Nghiên cứu ảnh hưởng của Ion sắt (III) đến sự thủy phân của một số Ion kim loại nặng trong mỏ đồng sinh quyền
TÓM TẮT
Ảnh hưởng của pH và ion Fe3+ đến sự thủy phân của một số các ion kim loại
như Ni2+, Mn2+, Co2+ và Cd2+ trong vùng mỏ đồng Sinh Quyền đã được nghiên cứu.
Kết quả cho thấy khi pH tăng và nồng độ ion sắt tăng, nồng độ các ion kim loại nặng,
sẽ bị giảm dẫn đến giảm khả năng vận chuyển và phát tán của các ion kim loại này
vào môi trường.
Từ khóa: Ion kim loại nặng, sự thủy phân, pH.
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ảnh hưởng của Ion sắt (III) đến sự thủy phân của một số Ion kim loại nặng trong mỏ đồng sinh quyền", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ảnh hưởng của Ion sắt (III) đến sự thủy phân của một số Ion kim loại nặng trong mỏ đồng sinh quyền
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 51 NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ION SẮT (III) ĐẾN SỰ THỦY PHÂN CỦA MỘT SỐ ION KIM LOẠI NẶNG TRONG MỎ ĐỒNG SINH QUYỀN Vũ Thị Hà Mai1, Vũ Văn Tùng2 TÓM TẮT Ảnh hưởng của pH và ion Fe3+ đến sự thủy phân của một số các ion kim loại như Ni2+, Mn2+, Co2+ và Cd2+ trong vùng mỏ đồng Sinh Quyền đã được nghiên cứu. Kết quả cho thấy khi pH tăng và nồng độ ion sắt tăng, nồng độ các ion kim loại nặng, sẽ bị giảm dẫn đến giảm khả năng vận chuyển và phát tán của các ion kim loại này vào môi trường. Từ khóa: Ion kim loại nặng, sự thủy phân, pH. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Kim loại nặng có hầu hết trong các mỏ khoáng sản với hàm lƣợng khác nhau, tuỳ thuộc vào từng loại khoáng sản và từng vùng địa chất khác nhau. Mỏ đồng Sinh Quyền - Lào Cai có trữ lƣợng gần 100 triệu tấn quặng [6], là nguồn lợi cho rất nhiều nhà đầu tƣ trong việc khai thác. Tuy nhiên, các quy trình khai thác phần lớn theo thủ công, chƣa đảm bảo các quy định về bảo vệ môi trƣờng nên sau khi lấy đƣợc phần quặng giàu và các kim loại cần khai thác thì bỏ đi toàn bộ phần quặng nghèo và khoáng sản đi cùng. Các kim loại nặng có trong quặng, dƣới tác dụng của quá trình phong hóa tự nhiên sẽ bị rò rỉ, thủy phân, hòa tan hoặc kết tủa để vận chuyển hoặc tồn lƣu, có ảnh hƣởng to lớn đến môi trƣờng sinh thái tại địa phƣơng, ảnh hƣởng đến sức khỏe của con ngƣời và động thực vật. Các nghiên cứu của nhiều tác giả chỉ ra rằng con đƣờng phát tán chủ yếu của các chất độc hại từ các bãi thải là qua môi trƣờng nƣớc. Khác với các chất gây ô nhiễm hữu cơ, các kim loại không thể tự phân hủy cũng không thể tự biến mất. Chúng có khả năng di chuyển theo các dòng nƣớc nhƣng trong những điều kiện thích hợp nhất định sẽ lắng đọng và tồn lƣu. Hydroxyt sắt (Fe(OH)3) có tích số tan khá bé, dễ tạo thành ở pH thấp, sắt (III) hidroxit là chất không tan ở dạng keo, có khả năng hấp phụ mạnh các ion nên khi có mặt ion sắt, sự thủy phân và tồn lƣu của các ion kim loại nặng bị ảnh hƣởng đáng kể. 1 ThS. Chuyên viên phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ, trường Đại học Hồng Đức 2 ThS. Giảng viên Khoa Khoa học Tự nhiên, trường Đại học Hồng Đức TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 52 Tuy nhiên, khi nồng độ pH thay đổi thấp thì các kim loại bị giải hấp, hoặc khi có các ion cạnh tranh cùng hấp phụ lên keo sắt thì lƣợng kim loại bị hấp phụ giảm và tiếp tục di chuyển trong đất theo mạch nƣớc ngầm, tiếp tục phát tán vào môi trƣờng. Do vậy, nghiên cứu ảnh hƣởng của pH và sự có mặt của ion Fe3+ đến khả năng thủy phân, đồng thời kết tủa hoặc hấp phụ trên bề mặt keo sắt của các ion kim loại nặng trong môi trƣờng nƣớc ở bãi thải quặng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với môi trƣờng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion sắt đến sự thủy phân và tồn lƣu của các ion kim loại nặng chính có trong quặng đồng Sinh Quyền là hết sức cấp thiết. 2. THỰC NGHIỆM 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu Các mẫu đuôi quặng và bùn thải lấy từ khu mỏ đồng Sinh Quyền đƣợc đem phân tích để xác định hàm lƣợng các kim loại nặng chính có trong quặng. Các dung dịch mẫu chứa ion kim loại nặng tƣơng tự trong quặng và ion Fe3+ với nồng độ thay đổi từ 10 ppm - 100 ppm, tại các giá trị pH khác nhau, biến thiên từ 3 † 11. 2.2. Nội dung Nghiên cứu ảnh hƣởng của nồng độ ion Fe3+ đến sự thủy phân của các ion niken, coban, cadimi và mangan, ta tiến hành nhƣ sau: Chuẩn bị các mẫu Fe3+ có nồng độ 10 ; 20 ; 50 ; 100 mg/l bằng cách dùng pipet hút lần lƣợt 1ml, 2ml, 5ml và 10ml dung dịch chuẩn Fe3+ vào các bình định mức 100ml; đồng thời thêm một lƣợng nhƣ nhau 1ml dung dịch Ni2+ vào các bình. Dùng nƣớc cất để định mức và lắc đều, ta thu đƣợc các dung dịch có nồng độ ion Ni2+ là 10 mg/l và nồng độ ion Fe3+ biến thiên từ 10 đến 100 mg/l. Thêm HNO3 hoặc NaOH nƣớc cất vào cốc và dùng bút đo pH để điều chỉnh pH trong khoảng 3.0 đến 11.0; sau đó để ổn định trong vòng 30 phút rồi lọc lấy dung dịch đem đi phân tích ICP-MS để xác định hàm lƣợng Ni2+ còn lại. Các nghiên cứu với Mn2+, Co3+, Cd 2+ ta tiến hành giống nhƣ với Ni2+, riêng với Mn 2+, để định mức 100 ml dung dịch, thay vì sử dụng nƣớc cất, ta dùng dung dịch Na2SO3 ngăn quá trình oxi hóa ion Mn 2+ thành Mn(OH)3 hoặc MnO2. 2.3. Phƣơng pháp Nhóm phƣơng pháp mô hình hóa và thử nghiệm: Xây dựng các mô hình lý thuyết tƣơng tự trong điều kiện có ảnh hƣởng đến sự thủy phân và tồn lƣu của các kim loại nặng chính trong quặng đồng. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 53 Nhóm phƣơng pháp phân tích: Xác định hàm lƣợng kim loại nặng còn lại trong mẫu thí nghiệm bằng phƣơng pháp phổ khối plasma (ICP-MS), phổ hấp thụ nguyên tử (AAS). 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Ni2+ Qua nghiên cứu ảnh hƣởng của ion Fe3+đối với sự thủy phân của Ni2+ bằng cách lấy nồng độ ion Ni2+ ban đầu bằng 10 ppm, giá trị pH thay đổi từ 3 - 11, nồng độ ion Fe 3+ thêm vào tại mỗi giá trị pH là 10 ppm, 20 ppm, 50 ppm, 100 ppm, ta thu đƣợc kết quả nhƣ sau: Bảng 1. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+đối với sự thủy phân của Ni2+ pH CFe (ppm) 3 4 5 6 7 8 9 10 11 10 6,835 6,065 5,229 4,215 3,085 1,527 0,166 0,077 0,012 20 6,605 5,889 5,098 4,122 2,888 1,368 0,161 0,099 0,033 50 6,592 5,821 5,022 3,545 1,619 0,565 0,122 0,102 0,046 100 6,237 5,788 4,85 3,229 1,338 0,466 0,115 0,112 0,065 Hình 1. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Ni2+ Từ kết quả thu đƣợc, ta thấy trong khoảng pH = 3 - 9, khi pH tăng dần nồng độ ion Ni 2+ trong dung dịch giảm dần, và cũng trong khoảng pH này, khi nồng độ ion Fe3+ tăng thì quá trình thủy phân của sắt xảy ra mạnh hơn làm nồng độ kết tủa Fe(OH)3 tăng, nó sẽ hấp phụ các ion Ni2+ trong dung dịch làm nồng độ ion Ni2+ cũng giảm dần. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 54 Ta thấy rõ ràng nhất trong khoảng pH = 6 - 8, khi nồng độ ion Fe3+ là 50 - 100 ppm, nồng độ ion Ni2+ giảm nhanh nhất bởi ngoài lƣợng Ni2+ bị hấp phụ, khi dung dịch có môi trƣờng bazơ, ion Ni2+ bị thủy phân và tách ra dƣới dạng kết tủa một lƣợng khá lớn làm nồng độ ion này giảm mạnh. Khi pH > 9, nồng độ ion Ni2+ còn lại trong dung dịch thấp nên khi tăng pH hay nồng độ ion Fe3+ thì nồng độ ion Ni2+ giảm không đáng kể. 3.2. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Mn2+ Thí nghiệm đƣợc tiến hành với riêng ion Mn2+, nồng độ ban đầu của ion Mn2+ là 10 ppm, nồng độ ion Fe3+ thay đổi từ 10 ppm, 20 ppm, 50 ppm và 100 ppm với pH biến thiên từ 3 đến 11, chúng tôi thu đƣợc kết quả thể hiện ở bảng 2 và hình 2. Bảng 2. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Mn2+ pH CFe (ppm) 3 4 5 6 7 8 9 10 11 10 3,925 3,829 3,745 3,686 3,526 2,943 1,863 0,316 0,003 20 3,889 3,789 3,69 3,552 3,317 2,776 1,452 0,206 0,003 50 3,874 3,788 3,628 3,397 3,055 2,254 1,043 0,202 0,002 100 3,858 3,732 3,53 3,132 2,425 1,675 0,801 0,112 0,001 Hình 2. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Mn2+ Ta nhận thấy, khi có mặt ion Fe3+ trong dung dịch, nồng độ ion Mn2+ trong dung dịch giảm mạnh, có thể giảm còn 0,003 ppm tại pH = 11 khi có mặt ion Fe3+, bé hơn nhiều so với không có mặt ion Fe3+ trong cùng điều kiện ([Mn2+] = 6,233 ppm). TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 55 Nồng độ ion Mn2+ giảm nhiều nhất trong khoảng từ pH = 6 – 10 bởi khi môi trƣờng có tính bazơ, ion Fe3+ thủy phân khá mạnh tạo hidroxit không tan. Tuy nhiên, Mn(OH)2 có tích số tan tƣơng đối lớn nên ít bị thủy phân, vì vậy chủ yếu các ion Mn 2+ bị hấp phụ trong kết tủa Fe(OH)3 là nồng độ mangan trong dung dịch giảm đi đáng kể. Khi pH > 10, nồng độ ion Mn2+ trong dung dịch ít giảm hơn bởi một lƣợng lớn ion Mn 2+ đã bị thủy phân và hấp phụ trƣớc đó (tại pH = 10, [Fe3+] = 10 ppm thì nồng độ ion Mn2+ còn lại chỉ có 0,316 ppm). 3.3. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Cd2+ Với nồng độ của ion Cd2+ là 10 ppm, khi thêm lần lƣợt nồng độ ion Fe3+ là 10 ppm, 20 ppm, 50 ppm và 100 ppm vào dung dịch Cd2+ và thay đổi pH từ 3 đến 11, ta thấy đƣợc sự thay đổi nồng độ ion Cd2+ thể hiện qua bảng sau: Bảng 3. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Cd2+ pH CFe (ppm) 3 4 5 6 7 8 9 10 11 10 6,221 4,564 3,177 1,961 0,852 0,264 0,04 0,015 0,01 20 6,213 4,456 2,898 1,689 0,668 0,202 0,041 0,012 0,01 50 6,201 4,223 2,676 1,362 0,551 0,101 0,046 0,01 0,009 100 6,126 3,954 2,347 1,007 0,22 0,039 0,025 0,007 0,007 Hình 3. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Cd2+ Qua đồ thị ta nhận thấy rằng, trong khi pH tăng dần từ pH = 3 đến pH = 8, nồng độ ion Cd2+ trong dung dịch giảm dần, và cũng trong khoảng pH này, khi nồng độ ion Fe 3+ tăng thì quá trình thủy phân của ion Fe3+ xảy ra mạnh hơn làm nồng độ kết tủa TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 56 Fe(OH)3 tăng. Trong quá trình kết tủa này lắng xuống, nó sẽ hấp phụ các ion Cd 2+ trong dung dịch làm nồng độ ion Cd2+ cũng giảm dần. Khi pH > 8, ion Cd 2+ đã bị thủy phân trong khoảng pH trƣớc đó và Fe(OH)3 do ion Fe 3+ thủy phân đã cộng kết với lƣợng Cd(OH)2 tạo thành lắng xuống. Nồng độ ion Cd 2+ còn lại trong dung dịch thấp nên khi tăng pH hay nồng độ ion Fe3+ thì nồng độ ion Cd 2+ giảm không đáng kể. 3.4. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Co2+ Khảo sát sự ảnh hƣởng của nồng độ ion Fe3+ từ 10 ppm, 20 ppm, 50 ppm và 100 ppm tại các giá trị pH = 3 † 11 đến sự thủy phân của ion Co2+ trong dung dịch với nồng độ ion Co 2+ ban đầu là 10 ppm, ta thu đƣợc kết quả nhƣ sau: Bảng 4. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Co2+ pH CFe (ppm) 3 4 5 6 7 8 9 10 11 10 7,012 6,512 5,84 4,824 3,264 0,543 0,195 0,148 0,175 20 6,718 6,333 5,667 4,533 2,899 0,452 0,188 0,172 0,159 50 6,666 6,232 5,237 3,644 1,947 0,342 0,16 0,156 0,156 100 6,342 5,91 4,682 3,055 1,347 0,23 0,164 0,156 0,156 Hình 4. Ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đối với sự thủy phân của Co2+ Qua đồ thị ta nhận thấy rằng, trong khoảng pH = 3 - 8, khi pH tăng dần nồng độ ion Co 2+ trong dung dịch giảm dần, và cũng trong khoảng pH này, khi nồng độ ion Fe3+ tăng thì quá trình thủy phân của ion Fe3+ xảy ra mạnh hơn làm nồng độ kết tủa Fe(OH)3 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 57 tăng. Trong quá trình kết tủa này lắng xuống, nó sẽ hấp phụ các ion Co2+ trong dung dịch làm nồng độ ion Co2+ cũng giảm dần. Trong khoảng pH trƣớc đó, ion Co2+ đã thủy phân và Fe(OH)3 do ion Fe 3+ thủy phân đã cộng kết với lƣợng Co(OH)2 tạo thành lắng xuống. Nồng độ ion Co 2+ còn lại trong dung dịch thấp nên khi tăng pH hay nồng độ ion Fe3+ thì nồng độ ion Co2+ giảm rất chậm. 4. KẾT LUẬN Bằng việc nghiên cứu ảnh hƣởng của pH và nồng độ ion Fe3+ đến sự thủy phân của một số ion kim loại nặng nhƣ Mn2+, Co2+, Cd 2+ có trong thành phần của quặng tại mỏ đồng Sinh Quyền , chúng tôi rút ra các kết luận sau: Khi pH tăng dần thì quá trình thủy phân của các kim loại xảy ra nhanh hơn. Việc tăng nồng độ ion Fe3+ có ảnh hƣởng đáng kể đến sự thủy phân của các ion kim loại nặng do khả năng hấp phụ các ion kim loại trong dung dịch của kết tủa Fe(OH)3 dạng keo, và khả năng cộng kết của nó với các hidroxit kim loại nặng không tan do thủy phân khi pH tăng dần. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đỗ Thị Vân Thanh - Trịnh Hân (2011), Khoáng vật học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. [2] Đào Thị Phƣơng Diệp, Đỗ Văn Huê (2007), Giáo trình hóa học phân tích, Nxb. Đại học Sƣ phạm. [3] Lâm Ngọc Thụ (2005), Cơ sở Hóa học phân tích, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. [4] Nguyễn Tinh Dung (1998), Hóa học phân tích II, Các phản ứng ion trong dung dịch nước, Nxb. Giáo dục. [5] Phạm Ngọc Hồ - Đồng Kim Loan - Trịnh Thị Thanh (2010), Giáo trình cơ sở môi trường nước, Nxb. Giáo dục. [6] Phạm Tích Xuân (2011), Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của các bãi thải khai thác và chế biến khoáng sản kim loại đến môi trường và sức khỏe con người và đề xuất biện pháp giảm thiểu, Chƣơng trình KHCN cấp nhà nƣớc, Bộ Khoa học và Công nghệ. [7] Robert A. Alberty (1968), Effect of pH and metal ion concentration on the Equilibrium hydrolysis of adenosine triphosphate to adenosine diphosphate, The journal of Biological chemistry 243, 1337 - 1343. [8] Moran, J.M, Morgan, M.D and Wiersma, J.H (1980), Introduction to environmental science, W.H.Freeman Company, Sanfrancisco. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 24. 2015 58 [9] Paul Leslie Brown (1984), Studies on the hydrolysis of metal ions, University of Wollongong. THE RESEARCH ON THE EFFECTS OF IRON (III) IONS ON HYDROLYSIS AND REMNAT CAPABILITY OF SOME HEAVY METALS IN SINH QUYEN COPPER MINE Vu Thi Ha Mai, Vu Van Tung ABSTRACT The effects of ion Fe 3+ ion and pH to the hydrolysis of some metal ions such as Ni 2+ , Mn 2+ , Co 2+ and Cd 2+ in Sinh Quyen copper mining areas has been studied. The results showed that when the pH increases and the concentration of iron ions increases, the concentration of heavy metal ions will be reduced, with leads to the reduction of transportation and dispersion of these metal ions into the environment. Key words: Heavy metal ions, hydrolysis, pH.
File đính kèm:
- nghien_cuu_anh_huong_cua_ion_sat_iii_den_su_thuy_phan_cua_mo.pdf