nông nghiệp của Ellis (1993) và Kinh tế đạo đức của Scott (1976) 
điển hình cho hướng tiếp cận này. Kinh tế học nông nghiệp khi nghiên cứu về hành vi chấp 
nhận rủi ro của nông dân đã quan tâm đến những điều kiện chi phối quá trình tối đa hóa lợi 
nhuận của họ. Theo đó, rủi ro và bất ổn là những điều kiện quan trọng. Do vậy, cách tiếp cận 
này tập trung vào chủ đề tránh hiểm họa như là mục tiêu trung tâm của nông dân hơn là sự tối 
đa hóa lợi ích trong bối cảnh ổn định [Ellis 1993, tr.86]. Tương tự vậy, Scott (1976) cho là 
ngưỡng sinh tồn chi phối đến hành vi chấp nhận rủi ro của nông dân. Nông dân sống ở cận 
ngưỡng sinh tồn sẽ là những người tránh rủi ro. Tư duy này thể hiện qua việc nông dân chỉ thực 
Ngô Thị Phương Lan Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm... 
 98 
hành áp dụng cải tiến khoa học kỹ thuật đối với những hoạt động kinh tế không ảnh hưởng đến 
mức sinh tồn của họ (xem thêm McElwee (2003) và Wharton (1971)). 
Ngoài hướng tiếp cận tránh rủi ro, để hiểu được bản chất của hành vi nông dân, chúng tôi 
thấy hành vi chấp nhận rủi ro của nông dân còn có thể xem xét theo hướng giảm thiểu và phân 
tán rủi ro. Theo đó, người nông dân không phải hoàn toàn tránh rủi ro theo nghĩa không chấp 
nhận sự cải tiến và sự thay đổi mà họ chấp nhận rủi ro nhưng theo hướng phân tán và giảm 
thiểu rủi ro. 
Như vậy, rủi ro là một đặc trưng của nghề nuôi tôm. Những điều kiện bất ổn của nghề 
nuôi tôm đã hình thành nên ý nghĩa cụ thể của khái niệm rủi ro trong thực tiễn. Trong điều kiện 
sản xuất bất ổn như vậy, phân tán và giảm thiểu rủi ro là bản chất của hành vi chấp nhận rủi ro 
của nông dân nuôi tôm vùng ĐBSCL. 
3. Tính bất ổn của nghề nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long 
Thực trạng của nghề nuôi tôm ở giai đoạn đầu chuyển dịch đó là trong khi con tôm là một 
đối tượng sản xuất mới vốn cần có kỹ thuật phức tạp nhưng người dân lại chưa có đầy đủ kiến 
thức. Cái thừa và cái thiếu của người nông dân gộp lại đã làm cho môi trường sản xuất tôm có 
nhiều bất ổn. Bức tranh sản xuất các cộng đồng nuôi tôm ở vùng ĐBSCL cho thấy mặc dù có 
nhiều thuận lợi nhưng môi trường sản xuất tôm vẫn có nhiều bất ổn về cả khía cạnh tự nhiên và 
xã hội. Sự bất ổn này đã chi phối đến hành vi sản xuất của người nông dân khiến cho họ có tư 
duy giảm thiểu và phân tán rủi ro. Tính bất ổn đó thể hiện trên nhiều khía cạnh: 
Về chính sách: nhìn một cách hệ thống, để phục vụ cho việc sản xuất tôm đã có rất nhiều 
chính sách hỗ trợ sản xuất có thể kể đến như các Nghị quyết, Quyết định từ cấp trung ương đến 
địa phương liên quan đến việc cho phép chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ trồng lúa sang nuôi tôm và 
tập trung phát triển thủy sản.1 Thế nhưng, hệ thống chính sách này vẫn còn nhiều bất ổn. Thứ 
nhất, hiện nay tất cả các chính sách về nuôi tôm vẫn tập trung chủ yếu vào giai đoạn sản xuất, chú 
trọng đến việc thúc đẩy sản xuất, gia tăng năng suất và sản lượng còn chính sách liên quan đến thị 
trường đầu ra của sản phẩm vẫn còn bị bỏ ngỏ. Đối với đầu ra sản phẩm, cũng như những sản 
phẩm nông nghiệp khác, người dân phải tự tìm thị trường. Trong sản xuất tôm, ở khâu phân phối 
sản phẩm do điều kiện sản xuất nhỏ lẻ và không tập trung nên thương lái vẫn đóng vai trò quan 
trọng trong việc thu gom hàng nông sản, là cầu nối giữa nông dân với thị trường tiêu thụ. Thứ hai, 
vấn đề quy hoạch sản xuất nuôi tôm chưa đồng bộ và hệ thống. Trước giá trị cao của con tôm so 
với cây lúa, nông dân nhiều nơi ở vùng ĐBSCL ngay khi chính quyền có chủ trương chuyển dịch 
1. Mặc dù năm 2000 được xem là mốc thời gian chính thức cho phép chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm 
ở ĐBSCL, từ giai đoạn 1994-1999, một số chính sách liên quan đến nuôi trồng thủy sản đã được áp dụng. 
Chính sách chủ yếu thúc đẩy sự mở rộng nuôi trồng thủy sản trong giai đoạn này đó là Quyết định số 773-
TTg (chương trình 773) ngày 21 tháng 12 năm 1994 về chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hóa, bãi bồi 
ven sông, ven biển và mặt nước ở các vùng đồng bằng. Quyết định này tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương 
xây dựng các dự án để phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho nuôi trồng thủy sản như hệ thống thủy 
lợi, trại giống và các cơ sở nuôi trồng thủy sản quy mô lớn. Các quyết định như Quyết định 224/1999/TTg 
ngày 8/12/1999 về chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản 1999-2010, Nghị quyết của Chính phủ số 
09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, cho phép chuyển đổi đất 
trồng lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản, và Quyết định 173/2001/QĐ-TTg ngày 6/11/2001 khuyến 
khích phát triển nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL đã có những ảnh hưởng quan trọng. Đây là những cơ sở pháp 
lý tạo điều kiện cho sự phát triển nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và nghề nuôi tôm và việc chuyển dịch từ 
lúa sang tôm nói riêng 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(33)-2017 
 99 
đã ồ ạt chuyển sang nuôi tôm ngay trong khi chưa có quy hoạch tổng thể về vùng nuôi và hoàn 
chỉnh về hệ thống cấp thoát nước. Đối v ... yển đổi cơ cấu cũng là một nguyên nhân quan trọng (chiếm 
43%) [UBND tỉnh Cà Mau 2005, tr.49]. 
Hành vi chuyển dịch từ lúa sang tôm thể hiện tính duy lý có điều kiện hay tư duy giảm 
thiểu rủi ro của nông dân. Đó là nông dân thực hiện hành vi duy lý (chuyển từ trồng lúa sang 
nuôi tôm do lợi nhuận) tùy theo điều kiện của mình. Thiếu vốn đầu tư và kinh nghiệm cho việc 
cải tiến không phải là điều kiện duy nhất khiến cho nông dân không chấp nhận cải tiến một 
cách ồ ạt. Vấn đề “an ninh lương thực” hay ngưỡng sinh tồn theo hướng tiếp cận của James 
Scott (1976) chi phối đến hành vi chấp nhận rủi ro của nông dân. Tuy nhiên, người nông dân 
qua trường hợp phân tích không hoàn toàn tránh rủi ro mà với nhiều chiến lược khác nhau tùy 
thuộc vào điều kiện của hộ gia đình, họ đã chấp nhận rủi ro và xem đó như một cơ hội để phát 
triển kinh tế. Bản chất của việc chuyển dịch từ lúa sang tôm ở ĐBSCL cho thấy chỉ khi người 
dân đánh giá tỷ lệ thành công của việc cải tiến cao và không ảnh hưởng đến ngưỡng sinh tồn thì 
họ mới dám chấp nhận hoàn toàn sự cải tiến hoặc là chấp nhận khi không có sự chọn lựa nào 
khác. Nông dân không chấp nhận sự cải tiến như một rủi ro một cách tức thì dù cho sự cải tiến 
đó có lợi ích vượt trội. 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(33)-2017 
 103 
4.2. Phân tán và giảm thiểu rủi ro trong quá trình sản xuất: áp dụng khoa học kỹ 
thuật một cách chọn lọc 
Tư duy giảm thiểu và phân tán rủi ro của nông dân không chỉ thể hiện ở giai đoạn quyết 
định chuyển dịch với việc chiến lược giảm thiểu rủi ro bằng sự chuyển dịch tiệm tiến có tính 
toán đến ngưỡng sinh tồn mà trong quá trình sản xuất do điều kiện sản xuất có nhiều bất ổn như 
đã phân tích ở trên tư duy này cũng thể hiện qua nhiều hành vi trong quá trình sản xuất, cụ thể 
đó là việc tiếp nhận các hướng dẫn khoa học kỹ thuật trong nuôi tôm một cách có chọn lọc. Do 
tính bất ổn của môi trường sản xuất, sự thành công của vụ tôm được cho là có yếu tố “may rủi” 
nằm ngoài tầm kiểm soát của nông dân. 
Cũng như ở giai đoạn chuyển dịch, thiếu vốn thường được người dân đề cập đến như yếu 
tố quyết định chi phối thực hành của nông dân nhưng qua phân tích chúng tôi thấy ngoài yếu tố 
vốn thì các yếu tố sản xuất bất ổn khác cũng đã khiến cho nông dân có tư duy giảm thiểu và 
phân tán rủi ro. Đối với nông dân nuôi tôm theo hình thức quảng canh truyền thống dựa nhiều 
vào yếu tố tự nhiên, mức độ giảm thiểu và phân tán rủi ro của nông dân không đa dạng như của 
nông dân nuôi tôm theo hình thức quảng canh cải tiến vốn phải dựa nhiều vào các kiến thức 
khoa học kỹ thuật. Tư duy giảm thiểu và phân tán rủi ro đó là do nuôi tôm phụ thuộc nhiều vào 
yếu tố khoa học kỹ thuật tốn nhiều chi phí trong bối cảnh môi trường sản xuất tôm có nhiều bất 
ổn nên nông dân tìm mọi cách để giảm thiểu chi phí, theo đó sẽ giảm thiểu rủi ro theo tư 
duy“nếu có mất cũng không mất nhiều”. Tư duy giảm thiểu và phân tán rủi ro thể hiện qua một 
số lựa chọn thực hành nuôi tôm cụ thể sau: 
 Nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến hay công nghiệp 
Ở giai đoạn đầu, việc lựa chọn hình thức nuôi tôm ở các cộng đồng có sự khác biệt. Có nơi 
nông dân tự lựa chọn hình thức nuôi (Cà Mau, Kiên Giang), có nơi áp dụng mô hình do nhà nước 
khuyến khích (Long An, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh). Đối với những cộng đồng tự lựa chọn 
hình thức nuôi, thường là hình thức quảng canh truyền thống, là do lúc chuyển dịch nông dân chỉ 
tiếp cận được mô hình nuôi này một cách trực quan từ các vùng nuôi lân cận và do có điều kiện 
diện tích canh tác lớn nên áp dụng hình thức này để tận dụng tối đa nguồn lực tự nhiên, giảm 
thiểu chi phí sản xuất. Tuy nhiên, khi công tác khuyến ngư đã được triển khai rộng rãi trên toàn 
vùng, các mô hình nuôi theo khoa học kỹ thuật với năng suất cao đã được giới thiệu rộng rãi. Một 
bộ phận người dân đã chuyển sang loại hình nuôi công nghiệp với sự hỗ trợ của các đại lý thức ăn 
và sự khuyến khích và hỗ trợ của nhà nước. Tuy nhiên, đa số các hộ nông dân vẫn không chuyển 
sang nuôi công nghiệp do sợ rủi ro cao hay do điều kiện gia đình không có lao động. Tư duy của 
người dân đó là các loại hình nuôi tôm theo khoa học kỹ thuật tuy có năng suất cao và lợi nhuận 
nhiều nhưng cũng cần nhiều đầu tư. Và điều này đồng nghĩa với rủi ro cao. 
Do sự bất ổn của nghề nuôi tôm về con giống, môi trường, thị trường và đất đai nên đa số 
người dân vẫn duy trì hình thức nuôi tôm quảng canh và quảng canh cải tiến vốn đảm bảo 
nguồn thu nhập thấp nhưng độ rủi ro thiệt hại thấp hơn so với hình thức nuôi công nghiệp vốn 
có nguồn thu nhập cao nhưng độ rủi ro cao. Do tính bất ổn của con tôm nên tính chất “siêu lợi 
nhuận” của hình thức này vẫn không hoàn toàn hấp dẫn được người nuôi. 
 Lựa chọn con giống và thả con giống: “kiểm dịch” hay “không kiểm dịch”, thả cùng 
lúc hay thả lần lượt, nuôi tôm sú hay tôm thẻ 
Chất lượng con giống được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc 
quyết định sự thành bại của vụ tôm. Tuy nhiên, như phần trên đã trình bày do tình trạng sản 
Ngô Thị Phương Lan Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm... 
 104 
xuất con giống có nhiều bất ổn và tính nhạy cảm cao với môi trường nên dù biết tôm kiểm dịch 
có chất lượng cao hơn nhưng nông dân vẫn luân phiên giữa bắt tôm giống “không kiểm dịch” 
và “kiểm dịch.” Tư duy giảm thiểu rủi ro của người dân đó là khi bắt tôm giống giá rẻ nếu tôm 
chết thì nông dân sẽ không lỗ nhiều bằng khi họ bắt giống tôm giống được kiểm dịch vốn có giá 
cao hơn tôm giống bình thường từ hai đến ba lần. Cơ sở của tư duy này đó là chỉ có tôm giống 
chất lượng thì cũng chưa đảm bảo cho sự thành công. Xác suất thất bại vẫn còn rất cao. 
Tư duy giảm thiểu và phân tán rủi ro cũng thể hiện qua hình thức thả con giống và chọn 
đại lý tôm giống của nông dân. Nông dân nuôi tôm quảng canh cải tiến thường thả mật độ dày 
hơn mật độ được khuyến khích để trừ lượng tôm hao hụt. Ví dụ như ở Tân Chánh của Long An 
nông dân tuy được khuyến cáo thả mật độ thưa cho phù hợp với loại hình nuôi (từ 3 đến 5 con/ 
m2) nhưng người dân thường thả mật độ dày hơn (từ 10-20 con/ m2). Nông dân nuôi quảng 
canh thường thả con giống hàng tháng nối tiếp nhau để có thu nhập thường xuyên và để phân 
tán rủi ro về chất lượng con giống và môi trường nuôi. Quan niệm của nông dân đó là “nếu thả 
đồng loạt thì mất thì một lần là mất hết, mất nhiều, thả đợt này hư thì đợt sau có thể có, và có 
thu nhập có đều đều. Bây giờ dựa vào tôm hết mà thả mấy tháng mới bắt một lần thì dù tiền 
nhiều nhưng những tháng trước thì vắng thu nhập, lấy gì mà ăn. Thả nhiều quá thì trong vuông 
không đủ thức ăn.” (Nông dân nuôi tôm quảng canh ở Cà Mau). 
Do tính bất ổn về chất lượng con giống như vậy nên người dân cũng không chọn một 
nguồn tôm giống cố định. Họ thường bắt nhiều chỗ khác nhau tùy theo từng năm. Hiệu ứng 
“hàng xóm” rất phát huy tác dụng ở khía cạnh này. Để chọn con giống, người dân thường theo 
gương những người nuôi đạt trong cộng đồng, và việc này cũng thường xuyên thay đổi theo 
từng năm. Tâm lý của người dân đó là “khi nuôi đợt này không được thì tôi mua ở chỗ khác. 
Cũng mua tùm lum đó à” và “do người quen giới thiệu chỗ mua tôm giống tốt” hoặc là “đi vòng 
vòng thấy chỗ nào tôm tốt thì bắt chứ không nhất thiết bắt cố định một nơi”. Do vậy, có trường 
hợp các chủ trại tôm cứ vào mỗi vụ tôm thường “thuê” người nuôi trúng trong cộng đồng ngồi 
ở hồ tôm của họ để thu hút những người nuôi tôm khác vì nông dân cho là người nuôi tôm 
trúng này sẽ bắt tôm giống ở hồ tôm này và họ sẽ bắt theo. Ngoài ra, đối với hộ có nhiều ao 
nuôi, họ có thể phân tán rủi ro bằng cách không thả cùng một lúc ở tất cả các ao và không bắt 
con giống ở cùng một nơi. Với thực hành này, nông dân hy vọng sẽ có được thu nhập với xác 
suất “có ao được ao mất”. 
Việc nuôi kết hợp giữa giống tôm sú và tôm thẻ ở các hộ nông dân cũng thể hiện tư duy 
giảm thiểu rủi ro cho thu nhập của nông dân. Sau một thời gian nuôi tôm sú thường xuyên bị mất 
mùa, các nông dân kết hợp nuôi tôm thẻ. Tuy tôm thẻ chân trắng có nhiều dịch bệnh và dễ gây ô 
nhiễm hơn so với tôm sú nhưng do thời gian tăng trưởng nhanh hơn nên nông dân kết hợp cả hai 
loại để đảm bảo có thu hoạch. Hình thức kết hợp đó là nếu có nhiều ao nuôi thì có ao thả tôm sú, 
có ao thả tôm thẻ còn nếu không có nhiều ao nuôi thì nuôi tôm sú và tôm thẻ luân phiên. 
 Lựa chọn thức ăn cho tôm: “thức ăn công nghiệp” hay “thức ăn xay” 
Hiện nay, người dân có hai lựa chọn hoặc là thức ăn chế biến theo dạng công nghiệp của 
các nhà máy hoặc là thức ăn tự người dân chế biến, theo đó người dân tự mua các nguyên liệu và 
chế biến thành thức ăn cho tôm. Người dân gọi thức ăn chế biến là “thức ăn xay hay thức ăn chế 
biến”, còn của nhà máy là “thức ăn bao”. Ưu điểm của thức ăn chế biến công nghiệp là sạch nước 
do thức ăn viên có độ nén cao và hạn chế của thức ăn này là giá thành cao. Trong khi đó thức ăn 
tự chế biến dễ làm ô nhiễm nước do dễ tan nhưng lại có ưu điểm là giá rẻ và độ đạm nhiều nên 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(33)-2017 
 105 
tôm ăn mau lớn. Người dân hiện nay đa phần lựa chọn cách kết hợp giữa thức ăn công nghiệp và 
thức ăn tự chế biến khi nuôi tôm. Theo đó họ sẽ dùng thức ăn công nghiệp cho tôm ở giai đoạn 
đầu, giai đoạn tôm ăn ít và dễ bị bệnh; và dùng thức ăn chế biến ở giai đoạn sau, giai đoạn tôm ăn 
nhiều và tăng trưởng nhanh. Quan niệm của người dân khi lựa chọn sự kết hợp này đó là do nuôi 
tôm bấp bênh nên phải chọn thức ăn giá rẻ và thức ăn nhiều đạm ở giai đoạn tranh thủ thời gian 
thúc tôm mau lớn. Nếu tôm có bị thiệt hại thì chi phí cũng không nhiều bằng khi sử dụng thức “ăn 
bao” và do tôm mau lớn nên cũng có thể giảm xác suất thiệt hại. 
5. Kết luận 
Hành vi phân tán và giảm thiểu rủi ro trong nghề nuôi tôm minh chứng thêm cho bản chất 
nông dân. Trên bình diện chung, có thể hiểu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra sôi động ở 
khu vực ĐBSCL qua lý thuyết duy lý thị trường. Theo đó hành vi sản xuất của nông dân bị thúc 
đẩy bởi nhu cầu thị trường và lợi nhuận nhưng khi đi sâu phân tích quá trình này chúng tôi thấy 
là tính duy lý đó chưa thể giải thích hết bản chất hành vi kinh tế của người nông dân. Sự lựa 
chọn được cho là duy lý thị trường của nông dân đó có thể là kết quả của các chính sách mà 
theo đó người dân không có sự chọn lựa nào khác hoặc là khi điều kiện môi trường sản xuất đã 
có độ ổn định hay xác suất thành công cao đặc biệt dưới tác động của hiệu ứng hàng xóm. Yếu 
tố trực quan và kết quả thực tiễn đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến hành vi chấp 
nhận rủi ro của người dân. Các công trình nghiên cứu về việc chấp nhận cải tiến của người 
nông dân đều chia sẻ quan điểm là trong bối cảnh ít có sự đảm bảo an ninh kinh tế mà hậu quả 
của nó là cuộc sống có độ “rủi ro” cao nên các cá nhân chỉ “quan tâm đến những cải tiến và 
những thay đổi mà chứng tỏ được sẽ đem đến cho họ nguồn lợi lớn vì đa phần “những thay đổi 
này rất tốn kém hoặc cần nhiều đất đai hơn họ có hay nằm ngoài tầm với của họ” [Hendry 
1964, tr. 244-245]. Hay nói cách khác khi môi trường sản xuất đảm bảo một mức độ thành công 
nào đó thì người dân sẵn sàng chấp nhận các cải tiến, chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên, chúng tôi 
cũng thấy là khi chấp nhận cải tiến này thì nông dân luôn thể hiện tư duy giảm thiểu và phân 
tán rủi ro chi phí và thu nhập của họ. Khi thực tế chứng minh được tôm có hiệu quả hơn so với 
trồng lúa, là con đường có thể giúp người dân làm giàu, người dân đã chuyển dịch và không coi 
tôm là một nghề rủi ro mà là một cơ hội. Tuy nhiên, khi chấp nhận rủi ro, người dân thể hiện tư 
duy phân tán và giảm thiểu rủi ro. Ở cộng đồng nông dân chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi 
tôm thể hiện đó là việc chuyển dịch tiệm tiến. Theo đó việc chuyển dịch đầu tiên diễn ra ở một 
số hộ trong cộng đồng mà việc chuyển dịch của họ không ảnh hưởng đến ngưỡng sinh tồn. Ở 
cấp độ hộ gia đình, đầu tiên việc chuyển dịch diễn ra ở những mảnh ruộng trồng lúa có năng 
suất thấp và vẫn duy trì ruộng trồng lúa bên cạnh việc nuôi tôm. 
Khi tính bất ổn của nghề tôm ngày càng tăng cao và khi nghề nuôi tôm được nhận thức 
như một nghề rủi ro qua nhiều thất bại liên tiếp thì tư duy phân tán và giảm thiểu rủi ro đã thể 
hiện qua hành vi không áp dụng triệt để các hướng dẫn khoa học kỹ thuật nhằm giảm thiểu chi 
phí sản xuất của các nông dân. Đây cũng là lý do các nhà quản lý thường nhận định hoạt động 
kinh tế của nông dân là không hiệu quả và manh mún. Tuy việc thiếu vốn và kỹ thuật thường 
được cho nguyên nhân của hiện tượng giảm thiểu và phân tán rủi ro nhưng qua nghiên cứu của 
chúng tôi, đây lại không phải là nguyên nhân duy nhất như đã phân tích ở phần trên. Theo 
chúng tôi, tư duy giảm thiểu rủi ro này có thể được xem như là một thích nghi với hoàn cảnh 
sản xuất cụ thể của nông dân và chi phối hành vi sản xuất của nông dân. Thực tế cho thấy tuy 
đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ của nhà nước nhưng hiệu quả sản xuất nông nghiệp của Việt 
Ngô Thị Phương Lan Hành vi giảm thiểu và phân tán rủi ro của người nông dân nuôi tôm... 
 106 
Nam vẫn chưa cao, vẫn chưa phát triển đến một trình độ chuyên nghiệp. Tư duy phân tán rủi ro, 
theo đó là tư duy luôn hướng đến sự giảm thiểu chi phí sản xuất như một tâm lý đề phòng sự 
thất bại nặng nề ở cấp độ cá nhân nhưng lại làm gia tăng mức độ rủi ro ở cấp độ cộng đồng, 
định hình bức tranh sản xuất của nông dân vùng ĐBSCL hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ellis, Frank (1993), Peasants Economics: Farm Households and Agrarian Development, 2nd 
edition, Cambridge University Press. 
[2] Hendry, B. James (1964), The Small World of Khanh Hau, Aldine Publishing Company, 
Chicago. 
[3] McElwee, Pamela (2007), “From the Moral Economy to the World Economy: Revisiting 
Vietnamese Peasants in the Globalizing Era”, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 3, No. 2, tr. 
57-107. 
[4] Ngô Thị Phương Lan (2012), Hành vi giảm thiểu rủi ro và vận dụng nguồn vốn xã hội của nông 
dân người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình chuyển dịch từ trồng lúa sang 
nuôi tôm, Luận án, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[5] Popkin, S. (1979), The Rational Peasants: The Political Economy of Rural Society in Vietnam, 
University of California Press, Berkeley. 
[6] Scott, J. (1976), The Moral Economy of the Peasant: Rebellion and Subsistence in Southeast 
Asia, Yale University Press, New Haven. 
[7] UBND tỉnh Cà Mau (2005), Báo cáo chính thức kết quả khảo sát chuyển đổi cơ cấu nông – lâm 
– thủy sản giai đoạn 1999-2005. 
[8] Wharton, C.R. (1971a), “Risk, Uncertainty, and the Subsisence Farmer: Technological 
Innovation and Resistence to Change in the Context of Survival,” Studies in Economic 
Anthropology Dalton, G. (ed.), American Anthropological Association, Washington. 
[9] Zey, M. (2001), “Rational Choice and Organizational Theory,” International Encyclopedia of 
the Social & Behavioral Sciences, Smelser, N. and Baltes, P. (eds.) pp. 112751-112755. 

File đính kèm:

  • pdfhanh_vi_giam_thieu_va_phan_tan_rui_ro_cua_nguoi_nong_dan_nuo.pdf