Lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế phù hợp - Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp

Có nhiều phương thức thanh toán khác nhau được sử dụng trong

thương mại quốc tế. Việc lựa chọn phương thức thanh toán (PTTT)

nào phụ thuộc vào các yếu tố như: Mối quan hệ giữa các nhà xuất

nhập khẩu, khả năng khách hàng đáp ứng quy định do ngân hàng

thương mại (NHTM) đề ra trong thủ tục thanh toán, phí giao dịch

do ngân hàng quy định, đặc thù của thị trường bạn hàng, đặc điểm

của hàng hóa. Tuy nhiên, PTTT nào thuận lợi cho nhà nhập khẩu

thì chứa đựng nhiều rủi ro cho nhà xuất khẩu và ngược lại. Thực tế

cho thấy các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng PTTT chuyển tiền

và nhờ thu nhiều hơn là PTTT bằng L/C (Letter of credit) và điều này

đã chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn cho các doanh nghiệp. Xu hướng

này xuất phát từ những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp, ngân

hàng và từ chính bản thân các PTTT. Bài viết tập trung phân tích

các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn PTTT của doanh nghiệp,

xu hướng lựa chọn PTTT, đưa ra một số khuyến nghị doanh nghiệp

cần lưu ý khi áp dụng các PTTT quốc tế.

Từ khóa: Nhân tố ảnh hưởng, PTTT quốc tế, lựa chọn PTTT quốc tế

pdf 8 trang Bích Ngọc 06/01/2024 1280
Bạn đang xem tài liệu "Lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế phù hợp - Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế phù hợp - Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp

Lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế phù hợp - Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp
57
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 192- Tháng 5. 2018
Lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế phù 
hợp - một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
Trần Nguyễn Hợp Châu
Ngày nhận: 16/04/2018 Ngày nhận bản sửa: 27/04/2018 Ngày duyệt đăng: 23/05/2018
Có nhiều phương thức thanh toán khác nhau được sử dụng trong 
thương mại quốc tế. Việc lựa chọn phương thức thanh toán (PTTT) 
nào phụ thuộc vào các yếu tố như: Mối quan hệ giữa các nhà xuất 
nhập khẩu, khả năng khách hàng đáp ứng quy định do ngân hàng 
thương mại (NHTM) đề ra trong thủ tục thanh toán, phí giao dịch 
do ngân hàng quy định, đặc thù của thị trường bạn hàng, đặc điểm 
của hàng hóa... Tuy nhiên, PTTT nào thuận lợi cho nhà nhập khẩu 
thì chứa đựng nhiều rủi ro cho nhà xuất khẩu và ngược lại. Thực tế 
cho thấy các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng PTTT chuyển tiền 
và nhờ thu nhiều hơn là PTTT bằng L/C (Letter of credit) và điều này 
đã chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn cho các doanh nghiệp. Xu hướng 
này xuất phát từ những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp, ngân 
hàng và từ chính bản thân các PTTT. Bài viết tập trung phân tích 
các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn PTTT của doanh nghiệp, 
xu hướng lựa chọn PTTT, đưa ra một số khuyến nghị doanh nghiệp 
cần lưu ý khi áp dụng các PTTT quốc tế. 
Từ khóa: Nhân tố ảnh hưởng, PTTT quốc tế, lựa chọn PTTT quốc tế
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn 
phương thức thanh toán của các doanh 
nghiệp
Mối quan hệ giữa các nhà xuất nhập khẩu
ối quan hệ giữa nhà xuất khẩu 
và nhà nhập khẩu sẽ trực tiếp 
ảnh hưởng đến mức độ tin cậy 
giữa các bên và do vậy trực 
tiếp ảnh hưởng đến việc lựa 
chọn PTTT. Ba PTTT quốc tế chủ yếu có thể 
được áp dụng tuỳ theo mức độ tin cậy của các 
bạn hàng: (1) Nếu mức độ tin cậy nhiều, DN 
thường áp dụng PTTT chuyển tiền; nếu mức độ 
tin cậy vừa, áp dụng PTTT nhờ thu; nếu mức độ 
tin cậy ít, thường áp dụng PTTT bằng L/C.
Trong quan hệ mua bán, phương thức chuyển 
tiền thường được lựa chọn đối với các khách 
hàng có quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau. 
Vì khâu thanh toán này dễ làm nảy sinh việc 
chiếm dụng vốn của người bán, nếu bên mua 
cố tình dây dưa, kéo dài việc ra lệnh thanh 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
Có nhiều phương thức thanh toán khác nhau trong thương mại quốc tế. Các 
NHTM Việt Nam hiện nay đang sử dụng 
chủ yếu ba phương thức thanh toán: 
Chuyển tiền, nhờ thu và thanh toán bằng 
L/C. Mỗi PTTT đều có ưu điểm và nhược 
điểm riêng, thể hiện mâu thuẫn quyền lợi 
giữa các chủ thể tham gia vào thương mại 
quốc tế. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp 
đang có xu hướng sử dụng các PTTT đơn 
giản như chuyển tiền hay nhờ thu và giảm 
dần tỷ trọng của PTTT bằng L/C
toán cho dù phương thức chuyển tiền, đặc biệt 
là chuyển tiền bằng điện, là PTTT nhanh nhất 
hiện nay. Đối với nhờ thu, ngân hàng cũng chỉ 
tham gia với tư cách là trung gian thu hộ tiền, 
mặc dù ngân hàng có trách nhiệm khống chế bộ 
chứng từ (trong nhờ thu kèm chứng từ) nhưng 
ngân hàng không bị ràng buộc trách nhiệm vào 
việc kiểm tra chứng từ cũng như việc nhà xuất 
khẩu có được nhà nhập khẩu thực hiện nghĩa 
vụ thanh toán hay không. PTTT này cũng hoàn 
toàn dựa vào sự tín nhiệm lẫn nhau giữa nhà 
xuất khẩu và nhập khẩu, dù an toàn hơn chuyển 
tiền nhưng rủi ro cho bên xuất khẩu vẫn còn 
rất lớn. Chính vì vậy, khi mức độ tin cậy giữa 
nhà xuất khẩu và nhập khẩu chưa cao thì nên sử 
dụng PTTT bằng L/C. Trong PTTT này ngân 
hàng thay mặt nhà nhập khẩu cam kết trả tiền 
cho nhà xuất khẩu đồng thời ngân hàng cũng 
chịu trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ do nhà 
xuất khẩu chuyển đến để quyết định việc thanh 
toán cho nhà xuất khẩu.
Khả năng khách hàng đáp ứng quy định do 
NHTM đề ra trong thủ tục thanh toán của 
khách hàng
Xét ở góc độ NHTM thì sự lựa chọn PTTT của 
khách hàng không phải luôn luôn được đáp ứng 
do khách hàng không tuân thủ đầy đủ quy định 
cụ thể cho từng PTTT. Ngân hàng trên cơ sở 
đánh giá về uy tín cũng như năng lực tài chính 
của khách hàng để quyết định một PTTT thích 
hợp. Khi ngân hàng đánh giá cao khả năng tài 
chính và uy tín của nhà nhập khẩu thì ngân 
hàng có thể áp dụng PTTT bằng L/C. Bởi vì 
khi áp dụng PTTT này có nghĩa là ngân hàng 
đã thay mặt cho nhà nhập khẩu, cam kết trả tiền 
cho nhà xuất khẩu. Vì vậy, ngân hàng có thể 
gặp phải những rủi ro nhất định. Trong trường 
hợp nhà nhập khẩu lại không ký quỹ đủ 100% 
giá trị của L/C thì việc chấp nhận phát hành 
thư tín dụng đồng nghĩa với việc ngân hàng có 
thể sẽ gặp phải rủi ro không thu hồi được tiền 
từ nhà nhập khẩu sau khi ngân hàng thanh toán 
cho nhà xuất khẩu. Mặc dù việc lựa chọn PTTT 
là do các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu quyết 
định, nhưng không phải khi nào việc lựa chọn 
này cũng được ngân hàng chấp nhận vì khách 
hàng không đáp ứng được một số quy định của 
ngân hàng. 
Phí giao dịch do ngân hàng quy định 
Mức phí giao dịch cũng ảnh hưởng đến việc lựa 
chọn PTTT. Thông thường các ngân hàng bao 
giờ cũng quy định mức phí tỷ lệ thuận với rủi 
ro mà ngân hàng có thể gặp phải và trách nhiệm 
của ngân hàng. 
Khách hàng bao giờ cũng có xu hướng lựa 
chọn những PTTT có phí tổn thấp nhất. Trong 
ba PTTT mà các NHTM Việt Nam thường áp 
dụng thì chuyển tiền có mức phí thấp nhất. Tuy 
nhiên, không phải lúc nào cũng có thể áp dụng 
được PTTT này. Khách hàng luôn phải cân 
nhắc giữa mức phí giao dịch với rủi ro mà mình 
có thể gặp phải. Một cách tổng quát thì phương 
thức chuyển tiền mang lại rủi ro cho nhà xuất 
khẩu nhiều hơn. Còn với PTTT bằng L/C thì 
mức phí giao dịch thường cao bởi vì trách 
nhiệm của ngân hàng trong PTTT này là rất lớn, 
ngân hàng sẽ đứng ra cam kết trả tiền cho nhà 
xuất khẩu cũng như kiểm tra bộ chứng từ cho 
nhà nhập khẩu.
Đặc thù của thị trường bạn hàng 
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng 
đến việc lựa chọn PTTT qua ngân hàng đó là 
đặc thù của thị trường bạn hàng. Nếu thị trường 
bạn hàng là quốc gia có nhiều bất ổn về chính 
trị hay là quốc gia đang có nhiều thay đổi về 
cơ chế quản lý thì nguy cơ đối mặt với rủi ro 
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
về chính trị hay hay rủi ro do cơ chế quản lý sẽ 
rất cao. Rủi ro do cơ chế quản lý thường gặp 
khi môi trường pháp lý, nền kinh tế của một 
nước chưa ổn định, thường xuyên bị điều chỉnh. 
Khi một quốc gia thay đổi các chính sách về 
dự trữ ngoại hối, thuế, xuất nhập khẩu sẽ trực 
tiếp ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc 
tế (TTQT) đối với các bên liên quan. Trong 
thực tế, những thay đổi này thường khiến các 
ngân hàng và các bên liên quan không thể thực 
hiện được cam kết của mình, làm cho quá trình 
thanh toán bị ngưng trệ, thậm chí bị huỷ bỏ, gây 
thiệt hại cho các bên. Một ví dụ khác về rủi ro 
cơ chế quản lý, như rủi ro do chính sách tiền tệ 
của quốc gia thay đổi, đó là sự thay đổi về lãi 
suất, tỷ giá. Khi lãi suất, tỷ giá thay đổi có thể 
khiến năng lực tài chính của doanh nghiệp này 
tăng lên và doanh nghiệp kia giảm đi. Nguyên 
nhân rủi ro nền kinh tế thường làm thay đổi giá 
trị đồng tiền của mỗi nước và là nguyên nhân 
chính dẫn đến tỷ giá giữa các đồng tiền bị thay 
đổi. Khi nguy cơ đối mặt với những rủi ro này 
lớn thì các bên nên áp dụng PTTT có độ an toàn 
cao như thanh toán bằng L/C thay cho PTTT 
chuyển tiền và nhờ thu. 
Đặc điểm của hàng hoá
Có những loại hàng hoá nên áp dụng PTTT 
thích hợp với tính chất đặc thù của nó. Chẳng 
hạn như với những mặt hàng qua sử dụng một 
lần (hàng “second- hand”) thì nên áp dụng 
PTTT chuyển tiền hay nhờ thu vì với loại hàng 
này việc định giá giá trị còn lại của hàng hoá 
là rất phức tạp, cần phải ưu tiên cho người mua 
quyền xem xét hàng hoá trước khi quyết định 
thanh toán. Hay đối với những mặt hàng đang 
có sự biến động mạnh về giá cả trên thị trường, 
thường là giảm giá hoặc trường hợp hàng hoá 
đó có xu hướng không phù hợp với thị hiếu của 
người tiêu dùng thì nhà xuất khẩu nên áp dụng 
PTTT bằng L/C bởi vì trong trường hợp này 
nếu áp dụng nhờ thu hay chuyển tiền thì nhà 
xuất khẩu có thể gặp phải rủi ro do người mua 
không chịu thanh toán, từ chối nhận hàng. 
Đặc điểm của từng phương thức thanh toán
Bản thân các PTTT hiện nay đều có những ưu 
điểm và nhược điểm mà các NHTM cần có các 
giải pháp để tăng cường hơn nữa khả năng phục 
vụ khách hàng.
- Phương thức nhờ thu phiếu trơn (Clean 
collection): Lợi ích của PTTT này là thủ tục 
đơn giản và chi phí thấp, tuy nhiên lại gây bất 
lợi cho nhà xuất khẩu trong trường hợp người 
nhập khẩu không chấp nhận hối phiếu chừng 
nào chưa chắc chắn hàng hoá đạt yêu cầu, hay 
không có gì đảm bảo là người nhập khẩu sẽ 
có khả năng thanh toán khi hối phiếu đến hạn. 
Việc người xuất khẩu có nhận được tiền hay 
không hoàn toàn tuỳ thuộc vào thiện chí của 
người nhập khẩu.
- Phương thức nhờ thu kèm chứng từ 
(Documentary Collection): Đối với phương 
thức này, nhà xuất khẩu cũng chỉ có thể thông 
qua ngân hàng để khống chế quyền định đoạt 
hàng hoá chứ chưa khống chế được việc trả 
tiền của nhà nhập khẩu. Điều này dẫn đến có 
trường hợp nhà xuất khẩu đã giao hàng và gửi 
bộ chứng từ tới ngân hàng nhờ thu nhưng người 
nhập khẩu không nhận hàng và trả tiền. Trong 
trường hợp này nhà xuất khẩu tuy không mất 
hàng nhưng cũng phải tốn một khoản chi phí 
nhất định trong việc vận chuyển, lưu kho, lưu 
bãi hàng hoá... thậm chí có trường hợp phải bán 
giảm giá hoặc huỷ bỏ toàn bộ hàng hoá.
- Phương thức thanh toán bằng L/C 
(Documentary Credit): Đây là PTTT vẫn được 
xem là an toàn nhất cho người xuất khẩu, tuy 
nhiên, trong thực tế việc áp dụng thời gian qua 
cho thấy phương thức này còn bộc lộ nhiều hạn 
chế:
+ Nhà nhập khẩu thường không ưa thích 
phương thức thanh toán này vì họ không muốn 
bị ứ đọng vốn cũng như hạn mức tín dụng của 
họ trong việc ký quỹ mở L/C, đặc biệt là khi họ 
có thể mua hàng với chất lượng tương đương 
thông qua các phương thức đơn giản hơn như: 
chuyển tiền, nhờ thu...
+ Đối với người bán, phương thức này khiến 
cho họ mất nhiều thời gian, công sức và chi phí 
để lập và hoàn chỉnh bộ chứng từ phù hợp theo 
đúng những điều kiện và điều khoản quy định 
trong L/C, nếu người bán không thể hoàn chỉnh 
và xuất trình bộ chứng từ phù hợp thì việc 
thanh toán sẽ bị chậm lại, thậm chí không được 
thanh toán.
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
- Phương thức chuyển tiền: Bất lợi của PTTT 
này là quyền lợi của nhà xuất khẩu không được 
đảm bảo, việc thanh toán tiền hàng hoàn toàn 
phụ thuộc vào thiện chí của nhà nhập khẩu. Tuy 
nhiên, nhà nhập khẩu thường ưa thích PTTT 
này hơn cả bởi vì họ không phải duy trì hạn 
mức tín dụng tại ngân hàng hay ký quỹ trong 
trường hợp mở L/C. Đồng thời nó cũng cho 
phép nhà nhập khẩu tiếp cận nhiều nhà cung 
cấp khác nhau. Đặc biệt với PTTT này nhà 
nhập khẩu được bên bán cấp tín dụng, vì vậy số 
vốn cần thiết trong kinh doanh sẽ giảm đi, chi 
phí thực hiện giao dịch giảm xuống. Chính vì 
vậy đây được coi là PTTT tiết kiệm chi phí nhất 
cho nhà nhập khẩu.
2. Xu hướng sử dụng các phương thức thanh 
toán quốc tế hiện nay
Để xem xét xu hướng dịch chuyển của các 
PTTT quốc tế, tác giả đã nghiên cứu các tài 
liệu, báo cáo về TTQT của một số NHTM giai 
đoạn 2013- 2017 kết hợp với tiến hành khảo 
sát, phỏng vấn chuyên gia TTQT của một số 
NHTM Việt Nam. Đó là các ngân hàng sau: 
VCB, Vietinbank, BIDV, ACB, Agribank, 
Techcombank, SCB, VIP, Abbank, Sacombank, 
Lienvietpostbank, Eximbank. Đây là các 
NHTM Việt Nam nắm giữ phần lớn thị phần 
TTQT. Cuộc khảo sát được thực hiện trong 
khoảng thời gian từ 15/02/2018 đến 31/3/2018. 
Từ kết quả của cuộc khảo sát, kết hợp với báo 
cáo TTQT của một số ngân hàng, tác giả đã 
xác định được tỷ trọng của từng PTTT quốc tế 
và thị phần thanh toán của các ngân hàng trên 
giai đoạn 2013- 2017. Coi thị phần là trọng số, 
tác giả đã tính được tỷ trọng bình quân của các 
PTTT tại các ngân hàng này.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam chủ yếu cung 
cấp dịch vụ thanh toán theo ba PTTT chuyển 
tiền, nhờ thu và thanh toán bằng L/C.
Đây là danh mục sản phẩm TTQT truyền thống 
của các NHTM Việt Nam. Các sản phẩm này 
đều là các sản phẩm thuộc PTTT chuyển tiền, 
nhờ thu hoặc thanh toán bằng L/C. Hầu hết các 
ngân hàng đều cung ứng các dịch vụ TTQT 
này. Cũng với sự phát triển của công nghệ ngân 
hàng và nhu cầu ngày càng tăng của khách 
hàng, trên báo cáo của nhiều ngân hàng xuất 
hiện thêm các sản phẩm thanh toán đặc thù 
nhưng về cơ bản đều xuất phát từ các PTTT kể 
trên như: D/P kỳ hạn, UPAS L/C
Trong những năm gần đây, cơ cấu các PTTT 
quốc tế tại các NHTM Việt Nam có nhiều sự 
thay đổi, tỷ trọng PTTT chuyển tiền đang có xu 
hướng tăng lên. Trong thanh toán hàng xuất, tỷ 
trọng PTTT chuyển tiền đã tăng từ 45% năm 
2013 lên đến 65% năm 2017. Trong khi đó tỷ 
trọng thanh toán bằng L/C giảm từ 26% năm 
2013 còn 19% năm 2017 (Hình 1). Việc chuyển 
dần sang PTTT chuyển tiền có thể giúp cho các 
doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí so với việc 
sử dụng các PTTT an toàn hơn thông qua ngân 
hàng như nhờ thu kèm chứng từ, thanh toán 
bằng L/C. Mặc dù với phương thức này, việc 
thanh toán sẽ được thực hiện một cách nhanh 
chóng, nhưng doanh nghiệp cũng sẽ phải đối 
mặt với những rủi ro khi việc thanh toán hoàn 
toàn phụ thuộc vào đạo đức và thiện chí của nhà 
nhập khẩu. Hơn nữa, khả năng doanh nghiệp 
bị tội phạm công nghệ tấn công là rất cao, nhất 
là khi cộng đồng doanh nghiệp chỉ trao đổi và 
Bảng 1. 
Danh mục sản phẩm thanh toán quốc tế của 
các ngân hàng thương mại Việt Nam
STT
Phương 
thức 
thanh toán
Danh mục sản phẩm
1 Chuyển tiền
- Chuyển tiền đi
- Chuyển tiền đến
2 Nhờ thu - Nhờ thu xuất khẩu- Nhờ thu nhập khẩu
3 Tín dụng chứng từ
- Phát hành L/C
- Thanh toán L/C
- Ủy quyển nhận hàng
- Ký hậu vận đơn
- Phát hành bảo lãnh nhận 
hàng theo L/C
- Thông báo, sửa đổi L/C
- Xác nhận L/C
- Dịch vụ nhận bộ chứng từ và 
thanh toán
- Chiết khấu có truy đòi
- Chiết khấu miễn truy đòi.
- Chuyển nhượng L/C
Nguồn: Thống kê từ website các NHTM Việt Nam
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
61Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
giao dịch qua Internet.
Trong thanh toán hàng nhập khẩu, nếu như 
trước đây tỷ trọng thanh toán bằng L/C chiếm 
ưu thế trong tổng doanh số thanh toán hàng 
nhập thì nay lại có xu hướng giảm dần. Năm 
2013, tỷ trong PTTT chuyển tiền chiếm 37 % 
thì đến năm 2017, con số này đã là 50%. Tỷ 
trọng PTTT bằng L/C giảm dần từ 40% năm 
2013 còn 24% vào năm 2017 (Hình 2). Sự thay 
đổi này một lần nữa khẳng định uy tín của các 
doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Từ 
chỗ chưa tin tưởng ban đầu, nhà nhập khẩu Việt 
Nam phải yêu cầu ngân hàng phát hành L/C, 
thậm chí là L/C có xác nhận để thanh toán thì 
ngày nay, người xuất khẩu nước ngoài sẵn sàng 
giao hàng cho chúng ta rồi mới yêu cầu trả tiền.
Qua phân tích thực trạng sử dụng các PTTT 
quốc tế tại các NHTM Việt Nam cho thấy, xu 
hướng sử dụng chuyển tiền và nhờ thu ngày 
càng tăng, PTTT bằng L/C có xu hướng giảm 
sút. Tình trạng này bắt nguồn từ những nguyên 
nhân sau đây:
Xuất phát từ phía các NHTM
Hình 1. Tỷ trọng các phương thức thanh toán trong thanh toán hàng xuất tại một số ngân 
hàng thương mại Việt Nam
Đơn vị: %
Nguồn: Báo cáo thanh toán quốc tế của VCB, Techcombank, Vietinbank, ACB, SCB và khảo sát của tác giả 
Hình 2. Tỷ trọng các phương thức thanh toán trong thanh toán hàng nhập tại một số ngân 
hàng thương mại Việt Nam
Đơn vị: %
Nguồn: Báo cáo thanh toán quốc tế của VCB, Techcombank, Vietinbank, ACB, SCB và khảo sát của tác giả 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
Việc lựa chọn PTTT nào trong ngoại thương là 
do các doanh nghiệp tự quyết định, tuy nhiên 
với vai trò cung cấp các dịch vụ thanh toán và 
tư vấn cho khách hàng, ngân hàng cũng đóng 
một vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết 
định sử dụng phương thức nào trong thanh toán.
Bản thân mỗi ngân hàng khi thực hiện một 
PTTT đều đưa ra các sản phẩm dịch vụ đi kèm, 
chủ yếu là các loại hình tài trợ nhằm tạo điều 
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong giao 
dịch thương mại quốc tế. Hiện nay, với xu 
hướng hội nhập nền kinh tế quốc tế, Việt Nam 
đã là thành viên của WTO, để tăng cường cạnh 
tranh với các ngân hàng nước ngoài thì các 
NHTM Việt Nam đã đa dạng hoá các loại hình 
dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế, đặc biệt là 
các sản phẩm dịch vụ hiện đại như bao thanh 
toán (factoring), bảo lãnh ngân hàng (bank 
guarantee)...
Theo số liệu thống kê của FCI (Factor Chain 
International), doanh số bao thanh toán của Việt 
Nam năm 2012 là 61 triệu EUR thì đến năm 
2016 con số này đã là 658 triệu EUR. Có thể 
nói đây là một con số tăng trưởng ngoạn mục 
với mức trung bình là 215%/năm. Thành quả 
này xuất phát từ một số nguyên nhân như sau:
- Các NHTM Việt Nam đã chủ động cung ứng 
và giới thiệu sản phẩm tài trợ này đến khách 
hàng.
- Lợi ích mà dịch vụ này mang lại cho khách 
hàng như nhà xuất khẩu được tài trợ vốn lưu 
động mà lại tránh được rủi ro khi nhà nhập 
khẩu trì hoãn hoặc mất khả năng thanh toán, 
nhà nhập khẩu thì được trả chậm trong một 
khoảng thời gian nhất định.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) 
đã ban hành hành lang pháp lý cho hoạt động 
bao thanh toán: Quyết định số 1096/2004/
QĐ-NHNN ngày 06/9/2004, Quyết định số 
30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008, Thông tư 
số 14/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 và gần 
đây nhất là Thông tư 02/2017/TT-NHNN ngày 
17/5/2017.
Cùng với việc sử dụng các sản phẩm tài trợ này 
thì rủi ro trong thanh toán của nhà xuất khẩu đã 
giảm đi. Do vậy, họ sẽ có xu hướng sử dụng các 
PTTT đơn giản hơn như chuyển tiền hay nhờ 
thu để tiết kiệm chi phí.
Xuất phát từ các doanh nghiệp xuất nhập 
khẩu
Hình 1 và Hình 2 cho thấy có sự khác biệt về 
tỷ trọng của PTTT chuyển tiền trong thanh toán 
hàng xuất và thanh toán hàng nhập. Điều này là 
xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau.
Khi xuất khẩu, tỷ trọng PTTT chuyển tiền 
thường rất cao, chiểm khoảng 65% (Hình 1). 
Nguyên nhân là do hàng hoá của Việt Nam có 
luồng chảy tới những thị trường đã phát triển 
ở mức độ cao (thị trường EU và Bắc Mỹ), yêu 
cầu về chất lượng hàng hoá rất khắt khe, vì vậy 
phía nhà nhập khẩu thường nhận được hàng 
rồi mới quyết định trả tiền; ngoài ra một số 
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam mới tham 
gia vào thị trường (vốn ít, uy tín chưa có trên 
thị trường), vì vậy muốn bán được hàng hoá thì 
phải chấp nhận những yêu cầu của phía nước 
ngoài, do đó phương thức chuyển tiền được sử 
dụng là chủ yếu. Thêm vào đó, để hấp dẫn bạn 
hàng và tăng sức cạnh tranh, nhiều nhà xuất 
khẩu Việt Nam sẵn sàng sử dụng phương thức 
chuyển tiền với những bạn hàng lâu năm và có 
Hình 3. Doanh số bao thanh toán ở Việt Nam
Đơn vị: triệu EUR
Nguồn: https:/fci.nl/en/home
 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
63Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
uy tín.
Khi nhập khẩu, tỷ trọng PTTT chuyển tiền 
khoảng 50%, 50% còn lại là phương thức nhờ 
thu và thanh toán bằng L/C (Hình 2). Tỷ trọng 
này thấp hơn trong thanh toán hàng xuất nhưng 
đã tăng lên trong vòng 5 năm qua. Điều này 
đã khẳng định nhà nhập khẩu Việt Nam ngày 
càng có uy tín trong thanh toán. Do vậy, việc 
chuyển sang phương thức chuyển tiền sẽ mang 
lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp: đơn giản 
hơn, tiết kiệm chi phí, không phải kiểm soát bộ 
chứng từ.... 
3. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp 
- Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy, các 
doanh nghiệp đang có xu hướng chuyển sang 
sử dụng chuyển tiền thay cho PTTT bằng L/C. 
Phương thức chuyển tiền chỉ thực sự có hiệu 
quả khi người mua, người bán tin tưởng lẫn 
nhau. NHTM tham gia phương thức trên chỉ với 
tư cách trung gian hưởng hoa hồng, không đưa 
ra bất kì sự ràng buộc nào trong quá trình thực 
hiện dịch vụ. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, từ 
chối thanh toán hay vi phạm hợp đồng sẽ gây 
nên tổn thất nặng nề cho nhà nhập khẩu hay 
nhà xuất khẩu. Do vậy, doanh nghiệp cần tìm 
hiểu kỹ đối tác trước khi giao dịch: lịch sử giao 
dịch, uy tín, sản phẩm, dịch vụ, quy mô, khả 
năng thanh toán cũng như tham khảo ý kiến 
ngân hàng về quá trình kinh doanh của đối tác 
là điều quan trọng để hạn chế rủi ro. Tâm lý của 
nhiều doanh nghiệp là nỗ lực bán được hàng, 
giải phóng tồn kho và dễ tin vào đối tác, nên 
thường xem nhẹ yếu tố phòng ngừa rủi ro. Họ 
thường chú trọng vào công tác tiếp thị khai thác 
thị trường cạnh tranh, lơ là công tác điều tra 
nghiên cứu đối tác mà vốn dĩ nó đòi hỏi nhiều 
thời gian và thông tin, đặc biệt là thông tin từ 
nước bản địa. Có rất nhiều hình thức lừa đảo, 
gian lận cả trong giao dịch xuất khẩu và nhập 
khẩu, nhưng doanh nghiệp sẽ tránh được nếu 
nắm rõ đối tác. Một trong rất nhiều cạm bẫy từ 
đối tác là chuyển tiền 30% ứng trước, để doanh 
nghiệp tin tưởng giao hàng 100% theo phương 
thức DA/DP, hoặc trả trước 70% còn lại sau 
khi nhận hàng. Kết quả kẻ lừa đảo lấy chứng 
từ nhận hàng và tự giải tán. Để hạn chế rủi ro 
trong các giao dịch thương mại quốc tế các 
doanh nghiệp trước khi xuất hàng cần tìm hiểu 
kỹ thị trường, kiểm tra đánh giá, xếp hạng rủi 
ro tín dụng, kinh doanh của phía đối tác nước 
ngoài thông qua các nguồn tin công khai, mua 
dịch vụ thẩm tra từ các đơn vị có uy tín, như 
Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt 
Nam CIC (NHNN), hay qua kênh của Hiệp 
hội tại các nước nhập khẩu, cơ quan đại diện 
ngoại giao, thương vụ và chi nhánh thương vụ 
tại nước xuất, nhập khẩu... Nhất là các đối tác 
mới giao dịch lần đầu, hay đối tác tìm được qua 
kênh trung gian.
- Theo tài liệu Hội thảo “Thanh toán quốc tế 
trong hoạt động xuất nhập khẩu” do Cục Xúc 
tiến Thương mại (Bộ Công thương) tổ chức tại 
TP. Hồ Chí Minh ngày 5/12/2017, trong một số 
trường hợp, mặc dù hợp đồng mua bán sơ sài 
và bất lợi cho phía nhà nhập khẩu Việt Nam, 
nhưng doanh nghiệp vẫn ký và thực hiện. Từ 
đó tạo điều kiện để phía nước ngoài giao hàng 
không như mong muốn, gây ra kiện tụng và 
doanh nghiệp Việt Nam thường là thua thiệt. 
Do vậy, trong các hợp đồng mua bán, doanh 
nghiệp cần quy định chặt chẽ những điều khoản 
bảo vệ quyền lợi của mình (chú ý điều khoản 
về cơ quan giải quyết tranh chấp, khiếu nại), 
tránh các trường hợp bất lợi cho doanh nghiệp 
khi phát sinh tranh chấp. Nghiên cứu kỹ quy 
định về điều khoản phạt hợp đồng trong đó 
quy định phạt bên nào không thực hiện nghĩa 
vụ của mình một cách đầy đủ; yêu cầu cả hai 
bên ký quỹ tại một ngân hàng để đảm bảo thực 
hiện hợp đồng; tự nâng cao nhận thức của mình 
về pháp luật thương mại quốc tế, chủ động 
tìm hiểu về quy định pháp lý liên quan đến 
xuất nhập khẩu tại các thị trường lớn để đưa ra 
những đối sách phù hợp; trong thanh toán quốc 
tế, doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên lựa chọn 
ngân hàng lớn uy tín trong nước để sử dụng 
dịch vụ. 
- Kết hợp PTTT quốc tế với một số sản phẩm 
tài trợ thương mại quốc tế. Với nhà xuất khẩu 
để tránh rủi ro trong thanh toán khi sử dụng 
phương thức chuyển tiền có thể kết hợp với sản 
phẩm bảo lãnh thanh toán hay bao thanh toán. 
Còn nhà nhập khẩu để phòng ngừa, hạn chế rủi 
ro do nhà xuất khẩu không giao hàng hay giao 
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
hàng không đúng chất lượng trong hợp đồng có 
thể sử dụng bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo 
lãnh chất lượng sản phẩm. 
Lựa chọn PTTT quốc tế phù hợp là yếu tố quan 
trọng quyết định sự thành công của mỗi một 
giao dịch thương mại quốc tế. Một PTTT có sự 
giám sát chặt chẽ của NHTM mang lại một sự 
đảm bảo an toàn hơn cho các chủ thể tham gia 
vào giao dịch nhưng lại đi kèm theo một mức 
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo thanh toán quốc tế của VCB, Techcombank, Vietinbank, ACB, SCB năm 2015-2017.
2. GS.TS. Nguyễn Văn Tiến, Cẩm nang thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, NXB Thống kê 2014.
3. https:/fci.nl/en/home 
4. Tài liệu Hội thảo “Thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu” do Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) tổ 
chức tại TP. Hồ Chí Minh ngày 5/12/2017.
5. Website các ngân hàng thương mại.
Thông tin tác giả
Trần Nguyễn Hợp Châu, Tiến sĩ
Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng
Email: chautnh@hvnh.edu.vn
Summary
The appropriate selection of international payment methods - some suggestions for enterprises
There is a wide range of payment methods used in international trade. The selection of any method of payment 
depends on a number of factors including the relationship between the exporter and the importer; the ability 
to comply with certain regulations on payment procedures by the commercial bank; the banking fees; the 
characteristics of the counterparty’s market; the characteristics of the merchandise, etc. Yet it is certain that 
whichever payment method is advantageous for the importer puts the exporter at greater risk and vice versa. In 
fact, that companies tend to employ remittances and collection more than letter of credit (L/C) poses a number 
of potential risks to companies themselves.The tendency arises from reasons of enterprises, banks, and the 
international payment methods. In order to prevent and mitigate risks during payment process, this article makes 
some suggestions that companies should consider when selecting international payment methods.
Keywords: Influencing factors, international payment methods, selection of international payment methods. 
Chau Nguyen Hop Tran, PhD 
International Business Faculty, Banking Academy
phí dịch vụ đáng kể. Tuy nhiên, khi nhà nhập 
khẩu và xuất khẩu hội tụ được những điều kiện 
cần thiết thì việc tiết kiệm chi phí bằng cách sử 
dụng một PTTT đơn giản hơn, trong đó NHTM 
chỉ đơn thuần đóng vai trò là trung gian thanh 
toán lại có thể là sự lựa chọn tối ưu. Chỉ có 
nhà xuất khẩu và nhập khẩu với sự tư vấn của 
NHTM sẽ biết một cách chính xác nhất PTTT 
quốc tế nào là phù hợp với mình. ■

File đính kèm:

  • pdflua_chon_phuong_thuc_thanh_toan_quoc_te_phu_hop_mot_so_khuye.pdf