Một số giải pháp để phát triển văn hóa đọc sinh viên các trường đại học
Thuật ngữ văn hóa đọc đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa
hay khái niệm hoàn chỉnh và thống nhất được đưa vào trong các bộ từ điển.
Trong xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
- kỹ thuật, sách báo, tài liệu và các vật mang tin tăng theo cấp số mũ, ngày càng
phong phú, đa dạng về hình thức, do đó việc đọc ngày nay không chỉ giữ ở
phương thức đọc truyền thống (sách in), mà còn chuyển sang phương thức đọc
hiện đại (đọc trên các phương tiện nghe nhìn, thiết bị điện tử máy tính, sách điện
tử). Hiện nay, vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm, đã có nhiều học
giả, nhà khoa học nghiên cứu về đề tài này và đưa ra các khái niệm về thuật ngữ
văn hóa đọc. Theo Thạc sĩ Bùi Văn Vượng, thuật ngữ “văn hóa đọc” là đọc
sách có văn hóa, hay xây dựng một xã hội đọc sách. Tại Hội thảo “Văn hóa đọc,
thực trạng và giải pháp” tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh (2010), khái niệm
“văn hóa đọc” được lý giải theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng,
văn hóa đọc là cách ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của các nhà quản lý và các
cơ quan quản lý nhà nước; ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của cộng đồng và
ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân trong xã hội. Xét từ góc độ cá
nhân, văn hóa đọc cần hội tụ đủ 3 yếu tố là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ
năng đọc. Theo nghĩa hẹp, “văn hóa đọc” là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc
của mỗi cá nhân hình thành nên: Thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc, các
yếu tố này có mối quan hệ biện chứng cùng bổ sung, bồi đắp cho nhau. Khi cá
nhân có những ứng xử, giá trị và chuẩn mực đúng đắn, lành mạnh sẽ hình thành
thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc lành mạnh
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp để phát triển văn hóa đọc sinh viên các trường đại học
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Hiện nay, các trường đại học ở Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ và đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng lấy người học làm trung tâm, giảm thời gian lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên. Để thực hiện nhiệm vụ này, các trường đại học phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng đào tạo, trong đó vấn đề hiện đại hóa hoạt động thông tin, thư viện, phát triển văn hóa đọc được đặc biệt quan tâm vì đây là yếu tố quyết định thúc đẩy quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên. Trong bài viết này, qua phân tích thực trạng văn hóa đọc trong các trường đại học, chúng tôi đề xuất những giải pháp phát triển văn hóa đọc cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. 1. Sự cần thiết phải phát triển văn hóa đọc trong trường đại học 1.1. Văn hóa đọc Thuật ngữ văn hóa đọc đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa hay khái niệm hoàn chỉnh và thống nhất được đưa vào trong các bộ từ điển. Trong xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, sách báo, tài liệu và các vật mang tin tăng theo cấp số mũ, ngày càng phong phú, đa dạng về hình thức, do đó việc đọc ngày nay không chỉ giữ ở phương thức đọc truyền thống (sách in), mà còn chuyển sang phương thức đọc hiện đại (đọc trên các phương tiện nghe nhìn, thiết bị điện tử máy tính, sách điện tử). Hiện nay, vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm, đã có nhiều học giả, nhà khoa học nghiên cứu về đề tài này và đưa ra các khái niệm về thuật ngữ văn hóa đọc. Theo Thạc sĩ Bùi Văn Vượng, thuật ngữ “văn hóa đọc” là đọc sách có văn hóa, hay xây dựng một xã hội đọc sách. Tại Hội thảo “Văn hóa đọc, thực trạng và giải pháp” tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh (2010), khái niệm “văn hóa đọc” được lý giải theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa đọc là cách ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của các nhà quản lý và các cơ quan quản lý nhà nước; ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của cộng đồng và ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân trong xã hội. Xét từ góc độ cá nhân, văn hóa đọc cần hội tụ đủ 3 yếu tố là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Theo nghĩa hẹp, “văn hóa đọc” là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân hình thành nên: Thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc, các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng cùng bổ sung, bồi đắp cho nhau. Khi cá nhân có những ứng xử, giá trị và chuẩn mực đúng đắn, lành mạnh sẽ hình thành thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc lành mạnh. Giáo sư Chu Hảo trong Hội thảo “Sách và chấn hưng giáo dục” đã đề cập đến 3 yếu tố cấu thành nên văn hóa đọc, đó là thói quen đọc, phương pháp chọn sách và kỹ năng đọc, các yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau. Như vậy, văn hóa đọc đã vượt lên khái niệm đọc đơn thuần, nó hướng đến giá trị nghệ thuật đích thực, hướng đến các ứng xử, giá trị và chuẩn mực thẩm mỹ của cộng đồng xã hội. 1.2. Sự cần thiết phải phát triển văn hóa đọc cho sinh viên Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát triển văn hóa đọc trong nhân dân. Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã chỉ rõ: “Chăm lo phát triển nhu cầu văn hoá đọc của các tầng lớp nhân dân Tập trung củng cố và phát triển hệ thống thư viện, các loại phòng đọc, trước hết ở cơ sở”. Tại Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển văn hóa đến năm 2020 cũng đã yêu cầu: “Lấy nhiệm vụ phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm mục tiêu lựa chọn sách, xây dựng vốn tài liệu thư viện để cung cấp kịp thời cho bạn đọc. Xây dựng phong trào đọc sách trong xã hội, góp phần xây dựng có hiệu quả thế hệ đọc tương lai”. Điều lệ trường đại học ban hành theo Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ, tại điều 45 đã quy định: “Trường đại học phải có thư viện và các trung tâm thông tin tư liệu chuyên ngành phục vụ hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ. Thư viện và các trung tâm thông tin tư liệu có trách nhiệm quản lý, bổ sung và cung cấp thông tin, tư liệu khoa học và công nghệ ở trong nước và nước ngoài thuộc các lĩnh vực hoạt động của trường, thu thập và bảo quản các sách, tạp chí, băng, đĩa, các tài liệu lưu trữ, các luận văn, luận án đã bảo vệ tại trường, các ấn phẩm của trường. Thư viện và các trung tâm thông tin tư liệu chuyên ngành hoạt động theo quy chế do Hiệu trưởng ban hành”. Hệ thống thư viện, giáo trình, tài liệu là một trong những tiêu chí để đánh giá trong kiểm định chất lượng trường đại học; là điều kiện quan trọng đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy - học. Như vậy có thể thấy phát triển văn hóa đọc trong các các trường đại học là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của Đảng, Nhà nước cũng như của ngành giáo dục và đào tạo để góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Thực hiện Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2010; Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/01/2010 của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, hiện nay các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã chuyển đổi phương thức đào tạo theo niên chế sang phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Đặc điểm của đào tạo theo hệ thống tín chỉ là giảm số giờ lý thuyết và tăng số giờ thảo luận, thí nghiệm, thực hành. Giờ tự học của sinh viên tăng gấp đôi so với đào tạo theo niên chế. Triển khai tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy - học; chuyển từ cách dạy truyền thống thầy đọc - trò ghi sang tích cực hóa quá trình dạy học, trong đó giảng viên trình bày những nội dung cơ bản của học phần và hướng dẫn cho sinh viên phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Để giải quyết tốt những yêu cầu trên, đòi hỏi sinh viên cần được trang bị kiến thức sử dụng thông tin, có phương pháp đọc sách và tự nghiên cứu sách, bởi đọc sách chính là cách học tập tốt nhất, là phương tiện cần thiết và hiệu quả nhất để tạo cho mình một cơ sở học vấn vững vàng. Bên cạnh đó, giảng viên chính là người chọn lọc và định hướng cho sinh viên đến những giáo trình, tài liệu tham khảo cần thiết để mở rộng kiến thức; cần tham gia nhiều hơn đến các hoạt động thư viện như góp ý, đề xuất bổ sung tài liệu, tận dụng nguồn tài liệu, dịch vụ của thư viện, khuyến khích sinh viên sử dụng tài liệu của thư viện để đạt được những kết quả: hoàn thiện bộ sưu tập, hiểu rõ hơn về thư viện của trường, có cái nhìn mới về thư viện, sinh viên có thêm kiến thức ngoài giáo trình được quy định. 2. Thực trạng văn hóa đọc trong trường đại học 2.1. Hiện nay, hầu hết các trường đại học đã tạo môi trường đọc khá thuận lợi cho sinh viên với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đồng bộ và hiện đại. Số lượng giáo trình, sách tham khảo đa dạng về chủng loại, phong phú về nội dung đã đáp ứng cơ bản nhu cầu đọc của cán bộ và sinh viên. Nhận thức của sinh viên về vấn đề đọc sách và phát triển văn hóa đọc trong nhà trường được quan tâm. Một số trường đại học đã có nhiều hình thức hoạt động để tuyên truyền, quảng bá cho văn hóa đọc cho sinh viên, góp phần tạo thói quen mua sách, đọc sách và từng bước hình thành văn hóa đọc trong nhà trường. Tuy nhiên, một thực trạng đáng báo động trong những năm gần đây đó là xu hướng lười đọc sách, ngại đọc sách và sự “phai nhạt” thói quen đọc sách của công chúng, trong đó đáng chú ý đến giới trẻ và sinh viên. Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố ngày 12/4/2013 dựa trên báo cáo của các thư viện gửi về Bộ thì người Việt Nam đọc trung bình 0,8 cuốn sách/người/năm (tức là chưa được 1 cuốn sách). Tỷ lệ sách bình quân/ đầu người tại các thư viện công cộng là 0,38 cuốn. Theo thống kê tại một trường đại học cho thấy có 63,82% sinh viên đã có nghe nói về văn hóa đọc thông qua các phương tiện truyền thông, tuy nhiên khi được hỏi, bạn hiểu “Thế nào là văn hóa đọc?” thì chỉ có 25% sinh viên hiểu được khái niệm về văn hóa đọc, số còn lại trả lời có nghe nói đến nhưng không rõ lắm. Có 6,99 % sinh viên thích đọc sách kinh điển và 10,63% sinh viên thích đọc sách lý luận. 80,85% sinh viên đã dành thời gian cho việc đọc sách chuyên ngành, tài liệu tham khảo. 31,91% sinh viên thích đọc truyện tranh, 44,37% sinh viên thích đọc tiểu thuyết, truyện ngắn. 61,39% sinh viên thường mua thêm sách để đọc, 29,48 % không mua sách. Số lượng sinh viên sử dụng thời gian đọc sách mỗi ngày từ 30 phút trở lên là 86,32%, 1 giờ trở lên là 71,42%, 3 giờ trở lên là 12,15%. Bên cạnh việc đến thư viện để đọc sách, 55,92% sinh viên còn tìm đến các nguồn khác như đọc miễn phí tại các nhà sách, 65,04% sinh viên mượn bạn bè, 7,62% thuê sách tại các quầy sách tư nhân, đặc biệt 68,69 % sinh viên đọc sách trên mạng internet. Thế kỷ XXI với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, truyền thông, văn hóa đọc đã bị lấn át bởi sự lôi cuốn của việc sử dụng mạng internet và các phương tiện nghe, nhìn. Văn hóa đọc trong trường đại học bị suy giảm và có những thay đổi. Bên cạnh những tấm gương có ý chí phấn đấu trong học tập, ham đọc sách, nghiên cứu tài liệu và sử dụng thư viện tích cực, một trong những biểu hiện của sự hạn chế về văn hóa đọc của sinh viên là tình trạng phần lớn sinh viên chỉ học và đọc khi các kỳ thi đã tới gần, học đối phó - học để thi. Tài liệu, sách, báo, sinh viên chỉ đọc khi giảng viên yêu cầu làm tiểu luận, bài tập lớn, hay thuyết trình về một đề tài hoặc chỉ phục vụ cho kỳ thi, tức là chỉ khi bị áp chế, bắt buộc, sinh viên mới có ý thức đọc mang tính tức thời. Cách học đó khiến người học không tạo được tính chủ động tích cực trong học tập, nghiên cứu và thói quen đọc sách, mà đọc theo nhu cầu hoặc sở thích. Chính vì vậy, sinh viên trở nên thụ động trong việc đọc và nghiên cứu tài liệu, sách, báo để tìm trong đó những kiến thức phục vụ cho việc tự học và nghiên cứu khoa học. Có thể nói sự thụ động trong văn hóa đọc đã và đang làm nghèo tri thức, tâm hồn và văn hóa của sinh viên. 2.2. Mặt khác, xét về mặt đáp ứng nhu cầu đọc, có thể nói mặc dầu có sự quan tâm đầu tư của nhà nước trong những năm gần đây, hệ thống thư viện của các trường đại học hiện nay còn gặp nhiều khó khăn như: nguồn lực thông tin vẫn chưa đáp ứng với nhu cầu ngày càng đa dạng của sinh viên; chưa xây dựng được chiến lược phát triển văn hoá đọc; công tác tuyên truyền, hướng dẫn và phát động phong trào đọc sách trong sinh viên chưa thường xuyên; nhiều trường chưa xây dựng được hệ thống thư viện số để tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên đọc tài liệu. Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/1/2010 của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2010-2012 cũng đã chỉ rõ: “Thư viện các trường còn nghèo, giáo trình tài liệu chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng”. Tại Hội nghị thư viện các trường đại học, cao đẳng lần thứ nhất do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại thành phố Đà Nẵng (10/2008), đã nhận định: “Thư viện các trường đại học đang phải đối diện với nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập, những khó khăn tập trung vào: Nguồn lực thông tin còn nghèo nàn, cần được tăng cường; công nghệ phát hiện tài nguyên thông tin hiện đại, qui trình và nghiệp vụ quản lý chưa được thống nhất và chuẩn hóa; Bên cạnh đó sự phối hợp liên kết, liên thông giữa các thư viện còn yếu nên chưa tạo ra được một sức mạnh tập trung”. Qua phân tích trên, chúng ta đã có được một cái nhìn tổng quát về thực trạng của văn hóa đọc trong các trường đại học xét từ hai góc độ, người đọc và mức độ đáp ứng nhu cầu đọc tại các thư viện. Từ đó, có thể đề xuất những giải pháp để phát triển văn hóa đọc trong nhà trường đại học giai đoạn hiện nay. 3. Một số giải pháp phát triển văn hóa đọc cho sinh viên các trường đại học 3.1. Ban hành các cơ chế, chính sách cụ thể để phát triển văn hóa đọc trong nhà trường Chính phủ cần tăng cường quản lý nhà nước, tạo hành lang pháp lý cho văn hóa đọc phát triển. Tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa nói chung, phát triển hệ thống thư viện và văn hóa đọc nói riêng. Triển khai thường xuyên các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức về phát triển văn hóa đọc trong các trường đại học. Chính phủ cần thành lập một Ủy ban Quốc gia phát triển văn hóa đọc Việt Nam gồm đại diện các cơ quan quản lý nhà nước liên quan tới hoạt động thông tin - thư viện như Văn phòng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... Ủy ban có nhiệm vụ xây dựng chiến lược phát triển văn hóa đọc Việt Nam; tư vấn, tham mưu ban hành các văn bản pháp luật liên quan tới phát triển văn hóa đọc; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến văn hóa đọc. Nhà nước, các trường đại học cần có chính sách trợ giá, hỗ trợ kinh phí cho các tác giả viết giáo trình, sách tham khảo cho sinh viên; vận động các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia xây dựng và phát triển văn hóa đọc, đồng thời tài trợ cho các hoạt động phát triển văn hóa đọc như in sách, trao giải thưởng sách hàng năm, cung cấp sách cho sinh viên nghèo vượt khó 3.2. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu sách cho sinh viên hưởng ứng Ngày sách và bản quyền thế giới 23/4 hằng năm Đánh giá cao tầm quan trọng của sách và văn hóa đọc, trong kỳ họp lần thứ 28 của Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc tại Paris (từ ngày 25/10 đến ngày 16/11/1995), Tổ chức Văn hóa, Giáo dục, Khoa học của Liên Hiệp quốc (UNESCO) đã quyết định chọn ngày 23/4 hàng năm làm “Ngày sách và bản quyền thế giới” (World Book and Copyright Day) với ý nghĩa, đó là ngày tôn vinh những giá trị của sách và sự đóng góp của các tác giả cho sự ra đời những tác phẩm bất hủ. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định chọn ngày 23/4 hàng năm làm Ngày hội sách và văn hóa đọc Việt Nam, nhằm khuyến khích, đưa phong trào đọc sách, báo trở thành thành nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Vì vậy, các trường đại học cần tổ chức nhiều hoạt động hưởng ứng nhân ngày 23/4 hằng năm để lôi cuốn, thu hút sinh viên. Đó có thể là các hoạt động như: triển lãm sách, báo, tạp chí; tổ chức hội nghị bạn đọc; thi đọc sách, thuyết trình, giới thiệu về sách; phối hợp với các nhà xuất bản, nhà sách tặng sách và bán sách trợ giá, giảm giá cho sinh viên 3.3. Hướng dẫn và tạo điều kiện cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu có hiệu quả thông qua việc đọc sách Để thực hiện đổi mới phương pháp dạy - học, mỗi giảng viên phải xây dựng và hình thành thói quen đọc cho sinh viên; giảm thời lượng dạy học, yêu cầu sinh viên phải đọc giáo trình, tài liệu tham khảo để bổ sung, tích lũy kiến thức. Các trường đại học bố trí kế hoạch và yêu cầu thư viện thực hiện chương trình hướng dẫn kỹ năng đọc sách, tra cứu thông tin và sử dụng thư viện cho sinh viên vào đầu năm học; giảng viên thực hiện nội dung này thông qua các học phần trong chương trình đào tạo. Qua đó giúp sinh viên biết lựa chọn nội dung cần đọc; biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân; biết tiếp thu nội dung đã đọc; biết vận dụng các kỹ thuật đọc như ghi chép, tóm tắt nội dung; biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đọc. Thư viện các trường đại học cần tổ chức các hoạt động tuyên truyền để cho sinh viên các khóa học ngay khi vào trường những nội dung liên quan đến hoạt động của thư viện và văn hóa đọc trong nhà trường như: hệ thống dữ liệu của thư viện bao gồm sách truyền thống và sách điện tử; phương pháp đọc sách hiệu quả; phương pháp tra cứu tài liệu 3.4. Hình thành hệ thống thư viện điện tử kết nối các trường đại học trên để phục vụ nhu cầu đọc sách đa dạng của sinh viên Hiện tại, dù đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu sách, giáo trình cho cán bộ và sinh viên, nhưng việc phát triển nguồn lực thông tin, hoạt động chia sẻ nguồn lực thông tin trong hệ thống thư viện các trường đại học vẫn chưa đủ mạnh, số lượng và chất lượng nguồn tin trao đổi thấp, do hoạt động còn manh mún, tùy tiện, việc phối hợp, liên kết vẫn mang nặng tính hình thức, kém hiệu quả, thiếu phương pháp, chính sách phát triển khoa học, nhất quán. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chỉ đạo để hình thành hệ thống thư viện điện tử kết nối giữa các trường đại học trong các khu vực và cả nước cũng như xây dựng thư viện của 16 trường đại học được đầu tư xây dựng trường trọng điểm quốc gia thành thư viện trung tâm để liên kết hoạt động, thực hiện chia sẻ nguồn lực, nhằm tăng cường nguồn tài nguyên thông tin đáp ứng nhu cầu đọc ngày càng cao của người dạy và người học. Một mặt, giúp tăng cường khả năng đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đọc sách, tra cứu tài liệu của sinh viên, khắc phục sự thiếu hụt về giáo trình, tài liệu, nguồn thông tin khoa học, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo. Mặt khác, phát huy tính hiệu quả, tiết kiệm kinh phí trong đầu tư phát triển nguồn lực thông tin, hướng tới sự đầu tư tập trung, tránh đầu tư dàn trải, trùng lặp. 3.5. Quan tâm đầu tư trang, thiết bị, sách, giáo trình, tài liệu tham khảo cho hệ thống thư viện Hiện nay, thư viện các trường đại học đang đứng trước vấn đề hết sức khó khăn trong lựa chọn, bổ sung sách, giáo trình do mâu thuẫn không thể tự giải quyết giữa kinh phí hoạt động được cấp còn eo hẹp với nguồn tài nguyên thông tin trong và ngoài nước ngày càng có xu hướng tăng nhanh hàng năm. Quyết định số 10/2007/QĐ-BVHTT ngày 04/5/2007 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã yêu cầu: “Hết sức coi trọng vị trí thư viện trường đại học trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học; nâng cấp thư viện các trường đại học; xây dựng mới, tu bổ lại trụ sở thư viện, tạo cho các thư viện hiện đại về cơ sở vật chất và trang thiết bị; phong phú về tài liệu. Xây dựng một hệ thống thư viện đại học mạnh, phát triển theo hướng hiện đại, thư viện điện tử, thư viện số. Có khả năng đáp ứng các nhu cầu thông tin của người sử dụng một cách dễ dàng, nhanh chóng”. Vì vậy, các trường đại học cần được Nhà nước và các bộ, ban, ngành liên quan cấp kinh phí để đầu tư trang, thiết bị, sách, giáo trình, tài liệu để phục vụ nhu cầu học tập, tra cứu của giảng viên và sinh viên với những nội dung cụ thể như: Ứng dụng các nghiệp vụ thư viện hiện đại vào tổ chức và quản lý kho tài liệu theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa phù hợp với xu thế chung của ngành Thư viện Việt Nam và thế giới. Không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng sách, giáo trình, tài liệu tham khảo. Xây dựng cơ sở dữ liệu số, các bộ sưu tập số phục vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đầu tư xây dựng các phòng đọc sách chất lượng cao có kết nối hệ thống internet, mở cửa thông tầm, kể cả thứ bảy và chủ nhật để phục vụ sinh viên đọc và tra cứu thông tin. Nói tóm lại, việc phát triển văn hóa đọc cho sinh viên trong các trường đại học chính là một trong những hoạt động, điều kiện quan trọng để đổi mới phương pháp dạy - học, giúp cho các giảng viên, sinh viên đến với sách, hình thành thói quen đọc sách, tạo nền tảng quan trọng cho việc tự học, học tập suốt đời của mỗi người, góp phần xây dựng xã hội học tập - một trong những mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Vũ Duy Hiệp (Bài trích từ website Thư viện, Học Viện Tài chánh)
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_de_phat_trien_van_hoa_doc_sinh_vien_cac_tru.pdf