Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - So sánh giữa ngân hàng có và không có sở hữu nước ngoài
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có sở hữu
nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên việc phân tích định tính
các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập – chi phícủa hai nhóm ngân hàng và phân tích định
lượng theo cách tiếp cận đánh giá hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp bao dữ liệu (DEA). Dữ liệu
cho nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26 ngân hàng TMCP Việt Nam, giai đoạn
2008-2013. Kết quả phân tích định tính quan hệ thu nhập-chi phí cho thấy không có sự khác biệt rõ
rệt giữa hai nhóm ngân hàng, nhưng kết quả phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật thể hiệnngân
hàng có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn.
Từ khóa: ngân hàng thương mại cổ phần, hiệu quả hoạt động, hiệu quả chi phí, DEA
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - So sánh giữa ngân hàng có và không có sở hữu nước ngoài
114 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM: SO SÁNH GIỮA NGÂN HÀNG CÓ VÀ KHÔNG CÓ SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI Nguyễn Thị Diễm Hiền*, Tô Thị Thanh Trúc**, Lê Duy Khánh*** TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có sở hữu nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên việc phân tích định tính các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập – chi phícủa hai nhóm ngân hàng và phân tích định lượng theo cách tiếp cận đánh giá hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp bao dữ liệu (DEA). Dữ liệu cho nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26 ngân hàng TMCP Việt Nam, giai đoạn 2008-2013. Kết quả phân tích định tính quan hệ thu nhập-chi phí cho thấy không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm ngân hàng, nhưng kết quả phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật thể hiệnngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn. Từ khóa: ngân hàng thương mại cổ phần, hiệu quả hoạt động, hiệu quả chi phí, DEA THE EFFICIENCY OF VIETNAMESE JOINT - STOCK COMMERCIAL BANKS: A COMPARISON BETWEEN BANKS WITH AND WITHOUT FOREIGN EQUITY ABSTRACT The paper aims to compare the efficiency of joint-stock commercial banks that partially owned by foreign investors with totally domestically owned banks of that type, based on the analysis of incomes and costs of two groups and data envelopment analysis of technical efficiency. The data is collected from the financial statements of 26 Vietnamese stock commercial banks over the period from 2008 to 2013. The results of qualitative analysis of incomes and costs do not support the hypothesis that partly foreign owned banks are more efficient than the banks completely owned by Vietnamese, while the quantitative analysis of technical efficiency presents a better performance of banks with foreign equity. Key words: Joint-stock Commercial Bank, Performance, Costs Efficiency, DEA * ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM ** ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM *** ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM 115 Hiệu quả hoạt động . . . 1. GIỚI THIỆU Trong khoảng 10 năm trở lại đây, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có một số thay đổi đáng kể. Thứ nhất, đó là việc các Ngân hàng thương mại cổ phần mới ra đời bên cạnh các ngân hàng thực hiện cơ cấu lại. Thứ hai, Việt Nam mở rộng việc hội nhập quốc tế thông qua việc ký kết các Hiệp ước quốc tế, gia nhập WTO đã tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Nhiều NHTMCP đã thực hiện bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với mong muốn ngoài việc tăng năng lực về vốn thì với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong cơ chế thị trường ở những nước phát triển, nhà đầu tư nước ngoài còn có thể chuyển giao công nghệ, hỗ trợ hoạt động cho các ngân hàng dựa trên những lợi thế họ có được.Chính vì vậy, những nghiên cứu nhằm xem xét liệu việc tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào cơ cấu sở hữu có giúp các NHTMCP hoạt động hiệu quả hơn hay không là rất cần thiết để có thể đưa ra những khuyến nghị thích hợp trong xu thế hội nhập ngày nay. 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN DỮ LIỆU Bài báo nghiên cứu sự khác biệt về hiệu quả hoạt động giữa các NHTMCP có vốn đầu tư nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 -2013,thông qua phân tích định tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kỹ thuật và phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật của các NHTM. Do giới hạn về mặt số liệu, nghiên cứu sử dụng số liệu của 26 NHTMCP của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2013, các dữ liệu này được tập hợp từ báo cáo tài chính giai đoạn 2008-2013 của các ngân hàng. Trong số các NHTMCP được đưa vào phân tích, tại thời điểm cuối năm 2013, có 13 ngân hàng có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn chủ sở hữu(xem phụ lục) với tỷ lệ từ 4,74% (STB) đến 30,00% (ABBank, ACB), còn lại là các NH được sở hữu hoàn toàn bởi cổ đông trong nước. Có 3 ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài dưới 20% gồm SHB, STB, VCB; còn lại là các ngân hàng có vốn chủ sở hữu nước ngoài chiếm tỷ trọng từ 20% đến 30%. 3. KHÁI NIỆM HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN Hiệu quả hoạt động của ngân hàng được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau và được đề cập đến trong nhiều tài liệu bao gồm hiệu quả tài chính, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kinh tế. Trong đó hiệu quả kỹ thuật là việc đạt được các đầu ra cực đại từ các đầu vào giới hạn hoặc cực tiểu hóa việc sử dụng đầu vào để đạt một mức đầu ra nhất định (Berger và De Young, 1997) Rất nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng khi có sự tham gia của vốn đầu tư nước ngoài so với các ngân hàng nội địa đã được tiến hành. Kết quả các nghiên cứu trước đây về vấn đề này không nhất quán với nhau, một số nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của vốn sở hữu nước ngoài đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, trong khi một số nghiên cứu khác cho kết quả ngược lại. Bhattacharyya, Lovell, and Sahay (1997) đã tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của 70 ngân hàng của Ấn Độ trong giai đoạn 1986 – 1991. Kết quả ước lượng bằng phương pháp bao dữ liệu (DEA) cho thấy các ngân hàng nước ngoài có hiệu quả hơn so với các ngân hàng tư nhân, song các ngân hàng thương mại nhà nước lại có hiệu quả hơn cả hai nhóm ngân hàng kia. 116 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Trong khi đó, Semih Yildirim and Philippatos (2007) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm hệ thống ngân hàng của 12 quốc gia chuyển đổi ở Trung và Đông Âu, giai đoạn 1993 – 2000. Kết quả ước lượng bằng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (stochastic frontier approach - SFA) và phương pháp tiếp cận phi phân phối (distribution-free approach- DFA) cho thấy các ngân hàng nước ngoài có hiệu quả về mặt chi phí hơn song lại kém hiệu quả hơn về mặt lợi nhuận so với các ngân hàng nội địa. Bonin, Hasan, and Wachtel (2005) trong một nghiên cứu về hệ thống ngân hàng của 11 quốc gia chuyển đổi ở châu Âu trong giai đoạn 1996 – 2000 tìm thấy bằng chứng về các ngân hàng có vốn nước ngoài hiệu quả hơn so với các ngân hàng tư nhân khác, bằng phương pháp SFA; trong khi Borovicka (2007) tiến hành nghiên cứu đối với 282 ngân hàng ở 19 quốc gia chuyển đổi cho thấy các ngân hàng có yếu tố nước ngoài có hiệu quả hơn về mặt chi phí. Một số nghiên cứu khác cho thấy yếu tố nước ngoài giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn như Hasan và Marton (2003), Jemric và Vujcic (2002), Weill (2003). Tuy nhiên nhiều nghiên cứu khác cho kết quả ngược lại, chẳng hạn như Nikiel và Opiela (2002). 4. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, khi bán cổ phần cho nước ngoài, đặc biệt là cho các nhà đầu tư chiến lược (đa số các ngân hàng Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược hơn là cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ) đều có mong muốn nhận được sự chuyển giao công nghệ, quản lý, kiểm soát rủi ro cũng như gia tăng năng lực tài chính và nhiều yếu tố khác. Những yếu tố này về mặt lý thuyết có thể giúp các ngân hàng trong nước nâng cao hiệu quả hoạt động. Vì vậy, giả thuyết nghiên cứu là các ngân hàng có sở hữu nước ngoài có hiệu quả hoạt động cao hơn các ngân hàng không có sở hữu nước ngoài. Bài báo chỉ đánh giá hiệu quả kỹ thuật nên trong phân tích định tính sẽ tập trung vào đánh giá, so sánh các yếu tố đầu ra là thu nhập và các yếu tố đầu vào được xem xét là chi phí giữa hai nhóm ngân hàng. Phân tích bao dữ liệu cũng dựa trên những yếu tố đầu vào, đầu ra này. 4.1. Phân tích định tính hiệu quả hoạt động của các NH TMCP Việt Nam qua các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập – chi phí Tỷ lệ Thu nhập/ Tổng tài sản Bảng 1. Tỷ lệ thu nhập/ Tổng tài sản của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013 Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 NH có vốn nước ngoài Lớn nhất 14,15% 13,31% 9,53% 14,01% 14,67% 14,36% Nhỏ nhất 5,88% 4,57% 3,66% 7,39% 8,90% 6,33% Trung bình 11,59% 7,91% 7,87% 11,72% 11,53% 8,82% NH không có vốn nước ngoài Lớn nhất 14,59% 10,91% 13,37% 17,07% 15,43% 13,66% Nhỏ nhất 5,47% 5,47% 7,02% 8,39% 8,33% 1,81% Trung bình 10,82% 7,83% 8,77% 12,23% 11,81% 8,46% Trung bình các NHTMCP 11,15% 7,86% 8,39% 12,01% 11,69% 8,61% Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP 117 Hiệu quả hoạt động . . . Tỷ lệ thu nhập/Tài sản cho biết khả năng tạo ra thu nhập từ danh mục tài sản của ngân hàng. Tỷ lệ này phụ thuộc: - Hoạt động quản lý danh mục tài sản của ngân hàng: Mỗi một khoản mục tài sản sẽ có tỷ lệ sinh lời bình quân khác nhau. Nếu tổng tài sản của ngân hàng không đổi mà các nhà quản lý ngân hàng lại đưa chiến lược tập trung vào các tài sản không sinh lời hoặc có tỷ lệ sinh lời thấp thì tổng thu nhập từ lãi sẽ thấp, kéo theo tổng thu nhập của ngân hàng không cao. - Lãi suất bình quân của từng loại tài sản trong danh mục tài sản: Tổng thu nhập lãi của ngân hàng cũng có thể tăng lên khi danh mục tài sản không đổi nhờ vào sự tăng lãi suất của thị trường. Trường hợp này liên quan đến môi trường kinh doanh nên khi đề cập đến khả năng sinh lời của tổng tài sản, người ta thường quan tâm đến việc ngân hàng cơ cấu danh mục tài sản như thế nào. Năm 2008 và 2009, NH có vốn nước ngoài có Tỷ lệ thu nhập/Tài sản cao hơn các NH không có vốn nước ngoài. Tuy nhiên. trong 3 năm 2010, 2011, 2012, Tỷ lệ thu nhập/Tài sản của các NH có vốn nước ngoài lại thấp hơn các NH chỉ có vốn trong nước. Như vậy, xét cả giai đoạn, chưa thể kết luận có hay không việc các NH có vốn nước ngoài quản lý danh mục tài sản tốt hơn các NH chỉ có vốn trong nước. Nếu xét theo cơ cấu thu nhập gồm thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi, thành phần thu nhập/ tổng tài sản của các ngân hàng thể hiện như sau: Bảng 2. Thành phần thu nhập/ Tổng tài sản của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013 Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Thu nhập lãi / Tổng tài sản NHTMCP có vốn nước ngoài 10,48% 6,90% 7,06% 11,05% 10,88% 8,08% NHTMCP không có vốn nước ngoài 10,05% 6,75% 7,72% 10,91% 10,85% 7,43% Thu nhập ngoài lãi / Tổng tài sản NHTMCP có vốn nước ngoài 1,11% 1,01% 0,81% 0,67% 0,65% 0,74% NHTMCP không có vốn nước ngoài 0,77% 1,07% 1,05% 0,64% 0,96% 1,03% Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP Xét về thành phần trong tổng thu nhập của các ngân hàng, ta thấy tương quan giữa 2 nhóm ngân hàng không ổn định. Cụ thể, năm 2010 tỷ lệ Thu nhập lãi / Tổng tài sản của NH có vốn nước ngoài thấp hơn các NH không có vốn nước ngoài, tuy nhiên khi xem xét tỷ lệ Thu nhập ngoài lãi/ Tổng tài sản thì các NH có vốn nước ngoài lại thấp hơn các NH không có vốn nước ngoài vào các năm 2009, 2010, 2012, 2014. Điều này dẫn đến vấn đề là nếu chỉ nhìn vào xu hướng thì vẫn chưa thấy được lợi thế của các NH có vốn nước ngoài trong việc tạo ra thu nhập cao và ổn định hơn so với NH không có vốn nước ngoài. Tỷ lệ Chi phí hoạt động/ Thu nhập Bảng 3. Tỷ lệ Chi phí / Thu nhập của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013 Đơn vị tính: % Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 NH có vốn nước ngoài Lớn nhất 95,87% 88,31% 88,66% 97,90% 99,19% 99,78% Nhỏ nhất 65,88% 64,08% 66,55% 62,65% 83,54% 83,23% Trung bình 85,75% 76,42% 80,00% 86,06% 90,54% 91,37% 118 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật NH không có vốn nước ngoài Lớn nhất 98,46% 90,82% 93,10% 95,03% 99,87% 99,66% Nhỏ nhất 41,50% 59,99% 61,27% 77,78% 81,41% 47,58% Trung bình 85,21% 79,67% 82,75% 86,70% 91,56% 90,58% Trung bình các NHTMCP 85,45% 78,31% 81,60% 86,42% 91,13% 90,90% Độ lệch chuẩn 0,2379 0,1562 0,1591 0,2240 0,1708 0,0959 Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP Tỷ lệ Chi phí hoạt động/ Thu nhập cho biết khả năng quản lý chi phí của ngân hàng. Tỷ lệ này càng thấp thì khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng càng cao. Năm 2008, NH có vốn nước ngoài có tỷ lệ chi phí / thu nhập cao hơn NH không có vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, từ 2009 – 2012, các NH có vốn nước ngoài đã tỏ ra quản lý chi phí hiệu quả hơn so với các NH chỉ có vốn trong nước khi có tỷ lệ chi phí/ thu nhập thấp hơn. Nếu xét về hiệu quả hoạt động nhìn từ chỉ tiêu tài chính này, giai đoạn này cho thấy khối ngân hàng có sự tham gia của dòng vốn ngoại đạt hiệu quả tốt hơn và điều này khiến cho các NH trong nước xây dựng chính sách dành một phần vốn cổ phần để bán cho đối tác chiến lược ngoại. Tuy nhiên, tương quan giữa hai khối ngân hàng liên quan đến tỷ lệ này năm 2012 lại có sự thay đổi khi các NH vốn trong nước lại thể hiện hiệu quả hơn trong việc quản lý chi phí. Kết quả có được cho thấy nhóm ngân hàng nào thực sự đạt hiệu quả tốt hơn vẫn chưa thể chắc chắn. Bảng 4. Thành phần chi phí / Tổng tài sản của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013 Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Chi phí lãi / Tổng tài sản NHTMCP có vốn nước ngoài 7,89% 4,21% 4,75% 7,70% 7,52% 5,19% NHTMCP không có vốn nước ngoài 7,27% 4,40% 5,48% 7,95% 7,92% 5,15% Chi phí ngoài lãi / Tổng tài sản NHTMCP có vốn nước ngoài 2,05% 1,77% 1,61% 2,36% 2,97% 2,85% NHTMCP không có vốn nước ngoài 2,01% 1,83% 1,73% 2,06% 2,87% 2,61% Dự phòng rủi ro tín dụng / Tổng tài sản NHTMCP có vốn nước ngoài 0,39% 0,31% 0,27% 0,47% 0,61% 0,49% NHTMCP không có vốn nước ngoài 0,27% 0,40% 0,33% 0,34% 0,67% 0,49% Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP Tương tự như tỷ lệ Thu nhập/ Tổng tài sản và Thu nhập ngoài lãi/ Tổng tài sản, tỷ lệ các loại chi phí/ Tổng tài sản của 2 nhóm ngân hàng cũng không cho thấy các NH có vốn nước ngoài quản lý chi phí tốt hơn các NH không có vốn nước ngoài trong cả giai đoạn. Năm 2008, cả chi phí lãi, chi phí ngoài lãi và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng so với Tổng tài sản của NH có vốn nước ngoài đều cao hơn NH không có vốn nước ngoài. Những năm sau đó, việc quản lý chi phí của các NH có vốn nước ngoài thể hiện kết quả tốt hơn nhưng cũng không ổn định trong mối quan hệ so sánh với các NH chỉ có vốn trong nước. Phân tích chi phí và thu nhập của hai nhóm ngân hàng ở trên cho thấy không có sự khác biệt đáng kể và nhất quán về hiệu quả của hai nhóm. Tỷ lệ thu nhập/tổng tài sản 119 Hiệu quả hoạt động . . . tính trung bình cả giai đoạn ở hai nhóm NH tương đương nhau. Xét về cơ cấu, NH không có vốn nước ngoài có tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cao hơn, trong khi tỷ lệ thu nhập lãi của NH có sở hữu nước ngoài cao hơn. Hai nhóm NH cũng đạt được hiệu quả quản lý chi phí tương đương khi cả hai chỉ tiêu Tỷ lệ chi phí/tổng tài sản và chi phí/thu nhập không có sự khác biệt lớn giữa hai nhóm, qua thời gian và theo cơ cấu. 4.2. Phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật - Mô hình bao dữ liệu y Mô hình nghiên cứu Phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật technical efficiency (TE) của ngân hàng theo ... 2013). Bảng 1: Vị trí địa lý của các nghiên cứu liên quan đến hướng dẫn viên giai đoạn 1979-2014 (n=191) Nguồn: Weiler và các cộng sự (2014) 125 Nhận định vai trò . . . Tính đến năm 2013, có 146 bài nghiên cứu hàn lâm về hướng dẫn viên và dịch vụ hướng dẫn viên được đăng trên các tạp chí chuyên ngành (journal article), bài viết hội thảo (published conference papers), sách (book section), và các luận văn. Bảng dưới đây cũng cho thấy xu hướng nghiên cứu về lĩnh vực này qua từng thời kỳ, và dễ nhận thấy số lượng các bài được đăng trên tạp chí chuyên ngành có sự gia tăng rất mạnh, chứng tỏđội ngũ hướng dẫn viên du lịch ngày càng được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Bảng 2: Xu hướng xuất bản các nghiên cứu về hướng dẫn viên và dịch vụ hướng dẫn viên trên thế giới Nguồn: Weiler và các cộng sự (2014) Liên quan đến vai trò của hướng dẫn viên trong ngành du lịch, lịch sử cũng cho thấy có những nghiên cứu điển hình đã được thực hiện. Cụ thể, hướng dẫn viên được xem như người hướng dẫn, truyền tải thông tin, tổ chức và dàn xếp hoạt động du lịch (Pond, 1993; Weiler và Davis, 1993). Các vai trò kể trên sau đó tiếp tục được phát triển để trở thành các tiêu chí cần thiết cho một hướng dẫn viên chuyên nghiệp trong nghiên cứu của Black và Weiler (2005). Bên cạnh đó, trong những nghiên cứu gần đây của Yamada (2011) hay Poudel và Nayaupane (2013), vai trò của hướng dẫn viên bao gồm diễn giải các danh lam thắng cảnh và điều chỉnh hành vi của du khách ngày càng trở nên quan trọng hơn trong các tour du lịch sinh thái, khi mà việc bảo tồn và gìn giữ môi trường đang trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng tại các quốc gia, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển. Nếu nhìn lại các nghiên cứu trong 30 năm qua (từ 1985 đến 2014), vai trò của hướng dẫn viên được chia thành 9thuộc tính được thể hiện trong bảng sau, trong đó 4 vai trò đầu tiên, bao gồm phiên dịch, chuyển tải thông tin, hướng dẫn, và thúc đẩy sự bảo tồn các giá trị được xem là quan trọng và nhận được nhiều sự quan tâm nhất từ các chuyên gia nghiên cứu. 126 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Bảng 3: Vai trò của hướng dẫn viên trong các nghiên cứu trước đây (1985-2014) Vai trò của hướng dẫn viên Cohen (1985) Weiler và David (1993) Bras (2000) Ballantyne và Hugh (2001) Howard và cộng sự (2001) Huang và cộng sự(2010) Yamada (2011) Weiler và Walker (2014) Phiên dịch Chuyển tải thông tin Hướng dẫn Thúc đẩy sự bảo tồn các giá trị Vai trò xã hội Điều hướng, điều chỉnh hành vi Điều chỉnh văn hóa Điều hành tour Quan hệ công chúng/ Đại diện cho công ty Nguồn: Tổng hợp của tác giả Nhìn chung, các nhà nghiên cứu thường đo lường vai trò của hướng dẫn viên thông qua sự đánh giá từ phía các du khách. Ví dụ, Zhang và Chow (2004) đưa ra 20 tiêu chí về chất lượng phục vụ của hướng dẫn viên nhằm đánh giá hoạt động của họ ở Hong Kong thông qua bảng câu hỏi được thu thập từ khách du lịch. Nhóm tác giả chỉ ra rằng có 5 yếu tố quan trọng của hướng dẫn viên ảnh hưởng đến sự hài lòng của du khách bao gồm sự tin cậy, khả năng giải quyết vấn đề, kiến thức về điểm đến, sự tận tâm, và thông báo về các quy định an toàn một cáchkịp thời. Một nghiên cứu khác của Wang và các cộng sự (2007) tại Đài Loan cũng đưa ra 6 tiêu chí cần thiết của hướng dẫn viên quốc tế (bao gồm kỹ năng trình bày, tinh thần trách nhiệm, sự thân thiện, khả năng phiên dịch, chuyên môn nghiệp vụ, và khả năng kết nối giữa các thành viên) cũng như 2 tiêu chí thiết yếu của hướng dẫn viên nội địa (bao gồm chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng lãnh đạo nhóm). Ngoài ra, sau khi phân tích các lý thuyết đi trước kết hợp với điều tra thực nghiệm đối với khách du lịch nội địa và quốc tế thông qua bảng câu hỏi bằng tiếng Trung Quốc và tiếng Anh, Huang và các cộng sự (2010) đã đưa ra 35 tiêu chí khác nhau đối với hướng dẫn viên, trong đó kỹ năng tổ chức nhóm, sự đồng cảm, và khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh trong một tour du lịch 127 Nhận định vai trò . . . được đặt lên hàng đầu. Theo cách tương tự, Chang (2014) trong nghiên cứu của mình tại Đài Loan cũng đã khẳng định có 3 yếu tố cần thiết mà một hướng dẫn viên phải có, bao gồm kỹ năng giao tiếp và trình bày, thái độ chuyên nghiệp, và ngoại hình. Gần đây nhất trong nghiên cứu của mình tại Việt Nam, từ 13 tiêu chí ban đầu, Lê (2015) đã kết luận một hướng dẫn viên cho du khách quốc tế cần đáp ứng 5 tiêu chí quan trọng nhất, bao gồm ngoại hình, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tổ chức, và khả năng giới thiệu các điểm vui chơi giải trí. 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CỦA HƯỚNG DẪN VIÊN VÀ SỰ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH TRONG MỘT TOUR DU LỊCH Chất lượng dịch vụ luôn được xem là một trong những yếu tố quyết định đến mức độ hài lòng của khách du lịch (Heung và các cộng sự, 2000; Chan, 2004; Kuo và các cộng sự, 2013). Cụ thể, trong nghiên cứu của Heung và các cộng sự (2002) tại các nhà hàng ở Hong Kong đối với nhận thức của du khách về các yếu tố dịch vụ và ảnh hưởng của chúng đến sự hài lòng của họ đã chỉ ra rằng thái độ và sự tin cậy của nhân viên là hai nhân tố quan trọng góp phần vào sự thỏa mãn của khách hàng. Ngoài ra, khi nghiên cứu về ảnh hưởng của dịch vụ tour đối với sự hài lòng của khách du lịch, Chan (2004) đã đưa ra một mô hình với hai biến phụ thuộc, bao gồm sự thỏa mãn của du khách với dịch vụ tour và với trải nghiệm tour. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy sự thỏa mãn với dịch vụ tour được quyết định bởi dịch vụ hướng dẫn viên, hoạt động nghỉ dưỡng, và ẩm thực; trong khi sự hài lòng về trải nghiệm tour sẽ phụ thuộc vào dịch vụ hướng dẫn viên, hoạt động nghỉ dưỡng, và hoạt động mua sắm. Hầu hết các nghiên cứu trên thế giới đều chứng minh rằng giữa vai trò cũng như hoạt động của hướng dẫn viên và sự hài lòng của khách du lịch luôn tồn tại mối quan hệ nhân quả đồng biến. Cụ thể, Mossberg (1995) nhận định rằng hoạt động hướng dẫn viên ảnh hưởng tích cực đến sự nhận thức về một tour du lịch của du khách. Cũng trong nghiên cứu của mình khi điều tra sự hài lòng của du khách quốc tế với dịch vụ được cung cấp bởi các hướng dẫn viên nội địa tại Hong Kong, Wong (2001) đã chỉ ra rằng đa phần các du khách đều cảm thấy thỏa mãn với kỹ năng chuyên môn, sự đồng cảm trong mối quan hệ, và khả năng giao tiếp của đội ngũ hướng dẫn viên. Ngoài ra, Huang và các cộng sự (2010) khi nghiên cứu vai trò của hướng dẫn viên Trung Quốc đối với sự hài lòng của du khách nội địa và quốc tế cũng khẳng định rằng hoạt động hướng dẫn viên là một trong những yếu tố quan trọng nhất tạo sự hài lòng cho du khách trong một gói tour du lịch. Một nghiên cứu khác của Mak và các cộng sự (2010) tiến hành tại Macau thì đưa ra kết luận rằng hướng dẫn viên là một trong những đội ngũ nhân lực mang tính thiết yếu và sống còn của ngành du lịch. Gần đây hơn, sau khi phân tích và tổng hợp các nghiên cứu trước đó, Weiler và Walker (2014) một lần nữa khẳng định vai trò của hướng dẫn viên và chứng minh rằng kỹ năng giao tiếp của hướng dẫn viên sẽ làm tăng cường sự kỳ vọng của du khách. Bên cạnh đó, Lê (2015) cũng chứng tỏ hoạt động hiệu quả của hướng dẫn viên không chỉ tác động tích cực đến sự hài lòng của du khách mà còn góp phần xây dựng lòng trung thành của du khách đối với điểm đến. Hoạt động cũng như vai trò của hướng dẫn viên du lịch nói chung có thể thấy ở rất nhiều các loại hình du lịch, từ hướng dẫn 128 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật tham quan bảo tàng, khu vui chơi, mua sắm hay ẩm thực, tuy nhiên vai trò trong một tour du lịch theo đoàn được xem là quan trọng nhất do lượng du khách đi du lịch theo hình thức này vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn cả. Cụ thể, Yu và các cộng sự (2002) đã đưa ra khung lý thuyết để tìm hiểu vai trò của hướng dẫn viên trong việc giao tiếp và dàn xếp các vấn đề phát sinh giữa các du khách trong một tour du lịch. Nhóm tác giả kết luận rằng năng lực của hướng dẫn viên ảnh hưởng lớn đến sự hài lòng của du khách đối với chất lượng cũng như trải nghiệm của chuyến đi. Một nghiên cứu khác của Weiler và Yu (2007) chỉ ra rằng với vai trò của một người hòa giải các vấn đề liên quan đến văn hóa của du khách với dân bản xứ/địa phương hay giữa các du khách trong cùng một đoàn, một hướng dẫn viên cần phải tỏ rõ năng lực của mình ở 3 phương diện (tiếp nhận, thấu hiểu, và đương đầu). Cùng quan điểm với nghiên cứu này, Weiler và Walker (2014) cũng đề cao hoạt động hướng dẫn viên khi nhấn mạnh vai trò hòa giải các xung đột bằng kinh nghiệm trong một chương trình tour du lịch. 3. KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Phần phân tích tổng quan lý thuyết trên đây đã phần nào cho thấy tầm quan trọng của hướng dẫn viên trong ngành du lịch cũng như ảnh hưởng của đội ngũ này đối với sự hài lòng của du khách trong một chương trình tour. Bài nghiên cứu cũng cho thấy ở từng thị trường và điểm đến khác nhau thì vai trò, đặc điểm và hoạt động của hướng dẫn viên cũng sẽ có sự thay đổi nhất định tùy thuộc vào trình độ của đội ngũ cũng như những đặc điểm văn hóa riêng biệt của cả du khách lẫn điểm đến. Do vậy, việc nghiên cứu vai trò của hướng dẫn viên ở từng thị trường cụ thể là rất cần thiết, không chỉ nhằm tìm ra các điểm đặc thù của họ mà còn nhận định những mặt tích cực và hạn chế, từ đó có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của hướng dẫn viên. Điều này sẽ góp phần nâng cao việc thu hút dòng du khách quốc tế ở các thị trường thông qua việc thỏa mãn nhu cầu của du khách, bên cạnh đó xây dựng lòng trung thành của họ với điểm đến, tạo tiền đề phát triển ngành du lịch ở các quốc gia theo hướng ổn định và bền vững. 129 Nhận định vai trò . . . TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Aloudat, A. S. (2010), The World View Of Tour Guides: A Grounded Theory Study. PhD thesis, University of Bedfordshire. [2]. Black, R. and Weiler, B. (2005), ‘Quality Assurance And Regulatory Mechanisms In The Tour Guiding Industry: A Systematic Review’, The Journal of Tourism Studies, 16 (1), pp. 24-37. [3]. Chan, A. (2004), ‘Towards An Improved Understanding Of Tour Services And CustomerSatisfaction In Package Tours’, Paper presented at the Second Asia-Pacific CHRIE (APacCHRIE) Conference and Sixth Biennial Conference on Tourism in Asia, Phuket, Thailand. [4]. Chang, K. C (2014), ‘Examining The Effect Of Tour Guide Performance, Tourist Trust, Tourist Satisfaction, And Flow Experience On Tourists’ Shopping Behavior’, Asia Pacific Journal of Tourism Research, 19 (2), pp. 219-47. [5]. Heung, V. C. S., Wong, M. Y. and Qu, H. (2000), ‘Airport-Restaurant Service Quality In Hong Kong: An Application Of SERVQUAL’, Cornell Hotel and RestaurantAdministration Quarterly, 41, pp. 86-96. [6]. Houge M. S. and Kerr, J. H. (2013), ‘Stress And Emotions At Work: An Adventure Tourism Guide’s Experiences’, Tourism Management, 36, pp. 3-14. [7]. Huang, S., Cathy, H. C. and Chan, A. (2010), ‘Tour Guide Performance And Tourist Satisfaction: A Study Of The Package Tours In Shang Hai’, Journal of Hospitality and Tourism Research,34, pp. 3-33. [8]. Kuo, N. T., Chang, K. C., Cheng, Y. S. and Lai, C. H. (2013), ‘How Service Quality Affects Customer Loyalty In The Travel Agency: The Effects Of Customer Satisfaction, Service Recovery, And Perceived Value’, Asia Pacific Journal of Tourism Research, 18 (7), pp. 803-22. [9]. Lê, N. H (2015), The Impact Of Tour Guide Performance On Foreign Tourist Satisfaction And Destination Loyalty In Vietnam, DBA Thesis, Western Sydney University, Australia. [10]. Mak, A. H. N., Wong, K. K. F., & Chang, R. C. Y. (2011), ‘Critical Issues Affecting The Service Quality AndProfessionalism Of The Tour Guides In Hong Kong And Macau’, Tourism Management, 32(6), pp. 1442-52. [11]. Modlin, E. A., Alderman, D. H. and Gentry, G. W. (2011), ‘Tour Guides As Creators Of Empathy: The Role Of Affective Inequality In Marginalizing The Enslaved At Plantation House Museums’, Tourist Studies, 11(1), pp. 3-19. [12]. Mossberg, L. L. (1995), ‘Tour Leaders And Their Importance In Charter Tours’, Tourism Management, 16, pp. 437-445. [13]. Pond, K. L. (1993), The professional guide: Dynamics of tour guiding, New York: Van Nostrand Reinhold. [14]. Poudel, S. and Nayaupane, G. P. (2013), ‘The Role Of Interpretative Tour Guiding In Sustainable Destination Management: A Comparison Between Guided And Nonguided Tourists’, Journal of Travel Research, 52, pp.659-72 [15]. Wang, K. C., Hsieh, A. T., Chou, S. H. and Lin, Y. S.(2007), ‘GPTCCC: An Instrument For Measuring GroupPackage Tour Service’, Tourism Management, 28 (2), pp. 361-76. 130 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật [16]. Weiler, B., Black, R. and Torland, M. (2014), ‘Tour Guiding Research And Scholarship: A Review Of 50 Years Of Research’ [online], In: Chien, P.Monica. CAUTHE 2014: Tourism and Hospitality in the Contemporary World: Trends, Changes and Complexity, Brisbane: School of Tourism, The University of Queensland, 2014, pp. 1181-85. [17]. Weiler, B. and Davis, D. (1993), ‘An Exploratory Investigation Into The Roles Of The Nature- Based Tour Leader’, Tourism Management, 14 (2), pp. 91-98. [18]. Weiler, B. and Walker, K. (2014), ‘Enhancing The Visitor Experience:Reconceptualising The Tour Guide’s Communicative Role’ Journal of Hospitality & TourismManagement, available at (accessed on 22/5/2016) [19]. Weiler, B. and Yu, X. (2007), ‘Dimensions Of Cultural Mediation In Guiding Chinese Tour Groups: Implications For Interpretation’, Tourism Recreation Research, 32 (3), pp. 13-22. [20]. Wong, A. (2001), ‘Satisfaction With Local Tour Guides In Hong Kong’, Pacific TourismReview, 5, pp. 59-67. [21]. World Federation of Tourist Guide Associations (2003), ‘What Is The Tourist Guide?’ WFTGA website, available at [22]. World Travel and Tourism Council (2016), Economic Impact Analysis 2015, available at http:// www.wttc.org/research/economic-research/economic-impact-analysis/ (accessed on 21/5/2016) [23]. Yamada, N. (2011), ‘Why Tour Guiding Is Important For Ecotourism: Enhancing Guiding Quality With The Ecotourism Promotion Policy In Japan’, Asia Pacific Journal of Tourism Research, 16 (2), pp. 139-152. [24]. Yu, X., Weiler, B. and Ham, S. (2002), ‘Intercultural Communication And Mediation: A Framework Of Analysing Intercultural Competence Of Chinese Tour Guides’, Journal ofVacation Marketing, 8, pp. 75-87. [25]. Zhang, H. Q. and Chow, I. (2004), ‘Application Of Importance-Performance Model In Tour Guides’ Performance: Evidence From Mainland Chinese Outbound Visitors In Hong Kong’, Tourism Management, 25, pp. 81-91.
File đính kèm:
- hieu_qua_hoat_dong_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_co_phan_viet.pdf