Mô hình nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy và cản trở hành vi mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng Việt Nam
Bài báo này tổng quan các nghiên cứu liên quan về hành vi tiêu dùng thực phẩm hữu cơ (TPHC), tập
trung vào nghiên cứu tác động tích hợp của các yếu tố cá nhân và bối cảnh của người tiêu dùng Việt
Nam về thái độ và hành vi mua TPHC. Bối cảnh phụ thuộc vào hoàn cảnh bao gồm cả những yếu tố thúc
đẩy và cản trở, kìm hãm trong việc phát triển hành vi mua TPHC.
Từ khóa: Hành vi mua TPHC, Marketing xanh, Người tiêu dùng Việt Nam, Thái độ đối với mua TPHC,
Thực phẩm hữu cơ.
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy và cản trở hành vi mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy và cản trở hành vi mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng Việt Nam
49
Sè 129/2019
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
1. Lời giới thiệu
Việc tiêu thụ thực phẩm của con người có tác
động đáng kể đến môi trường, cá nhân và sức khỏe
cộng đồng [1-3]. Tiêu thụ thực phẩm có liên quan
đến các vấn đề môi trường như tăng phát thải khí
nhà kính, khan hiếm và ô nhiễm nguồn nước. Việc
tiêu thụ thực phẩm có chứa dư lượng và vi sinh vật
có hại sẽ gây ra các vấn đề sức khỏe cá nhân nghiêm
trọng: bệnh tật và thậm chí tử vong. Ngoài ra, các
bệnh tật này còn dẫn đến gánh nặng chi phí y tế và
tổn thất cho ngành y tế công cộng.
TPHC (Organic food) luôn được coi là thực
phẩm xanh và sạch. Mặc dù tồn tại nhiều định nghĩa
khác nhau, nhưng về cơ bản, TPHC có thể được hiểu
là tất cả những sản phẩm nông sản, gia súc, gia cầm
được người nông dân hay các nông trại, cơ sở sản
xuất theo quy trình tự nhiên, không sử dụng hóa chất
độc hại, tái sử dụng vật liệu và tiết kiệm năng lượng
cung cấp cho người tiêu dùng (Chương trình Hữu cơ
Quốc gia thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA)). Nhu
cầu về các TPHC đang ngày một tăng lên do người
tiêu dùng ngày càng quan tâm tới sức khỏe và môi
trường. Thị trường TPHC cũng tăng trưởng cao ở
mức bình quân từ 15 tới 20% trong những năm gần
đây (Somsak and Blut, 2012). Theo số liệu Kantar
World Travel, thị trường TPHC thế giới hiện nay
chiếm 4% doanh thu thực phẩm và đồ uống toàn
cầu. Năm 2015, thị trường này trên thế giới đạt 51
MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
CÁC YẾU TỐ THÚC ĐẨY VÀ CẢN TRỞ HÀNH VI
MUA THỰC PHẨM HỮU CƠ CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM
Nguyễn Hoàng Việt
Trường Đại học Thương mại
Email: nhviet@tmu.edu.vn
Nguyễn Bách Khoa
Trường Đại học Thương mại
Email: nbkhoa@tmu.edu.vn
Nguyễn Thế Ninh
Trường Đại học Thương mại
Email: ninh.nguyen@latrobe.edu.au
Vũ Phương Anh
Trường Đại học Thương mại
Email: vphuonganh@gmail.com
Nguyễn Hoàng Nam
Trường Đại học Thương mại
Email: namqtcl@tmu.edu.vn
Ngày nhận: 02/04/2019 Ngày nhận lại: 15/04/2019 Ngày duyệt đăng: 23/04/2019
Bài báo này tổng quan các nghiên cứu liên quan về hành vi tiêu dùng thực phẩm hữu cơ (TPHC), tập trung vào nghiên cứu tác động tích hợp của các yếu tố cá nhân và bối cảnh của người tiêu dùng Việt
Nam về thái độ và hành vi mua TPHC. Bối cảnh phụ thuộc vào hoàn cảnh bao gồm cả những yếu tố thúc
đẩy và cản trở, kìm hãm trong việc phát triển hành vi mua TPHC.
Từ khóa: Hành vi mua TPHC, Marketing xanh, Người tiêu dùng Việt Nam, Thái độ đối với mua TPHC,
Thực phẩm hữu cơ.
Sè 129/201950
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
tỷ USD và dự kiến đến năm 2020 tăng trưởng gần
35% đạt 110 tỷ USD. Trong đó, Mỹ, Châu Âu và
Trung Quốc là 3 thị trường TPHC phát triển nhất với
việc Mỹ chiếm gần 50% tổng doanh thu toàn cầu,
EU chiếm 36% và Trung Quốc chiếm 6%.
Phần lớn các nghiên cứu về hành vi mua TPHC
tập trung vào bối cảnh các nước phát triển; hiểu biết
về các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi mua TPHC của
người tiêu dùng tại thị trường các nước đang phát
triển, đặc biệt là tại Việt Nam còn hạn chế. Đa số
người tiêu dùng tin rằng TPHC thân thiện với môi
trường, lành mạnh hơn, có lợi cho sức khỏe, sạch
hơn, bổ dưỡng hơn, ngon hơn và an toàn hơn so với
thực phẩm thông thường [1, 3-5]. Phần lớn các
nghiên cứu về TPHC tập trung vào các yếu tố cá
nhân của người tiêu dùng nhằm thúc đẩy thái độ và
hành vi mua hàng liên quan đến TPHC [7]. Các yếu
tố cá nhân chủ yếu bao gồm các giá trị, mối quan
tâm về môi trường, kiến thức, chất lượng cảm nhận
được, cảm xúc, ý thức về sức khỏe, mối quan tâm về
dinh dưỡng, hương vị thực phẩm và an toàn thực
phẩm. Một số nghiên cứu đã tìm ra tác động trái
chiều giữa thái độ của người tiêu dùng và quyết định
mua TPHC [13, 14]. Mặc dù giữ thái độ tích cực về
TPHC nhưng người tiêu dùng vẫn không quyết định
mua sản phẩm [7]. Có thể được giải thích bởi các
yếu tố phụ thuộc vào bối cảnh và môi trường, và
không giống như các yếu tố cá nhân, phần lớn chưa
được khám phá.
Nghiên cứu này nhằm tổng quan các nghiên cứu
liên quan về hành vi tiêu dùng TPHC, tập trung vào
nghiên cứu tác động tích hợp của các yếu tố cá nhân
và bối cảnh của người tiêu dùng về thái độ và hành
vi mua TPHC. Bối cảnh phụ thuộc vào hoàn cảnh
bao gồm cả những yếu tố thúc đẩy và cản trở, kìm
hãm trong việc phát triển hành vi mua TPHC.
2. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận
Nông nghiệp hữu cơ đã được quan tâm ngày
càng lớn trong 2 thập kỷ qua, nhất là khi mà áp lực
về lương thực giảm đi, song áp lực về vệ sinh an
toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường
lại tăng lên. Thuật ngữ “hữu cơ” không chỉ đề cập
đến dạng dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, vật
nuôi mà được mở rộng ra như là một quan điểm, lối
sống trong đó tính bền vững là hạt nhân.
TPHC được hiểu là tất cả những sản phẩm nông
sản, gia súc, gia cầm được người nông dân hay các
nông trại, cơ sở sản xuất theo quy trình tự nhiên,
không sử dụng hóa chất độc hại, tái sử dụng vật liệu
và tiết kiệm năng lượng cung cấp cho người tiêu
dung. TPHC bao gồm 2 loại là TPHC động vật và
thực vật. TPHC động vật là các loại động vật như
bò, gà, cá, lợn, được nuôi ở những vùng riêng biệt
mà trong thức ăn hay nước uống không có hóa chất
nào như thuốc bảo vệ thực vật. Động vật được nuôi
lớn tự nhiên mà không sử dụng một loại kích thích
tăng trưởng nào như chất tạo nạc, ngoại trừ thuốc
kháng sinh để chữa bệnh trước 90 ngày khi giết mổ.
Một số nước còn cấm sử dụng động vật biến đổi
gen, công nghệ nano trong thực phẩm khi nuôi các
thực phẩm hữu cơ. TPHC thực vật như là các loại
rau củ quả được trồng tự nhiên, tưới bón bằng phân
thiên nhiên chứ không dùng một loại hóa chất bảo
vệ thực vật hay phân bón hóa học nào.
Quyết định mua TPHC của người tiêu dùng phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố đa dạng và phức tạp.
Nhận thức hay cách nghĩ, cách hiểu về thuật ngữ
“hữu cơ” của mỗi người là khác nhau và tùy vào
điều kiện bối cảnh mà nhận thức của họ cũng khác
nhau. Người tiêu dùng có xu hướng hành động và ra
quyết định dưa trên kinh nghiệm và đặc biệt nhận
thức chủ quan về từng loại TPHC (Vermeir và
Verbeke, 2006; Hughner và cộng sự, 2007; Zepeda
và Deal, 2009; Dean và cộng sự 2012). Do đó, các
nghiên cứu đưa nhóm yếu tố nhân khẩu học (giới
tính, độ tuổi, thu nhập, nghề nghiệp,...) như biến
kiểm soát tác động tới nhận thức, thái độ hay hành
vi mua của người tiêu dùng cùng với các yếu tố tác
động từ môi trường.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Minh Hải
và Vũ Quỳnh Hoa (2016) về nhận thức của người
tiêu dùng Việt Nam về TPHC: trường hợp nghiên
cứu tại TP Hà Nội chỉ ra rằng chỉ có khoảng 10% số
người tiêu dùng có nhận thức đầy đủ về TPHC,
trong khi đó có tới 50% không hiểu đầy đủ hoặc
nhầm lẫn về sản phẩm hữu cơ mặc dù đã từng nghe
nói về nó. Còn lại khoảng 40% số người được phỏng
vấn thì chưa từng biết và nghe đến về TPHC. Những
yếu tố ảnh hưởng tới nhận thức về TPHC bao gồm
mức độ quan tâm về nguồn gốc/nhãn hiệu sản phẩm,
đánh giá về mức độ an toàn thực phẩm, trình độ học
vấn, tuổi và nghề nghiệp của người tiêu dùng.
Trước hết cần khẳng định việc tiếp cận với
thông tin trên các phương tiện truyền thông đã làm
cho người tiêu dùng quan tâm hơn và ý thức được
hơn về việc bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất
51
Sè 129/2019
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
lượng sống. Các yếu tố về giáo dục, thu nhập và
toàn cầu hóa khiến cho người tiêu dùng ở các quốc
gia phát triển đặc biệt quan tâm đến thực phẩm an
toàn, bổ dưỡng, thân thiện với môi trường và rủi ro
về sự gia tăng tỷ lệ bệnh tật như béo phì, bệnh tiểu
đường. Người tiêu dùng cũng không ngại phải trả
giá cao cho các thực phẩm an toàn (Tsakiridou và
cộng sự, 2008).
Ý thức về sức khỏe là động cơ đầu tiên mà người
tiêu dùng quan tâm đến việc mua TPHC; đòi hỏi các
loại thực phẩm vừa có hàm lượng dinh dưỡng vừa
đảm bảo chất lượng và hương vị. Nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng người tiêu dùng tin rằng TPHC có nhiều
chất dinh dưỡng hơn những sản phẩm thông thường.
Fillion và Arazi (2002) đã chỉ ra rằng do giá cao nên
người tiêu dùng nhận thức rằng chất lượng TPHC
cao hơn so với các thực phẩm thông thường khác.
Nghiên cứu của Kumar và Ali (2011) cho thấy
yếu tố an toàn thực phẩm cũng là động lực chủ yếu
thúc đẩy hành vi mua TPHC. Các loại thuốc, hóa
chất bảo quản có hại cho sức khỏe con người hay
các loại bệnh liên quan đến động vật như cúm gia
cầm hay bệnh bò điên trong thời gian qua làm cho
người tiêu dùng thực sự lo lắng.
Các nghiên cứu của Schwartz (1973,1977) hay
McEachern và McClean (2002) cho thấy chuẩn mực
xã hội hay các mối quan hệ xã hội giúp định hình và
dự đoán được hành vi cá nhân. Mối quan tâm về vấn
đề môi trường dựa trên nghĩa vụ đạo đức giúp cho
người tiêu dùng có thái độ tích cực với việc bảo vệ
môi trường sống, từ đó mở ra cơ hội phát triển các
sản phẩm thân thiện với môi trường hay các sản
phẩm hữu cơ ở các nước phát triển (Ottman và
Terry, 1998). Người tiêu dùng quan niệm rằng thuốc
trừ sâu hay các loại hóa chất được quy ước là các
sản phẩm có hại cho môi trường, trong khi TPHC lại
là những sản phẩm thân thiện với môi trường, vì vậy
yếu tố này đã được chứng minh là có ảnh hưởng
thuận lợi tới thái độ của người tiêu dùng, tuy nhiên
nhiều nghiên cứu cũng chứng minh rằng nó không
phải là một yếu tố định hướng cho việc mua của
TPHC mà chủ yếu ảnh hưởng đến là thái độ (Zanoli
và Naspetti, 2002).
Bên cạnh các yếu tố tác động tích cực theo
hướng thúc đẩy hành vi mua TPHC thì các nghiên
cứu cũng kiểm chứng các yếu tố cản trở người tiêu
dùng lựa chọn và quyết định mua loại sản phẩm này.
Các tác giả (Chinnici và cộng sự, 2002) chỉ ra sự
thiếu hiểu biết, nhận thức chưa đầy đủ, khả năng tài
chính thấp và giá TPHC cao là một số rào cản chủ
yếu đến quyết định mua TPHC. Thách thức lớn nhất
là làm sao để chứng minh cho người tiêu dùng tin
vào sản phẩm, hiểu đầy đủ lợi ích của sản phẩm và
chấp nhận giá cao của sản phẩm.
Nghiên cứu của Hải và cộng sự (2013) đã đánh
giá hiện trạng tiêu thụ rau hữu cơ và kiểm chứng
mức sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng cho các mặt
hàng rau hữu cơ ở các thành phố lớn ở Việt Nam. Kết
quả này cho thấy khoảng 15% người tiêu dùng đã có
kinh nghiệm sử dụng rau hữu cơ, tuy nhiên có đến
88% muốn thử và sẽ mua nếu rau hữu cơ có mặt trên
thị trường. Những phát hiện này gợi ý rằng thông tin
về rau hữu cơ phải được công bố rộng rãi cho người
tiêu dùng và mở các cửa hàng rau hữu cơ mới là ưu
tiên mở rộng thị phần trong tương lai.
Nghiên cứu của Yadav và Pathak (2017) đã chỉ
ra có sự khác biệt rất lớn giữa lý do mua TPHC ở các
nước đang phát triển và phát triển. Tại các nước phát
triển - quy mô thị trường lớn hơn - thì vấn đề bảo vệ
môi trường và sức khỏe, kiến thức có ảnh hưởng
đáng kể do người tiêu dùng đang trong giai đoạn
tiến tới tự thể hiện bản thân sau khi đã hoàn thành
bậc nhu cầu xã hội. Trong khi các nước đang phát
triển thì nhu cầu mới chỉ dừng lại ở nhu cầu cơ bản
và nhu cầu an toàn. Điều này chứng tỏ có một mối
liên hệ giữa các bậc nhu cầu khác nhau và nhu cầu
tiêu thụ thực phẩm hữu cơ.
Nghiên cứu của Chen, Lobo và Rajendran
(2014) về các yếu tố ảnh hưởng tới ý định mua
TPHC của người tiêu dùng thành thị Trung Quốc.
Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên Lý
thuyết hành vi dự định (TPB), Quá trình quyết định
của khách hàng và Mô hình các cấp độ hiệu quả. Kết
quả phân tích dữ liệu sử dụng phân tích nhân tố và
mô hình phương trình cấu trúc chỉ ra các nhân tố
Sản phẩm, Quy định pháp luật và Phong cách sống
ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới việc đánh giá và
ý định mua TPHC của người tiêu dùng.
3. Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
Nhìn chung, người tiêu dùng có thái độ tích cực
đối với việc mua các sản phẩm xanh bao gồm thực
phẩm hữu cơ, thường có xu hướng mua hàng trên
thực tế. Mối liên hệ giữa thái độ và hành vi đã được
nghiên cứu trong một số lý thuyết như Kiến thức -
Thái độ - Hành vi, lý thuyết Alphabet và Lý thuyết
mở rộng về Hành vi kế hoạch (TPB). Mô hình Kiến
Sè 129/201952
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
thức - Thái độ - Hành vi chỉ ra rằng kiến thức liên
quan đến môi trường dẫn đến thái độ môi trường và
chính điều này thúc đẩy hành vi ủng hộ môi trường
[33]. Một số nhà nghiên cứu TPB mở rộng cho rằng
thái độ ảnh hưởng đến hành vi thực tế trực tiếp và
gián tiếp thông qua ý định hành vi. Zepeda và Li phát
triển thuyết Alphabet giải thích động lực thúc đẩy
tiêu dùng TPHC thông qua việc tích hợp các yếu tố
chính của mô hình Giá trị - Niềm tin - Quy tắc
(VBN) và lý thuyết Thái độ - Hành vi - Bối cảnh
(ABC) với kiến thức và thói quen. Đặc biệt, lý thuyết
này nhấn mạnh vai trò của bối cảnh và thói quen
trong việc giải thích mối quan hệ hành vi thái độ.
Với vai trò quan trọng của thái độ trong việc thực
hiện hành vi, một số tác giả nhấn mạnh sự cần thiết
phải hiểu rõ hơn thái độ đối với TPHC [3, 14]. Các
nghiên cứu khác đặt ra câu hỏi về tầm quan trọng
của thái độ, nhấn mạnh sự cần thiết phải giải thích
lý do thái độ của người tiêu dùng không dẫn tới hành
vimua TPHC trong thực tế [5]. Mô hình nghiên cứu
(hình 1) được đề xuất được kết hợp hệ thống Hành
vi - Thái độ - Hành vi với các yếu tố bối cảnh phụ
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Nhìn chung, người tiêu dùng quan tâm đến môi
trường có xu hướng phát triển thái độ tích cực về
môi trường và sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các
sản phẩm thân thiện với môi trường và thể hiện hành
vi ủng hộ môi trường [11]. Mối quan tâm về môi
trường dường như là một trong những yếu tố chính
thúc đẩy hành vi mua TPHC, thường được coi là
hành vi thân thiện với môi trường [13].
Giả thuyết H1: Mối quan tâm về môi trường của
người tiêu dùng có tác động tích cực đến thái độ
mua TPHC của người tiêu dùng.
Ý thức về sức khỏe phản ánh suy nghĩ của cá
nhân về các vấn đề sức khỏe và sự sẵn sàng thực
hiện các hành động để đảm bảo sức khỏe của họ [2-
5]. Ý thức về sức khỏe là yếu tố chính quyết định
tiêu thụ TPHC [17]. Mặc dù Tarkiainen và
Sundqvist [11] chỉ ra rằng ý thức về sức khỏe
không liên quan đến việc dự đoán thái độ mua
TPHC, nhưng phần lớn các nghiên cứu trước đây
đã xác nhận mối quan hệ tích cực giữa các biến số
này. Điều quan trọng, Yadav và Pathak [15] khẳng
định rằng ý thức về sức khỏe là yếu tố dự báo rõ
ràng nhất về thái độ đối với TPHC. Từ đó, ta có giả
thuyết như sau:
Giả thuyết H2: Ý thức của người tiêu dùng về sức
khỏe có tác động tích cực đến thái độ của họ đối với
việc mua TPHC.
Trong bối cảnh xuất hiện liên tục các vấn đề an
toàn thực phẩm và các bệnh liên quan đến thực
phẩm, an toàn thực phẩm đã được xác định là mối
quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng.
Michaelidou và Hassan [10] khẳng định rằng mối
Nguồn: Tổng hợp và phát triển của nhóm nghiên cứu
Hình 1: Mô hình nghiên cứu
Quan tâm vӅ P{LWUѭӡng
Ý ... h cực đến thái độ của người tiêu dùng
đối với việc mua TPHC.
Các hoạt động marketing gắn với quan điểm môi
trường được gọi là “marketing xanh”, “marketing
môi trường”; bao gồm các hoạt động marketing
nhằm cố gắng giảm các tác động tiêu cực đến xã hội,
môi trường và hệ thống sản xuất hiện có, thúc đẩy
các sản phẩm và dịch vụ ít gây hại hơn [16]. Điều
này đã được công nhận rằng các hoạt động như
khuyến mãi xanh, cửa hàng xanh, dán nhãn xanh
ảnh hưởng đáng kể đến sự lựa chọn của người tiêu
dùng đối với các sản phẩm thân thiện với môi
trường [1]. Một nghiên cứu thực hiện bởi Mohd
Suki [16] cho thấy các cửa hàng thực hành tiếp thị
xanh đã góp phần nâng cao nhận thức của người tiêu
dùng về chất lượng và hình ảnh TPHC. Do đó, giả
thuyết sau đây đã được đưa ra:
Giả thuyết H8: Thực hành marketing xanh của
các cửa hàng bán lẻ có tác động tích cực đến thái
độ của người tiêu dùng đối với việc mua TPHC.
Thái độ đối với TPHC và việc hành vi mua TPHC
luôn là trọng tâm trong các nghiên cứu liên quan đến
việc mua và tiêu thụ TPHC. Thái độ của người tiêu
dùng đối với việc mua TPHC biểu thị sự đánh giá tích
cực hay tiêu cực của họ đối với việc mua TPHC. Người
tiêu dùng có thái độ tích cực đối với thực phẩm hữu cơ
tin rằng mua thực phẩm hữu cơ là thiết yếu và đó là một
sự lựa chọn tốt [14]. Sử dụng phân tích mô hình probit,
Aertsens và cộng sự [2] tìm thấy một mối quan hệ tích
cực đáng kể giữa thái độ của người tiêu dùng về tiêu thụ
TPHC và tỷ lệ TPHC được tiêu thụ bởi họ. Tương tự,
một phân tích hồi quy được thực hiện bởi Dahm và
cộng sự chỉ ra rằng những sinh viên có thái độ tích cực
đối với TPHC thực sự tiêu thụ nhiều thực phẩm hữu cơ
ở nhà, trong khuôn viên trường và tại các nhà hàng.
Giả thuyết H9: Thái độ của người tiêu dùng đối
với việc mua TPHC có tác động tích cực đến hành
vi mua TPHC của họ.
Sè 129/201954
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
4. Phát triển thang đo
Các biến quan sát được sử dụng trong mô hình
nghiên cứu đã được lựa chọn và điều chỉnh từ các
thang đo được xác nhận trong nghiên cứu trước.
Thang đo gốc bằng tiếng Anh được dịch sang tiếng
Việt bằng cách sử dụng bản dịch ngược được đề
xuất bởi Usunier (1998). Vì hầu hết các thang đo đã
được phát triển cho các thị trường phát triển, để tăng
cường tính hiệu lực của các thang đo này, đề tài sử
dụng phương pháp phỏng vấn chuyên sâu với 6
chuyên gia về lĩnh vực TPHC và 2 nhóm thảo luận
tập trung với người tiêu dùng TPHC. Kết quả phỏng
vấn chuyên sâu và thảo luận nhóm tập trung sẽ được
sử dụng để điều chỉnh các thang đo cho phù hợp với
bối cảnh Việt Nam và bổ sung các câu hỏi mới
(item). Một số biến quan sát đã được sửa đổi, điều
chỉnh và bổ sung.
Tất cả các biến quan sát, trừ hành vi mua hàng,
được đo lường bằng thang điểm Likert 7 điểm, dao
động từ 1- không đồng ý mạnh mẽ với 7- rất đồng ý.
Để đo lường hành vi mua TPHC, biến quan sát tìm
kiếm tần suất mua hàng của người trả lời đã được đề
xuất từ Dean và cộng sự (Tần suất bạn mua thịt trong
10 lần cuối cùng có phải là hữu cơ không? Có 7 loại
phản hồi, từ 1 - “Không bao giờ” và 7 - “Luôn luôn”.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp suy luận
diễn dịch (deductive approach) và nghiên cứu định
Bảng 1: Thang đo nghiên cứu
Nguồn: Tổng hợp và phát triển của nhóm nghiên cứu
STT Bieán Caùc bieán quan saùt Nguoàn
1
Quan taâm veà
moâi tröôøng
Söï caân baèng töï nhieân deã bò ñaûo loän vaø moûng manh Yadav vaø Pathak
[15] Con ngöôøi ñang khai thaùc moâi tröôøng moät caùch nghieâm troïng.
Con ngöôøi phaûi duy trì söï caân baèng vôùi thieân nhieân ñeå toàn taïi
Söï can thieäp cuûa con ngöôøi tôùi thieân nhieân thöôøng daãn ñeán haäu quaû nghieâm troïng
2
YÙ thöùc veà
söùc khoûe
Toâi choïn thöïc phaåm caån thaän ñeå baûo veä söùc khoûe Tarkiainen vaø
Sundqvist [11] Toâi nghó baûn thaân laø moät ngöôøi tieâu duøng coù yù thöùc veà söùc khoûe
Toâi thöôøng nghó caùc vaán ñeà veà söùc khoûe
3
Quan taâm veà
an toaøn
thöïc phaåm
Ngaøy nay, haàu heát thöïc phaåm ñeàu chöùa dö löôïng chaát hoùa hoïc vaø phaân boùn Michaelidou vaø
Hassan [10] Toâi ñaëc bieät quan taâm ñeán dö löôïng chaát khaùng sinh, thuoác thuù yù vaø chaát baûo quaûn
trong thòt
Toâi luoân quan taâm ñeán chaát löôïng vaø söï an toaøn cuûa thöïc phaåm ngaøy nay.
4
Kieán thöùc veà
TPHC
Toâi bieát nhieàu veà TPHC so vôùi ngöôøi thoâng thöôøng. Aertsens vaø coäng
söï [2]; Tarkiainen
vaø Sundqvist [11]
Toâi naém ñöôïc phöông thöùc ñeå ñaùnh giaù chaát löôïng cuûa TPHC
Toâi yù thöùc ñöôïc nhöõng lôïi ích veà söùc khoûe vaø moâi tröôøng maø TPHC mang laïi.
Toâi ñöôïc coi laø chuyeân gia trong lónh vöïc TPHC
5
Söï saün coù
cuûa saûn
phaåm höõu cô
Toâi luoân deã daøng tìm ñöôïc caùc saûn phaåm höõu cô taïi caùc cöûa haøng baùn leû Makatouni [9] ,
Krystallis [8] Keânh phaân phoái baùn leû TPHC khaù thuaän tieän
6 Giaù TPHC
TPHC vaãn coøn quaù ñaét Tanner vaø Kast
[13] vaø Verhoef
[14].
Giaù cuûa TPHC chính laø raøo caûn ñoái vôùi vieäc mua
Moïi ngöôøi neân mua TPHC, maëc duø noù ñaét hôn thöïc phaåm thoâng thöôøng hay mua (caâu
hoûi maõ hoùa ñaûo ngöôïc)
7
Chöùng nhaän
höõu cô
cuûa saûn
phaåm
Saûn phaåm höõu cô söû duïng nhaõn maùc ñöôïc chöùng nhaän bôûi caùc toå chöùc uy tín Deliana [5]
Caùc thoâng soá treân chöùng nhaän höõu cô roõ raøng, nhaát quaùn
Thöïc haønh
green
marketing
Cöûa haøng phaân phoái caùc tôø rôi veà thòt höõu cô. Mohd Suki [16].
Trong cöûa haøng coù khoâng gian mua saém thaân thieän vôùi moâi tröôøng.
8
Thaùi ñoä ñoái
vôùi TPHC
Mua TPHC mang laïi nhieàu lôïi ích hôn thöïc phaåm thoâng thöôøng Arvola vaø coäng sö
[1] vaø Dean vaø
coäng söï [65].
Mua TPHC laø söï löïa choïn khoân ngoan hôn thöïc phaåm thoâng thöôøng
Mua TPHC thay vì thöïc phaåm thoâng thöôøng khieán toâi caûm thaáy vui
Mua TPHC thay vì thöïc phaåm thoâng thöôøng khieán toâi caûm thaáy haøi loøng
55
Sè 129/2019
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
lượng để đạt được các mục tiêu nghiên cứu. Phương
pháp suy luận diễn dịch cho phép nhà nghiên cứu
chứng thực lý thuyết và kiểm định mối quan hệ giữa
các biến số. Theo phương pháp này, nhóm nghiên
cứu xây dựng mô hình nghiên cứu (Hình 1) và phát
triển các giả thuyết (mối quan hệ giữa các biến số
trong Hình 1) dựa trên tổng quan nghiên cứu và tích
hợp các lý thuyết liên quan tới hành vi mua của
khách hàng. Các giả thuyết nghiên cứu sẽ được kiểm
định và chứng thực bằng cách thu thập các dữ liệu
liên quan tới các biến số nghiên cứu. Trong đó, dữ
liệu sơ cấp sẽ được thu thập bằng phiếu điều tra
(bảng hỏi).
Xây dựng phiếu điều tra: Để đo lường các yếu tố
thúc đẩy, kìm hãm và thái độ trong mô hình nghiên
cứu, nghiên cứu sử dụng các thang đo đã được thực
chứng trong các nghiên cứu của các tác giả Tanner
và Kast (2003), Tarkiainen và Sundqvist (2005),
Arvola và cộng sự (2008), Michaelidou và Hassan
(2008), Dean và cộng sự (2012), Yadav và Pathak
(2016), Verhoef (2005). Nhóm nghiên cứu chủ đích
nghiên cứu hành vi mua thay vì ý định mua bởi vì
một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều người tiêu
dùng tuy có ý định mua sản phẩm hữu cơ nhưng
cuối cùng không thực hiện hành vi mua (Godin và
cộng sự, 2005).
Chọn mẫu và thu thập dữ liệu: tập trung nghiên
cứu người tiêu dùng đã từng mua TPHC gồm rau
quả và thịt hữu cơ nhằm có đánh giá chính xác nhất
về các yếu tố thúc đẩy và kìm hãm hành vi mua của
họ. Cụ thể, đối tượng nghiên cứu sẽ bao gồm: công
dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên đã mua TPHC trong
vòng 1 tháng qua. Do không tồn tại một khung mẫu
(sampling frame) bao gồm tất cả người tiêu dùng
TPHC, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp
chọn mẫu thuận tiện để tiếp cận các đối tượng
nghiên cứu, tại 2 thành phố lớn: Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh. Nhìn chung, việc chọn lựa địa bàn nghiên
cứu này là phù hợp vì người tiêu dùng ở đây lựa
chọn TPHC thường có nhận thức về môi trường, sức
khỏe, an toàn thực phẩm và sẵn lòng chấp nhận mức
giá cao của TPHC (Hughner và cộng sự, 2007).
Cỡ (kích thước) mẫu đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo tính tin cậy của nghiên cứu và
kết quả nghiên cứu có ý nghĩa. Kích thước mẫu
trong nghiên cứu định lượng thường được xác định
dựa trên các nguyên tắc thống kê hoặc theo các
nghiên cứu tương tự (Aaker, 2011). Nhóm nghiên
cứu sử dụng bảng xác định cỡ mẫu dựa trên tổng thể
nghiên cứu và độ tin cậy của Zikmund và các cộng
sự (2010). Trong nghiên cứu này kích cỡ mẫu dự
kiến là 600 (mỗi thành phố 300) để đảm bảo khoảng
tin cậy 95% với giới hạn sai số 5%.
Điều tra viên sẽ tiếp cận người tiêu dùng tại các
cửa hàng bán TPHC (được sự đồng ý của chủ cửa
hàng) tại Hà Nội và Hồ Chí Minh. Điều tra viên sử
dụng 2 câu hỏi sàng lọc để lựa chọn người tiêu dùng
đáp ứng tiêu chuẩn của đối tượng nghiên cứu.
Người tiêu dùng đồng ý tự nguyện tham gia vào
nghiên cứu được đảm bảo rằng các thông tin cá nhân
của họ sẽ được bảo mật và họ được quyền chấm dứt
việc trả lời các câu hỏi bất cứ lúc nào. Người tiêu
dùng được khuyến khích trả lời câu hỏi ngay tại các
cửa hàng với sự trợ giúp của các điều tra viên. Bên
cạnh đó, người tiêu dùng có thể lựa chọn tự mình
hoàn thiện phiếu điều tra và gửi lại cửa hàng tại lần
mua tiếp theo.
Phương pháp phân tích dữ liệu: nghiên cứu sử
dụng các phương pháp thống kê mô tả như trung
bình, độ lệch chuẩn, phần trăm để phân tích các
thông tin chung về việc tiêu dùng thịt bền vững của
người tiêu dùng cũng như đặc điểm nhân khẩu học
của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ
sử dụng phương pháp phân tích nhân tố (factor
analysis), độ tin cậy (reliability analysis) để đánh
giá tính hiệu lực của các thang đó. Để chứng thực
mô hình nghiên cứu và kiểm định các giả thuyết
nghiên cứu, mô hình phương trình cấu trúc (SEM -
Structural Equation Modelling) sẽ được sử dụng. Để
đánh giá sự khác biệt trong hành vi mua TPHC giữa
các nhóm khách hàng có đặc điểm khác nhau,
nghiên cứu sử dụng kiểm định t Test và ANOVA.
Kết luận:
Thúc đẩy tiêu thụ TPHC là điều cần thiết để đẩy
mạnh tiêu dùng bền vững, nghiên cứu này tập trung
điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của người
tiêu dùng và hành vi mua TPHC trong bối cảnh Việt
Nam. Nghiên cứu này đóng góp cho tổng quan
nghiên cứu để phát triển và xác nhận mô hình kết
hợp các yếu tố cá nhân (ví dụ như mối quan tâm đến
môi trường, ý thức về sức khỏe, quan tâm về an toàn
thực phẩm và kiến thức về TPHC) với các yếu tố bối
cảnh và môi trường (ví dụ như rào cản tiếp thị và giá
cả của cửa hàng thực phẩm) để giải thích rõ hơn
quyết định của người tiêu dùng liên quan đến TPHC.
Mô hình nghiên cứu được xác nhận trong nghiên
Sè 129/201956
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
cứu này có thể đóng vai trò là khuôn khổ cho nghiên
cứu trong tương lai ở các thị trường mới nổi khác.
Những kết quả đánh giá và kiến nghị cụ thể sẽ được
đề cập trong các bài nghiên cứu tiếp theo sau.
Tài liệu tham khảo:
1. Arvola, A., Vassallo, M., Dean, M., Lampila,
P., Saba, A., Lahteenmaki, L., & Shepherd, R.
(2008), Predicting intentions to purchase organic
food: The role of affective and moral attitudes in the
theory of planned behaviour, Appetite, 50, 443-454.
2. Aertsens, J.; Verbeke, W.; Mondelaers, K.; Van
Huylenbroeck, G. Personal determinants of organic
food consumption: A review. British Food Journal
2009, 111, 1140-1167.
3. Chen, J., Lobo, A., Rajendran, N. (2014),
Drivers of organic food purchase intentions in
mainland China - evaluating potential customers'
attitudes, demographics and segmentation, 38(4),
346-356.
4. Chinnici G, D’Amico M, Pecorino B (2002),
A multivariate statistical analysis on the consumers
of organic products, British Food Journal
104(3/4/5), 187-199.
5. Deliana, Y., (2012), Market segmentation for
organic products in Bandung West Java, Indonesia.
Res. J. Recent Sci. 1 (3), 48-56.
6. Hai, N.M., Moritaka, M., and Fukuda, S.
(2013), Willingness to Pay for Organic Vegetables
in Vietnam: An Emperical Analysis in Hanoi, J. Fac.
Agri., Kyushu Univ., 58(2): 449 - 458.
7. Hughner, R. S., McDonagh, P., Prothero, A.,
Shultz, C. J., & Stanton, J. (2007), Who are organic
food consumers? A compilation and review of why
people purchase organic food, Journal of
ConsumerBehaviour, 6, 94-110.
8. Krystallis, A. (2005), Consumers' willingness
to pay for organic food: Factors that affect it and
variation per organic product type, British Food
Journal Volume 107, Issue 5.
9. Makatouni A. (2002), What motivates con-
sumers to buy organic food in the UK? Results from
a qualitative study, British Food Journal 104(3/4/5):
345–352.
10. Michaelidou, N., & Hassan, L. M. (2008),
The role of health consciousness, food safety con-
cern and ethical identity on attitudes and intentions
towards organic food, International Journal of
ConsumerStudies, 32, 163-170.
11. Tarkiainen, A., & Sundqvist, S. (2005),
Subjective norms, attitudes and intentions of
Finnish consumers in buying organic food, British
Food Journal, 107, 808-822.
12. Tsakiridou, E., Boutsouki, C., Zotos, Y.,
Mattas, K., (2008), Attitudes and behaviour towards
organic products: an exploratory study, Int. J. Retail
Distrib. Manag. 36 (2), 158–175.
13. Tanner, C.; Kast, S.W, Promoting sustainable
consumption: Determinants of green purchases by
swiss consumers, Psychology & Marketing 2003,
20, 883-902.
14. Verhoef, P. C. (2005), Explaining purchases
of organic meat by Dutch consumers, European
Review of Agricultural Economics, 32(2), 245-267.
15. Yadav, R., & Pathak, G. S. (2016), Intention
to purchase organic food among young consumers:
Evidences from a developing nation, Appetite, 96,
122-128.
16. Zanoli, R., Scarpa, R., Napolitano, F.,
Piasentier, E. (2013), Organic label as an identifier
of environmentally related quality: A consumer
choice experiment on beef in Italy, Renewable
Agriculture and Food Systems Volume 28, Issue 1
pp. 70-79.
17. Mohd Suki, N. Determinants of consumers’
purchase intentions of organic vegetables: Some
insights from Malaysia, Journal of Food Products
Marketing 2017, 1-21.
18. Dean, M.; Raats, M.M.; Shepherd, R. The
role of self-identity, past behavior, and their interac-
tion in predicting intention to purchase fresh and
processed organic food, Journal of Applied Social
Psychology 2012, 42, 669-688.
Summary
This paper reviews the relevant studies on organ-
ic food buying behavior, focusing on studying the
integrated impact of individual factors and the con-
text of Vietnamese consumers relating to attitudes
and buying behavior of organic food. The context
depends on circumstances, including factors that
both motivate and hinder or inhibit the development
of organic food buying behavior
File đính kèm:
mo_hinh_nghien_cuu_cac_yeu_to_thuc_day_va_can_tro_hanh_vi_mu.pdf

