Phân tích hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2011-2016

Tóm tắt

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích đường biên dữ liệu (Data Envelopment

Analysis) để đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM CP Việt Nam cho giai

đoạn 2011-2016. Tác giả đã sử dụng dữ liệu thứ cấp được tổng hợp từ báo cáo thường

niên của 23 NHTM CP giai đoạn 2011-2016 để ước lượng hiệu quả hoạt động của hệ

thống ngân hàng bao gồm hiệu quả kỹ thuật theo cả hai phương pháp DEA-CRS (hiệu

quả kỹ thuật không đổi theo quy mô) và DEA-VRS (hiệu quả kỹ thuật thay đổi theo quy

mô), hiệu quả quy mô (Scale Efficiency), hiệu quả phân bổ (Allocation Efficiency) và hiệu

quả hoạt động chung (hiệu quả chi phí). Kết quả ước lượng cho thấy trong giai đoạn

nghiên cứu, hiệu quả kỹ thuật trung bình hệ thống đạt 81.7%, trong đó hiệu quả kỹ thuật

thuần túy của ngân hàng đóng góp vào hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng lớn hơn so với

các nhân tố phản ánh quy mô hoạt động. Chỉ số hiệu quả chi phí (CE) trong nghiên cứu

có kết quả tăng dần qua giai đoạn 5 năm, từ 52.84% năm 2011 lên 70.61% năm 2016.

Hiệu quả chi phí tăng được đánh giá là nhờ các ngân hàng có hiệu quả phân bổ tăng dần

trong các năm và tăng nhanh hơn so với hiệu quả kỹ thuật. Tuy nhiên, chỉ số CE trung

bình toàn giai đoạn là 64.41% cho thấy mặc dù các ngân hàng đã ngày càng tối thiểu

hóa được các chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra nhưng việc sử dụng các nguồn

lực đầu vào lại chưa thực sự hiệu quả và do đó, chỉ số hiệu quả chi phí này chỉ đạt được

ở mức trung bình.

Từ khóa: ngân hàng thương mại, hiệu quả hoạt động, DEA, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả

chi phí

pdf 17 trang Bích Ngọc 08/01/2024 240
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2011-2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2011-2016

Phân tích hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2011-2016
1 
Mã số: 442 
Ngày nhận: 29/9/2017 
Ngày gửi phản biện lần 1: /9 /2017 
Ngày gửi phản biện lần 2: 
Ngày hoàn thành biên tập: 20/2/2018 
Ngày duyệt đăng: 26/2/2018 
Phân tích hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt 
Nam giai đoạn 2011-2016 
Nguyễn Thị Hà Thanh1 
Lê Hoàng Việt2 
Tóm tắt 
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích đường biên dữ liệu (Data Envelopment 
Analysis) để đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM CP Việt Nam cho giai 
đoạn 2011-2016. Tác giả đã sử dụng dữ liệu thứ cấp được tổng hợp từ báo cáo thường 
niên của 23 NHTM CP giai đoạn 2011-2016 để ước lượng hiệu quả hoạt động của hệ 
thống ngân hàng bao gồm hiệu quả kỹ thuật theo cả hai phương pháp DEA-CRS (hiệu 
quả kỹ thuật không đổi theo quy mô) và DEA-VRS (hiệu quả kỹ thuật thay đổi theo quy 
mô), hiệu quả quy mô (Scale Efficiency), hiệu quả phân bổ (Allocation Efficiency) và hiệu 
quả hoạt động chung (hiệu quả chi phí). Kết quả ước lượng cho thấy trong giai đoạn 
nghiên cứu, hiệu quả kỹ thuật trung bình hệ thống đạt 81.7%, trong đó hiệu quả kỹ thuật 
thuần túy của ngân hàng đóng góp vào hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng lớn hơn so với 
các nhân tố phản ánh quy mô hoạt động. Chỉ số hiệu quả chi phí (CE) trong nghiên cứu 
có kết quả tăng dần qua giai đoạn 5 năm, từ 52.84% năm 2011 lên 70.61% năm 2016. 
Hiệu quả chi phí tăng được đánh giá là nhờ các ngân hàng có hiệu quả phân bổ tăng dần 
trong các năm và tăng nhanh hơn so với hiệu quả kỹ thuật. Tuy nhiên, chỉ số CE trung 
bình toàn giai đoạn là 64.41% cho thấy mặc dù các ngân hàng đã ngày càng tối thiểu 
hóa được các chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra nhưng việc sử dụng các nguồn 
lực đầu vào lại chưa thực sự hiệu quả và do đó, chỉ số hiệu quả chi phí này chỉ đạt được 
ở mức trung bình. 
1
 Trường Đại học Ngoại thương, Email: hathanhnt@gmail.com 
2
 AIA Việt Nam, Email: lehoangvietviet@gmail.com 
2 
Từ khóa: ngân hàng thương mại, hiệu quả hoạt động, DEA, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả 
chi phí 
Abstract 
This paper uses the Data Envelopment Analysis method to assess the performance of the 
commercial banking system in Vietnam in the period 2011-2016. The authors used 
secondary data compiled from the annual report of 23 commercial banks in the period 
2011-2016 to estimate the technical efficiency of both DEA-CRS methods and DEA-VRS 
scale efficiency, total efficiency and overall banking efficiency. Estimated results show 
that in the research period, the average technical efficiency of the system was 81.7%, in 
which average technical efficiency of the bank contributed to the technical efficiency of 
the bank larger than the factors that reflect the scale of activity. The cost efficiency ratio 
(CE) in the study has progressively increased over the five-year period, from 52.84% in 
2011 to 70.61% in 2016. Increased cost efficiency is attributed to effective banks 
increased allocation efficiency over the years and increased faster than technical 
efficiency. However, the overall average CE of 64.41% shows that although banks have 
increasingly minimized the input costs to create an output unit, the use of inputs is not 
really effective and therefore, the cost-effectiveness index is only at average level. 
Key words: commercial banks, operating efficiency, DEA, technical efficiency, cost 
efficiency 
1. Giới thiệu 
Với tỷ lệ chiếm trên 70% tổng tài sản khu vực tài chính, ngân hàng là một trong những 
định chế tài chính then chốt, có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của toàn bộ nền 
kinh tế. Do đó, hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn được chính phủ các nước đặc biệt 
quan tâm và giám sát chặt chẽ. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu 
như hiện nay thì cùng với việc vươn ra thị trường thế giới, Việt Nam cũng phải mở cửa 
thị trường trong nước, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân hàng. Tuy nhiên, một thực 
trạng hiện nay có thể nhận thấy rõ rệt là mặc dù có lợi thế về địa lý và khả năng tiếp cận 
khách hàng nhưng năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn hạn chế, hiệu quả 
phân bổ nguồn lực đầu vào chưa cao trong khi các ngân hàng nước ngoài lại có được lợi 
thế về tài chính, về quy mô cũng như kinh nghiệm nên các NHTM Việt Nam sẽ gặp 
nhiều khó khăn để có thể giữ được thị phần và phát triển bền vững.. 
Trải qua 3 lần tái cơ cấu hệ thống vào các giai đoạn 1998-2003, 2005-2008 và 2011-2015 
thì hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tạo ra những thay đổi về số lượng, quy mô và chất 
lượng. Một trong những nguyên nhân chính của quá trình tái cơ cấu này là do hiệu quả 
hoạt động của các NHTM Việt Nam còn thấp do sự phân bổ các nguồn lực chưa hợp lý 
và vì thế, việc mua lại và sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam là giải pháp nhằm khắc phục 
những mắt xích yếu kém để lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Đặc biệt gần đây nhất 
quá trình tái cơ cấu lần 3 với trọng tâm là nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMCP 
bằng cách xử lý các ngân hàng yếu kém, thanh lý nợ xấu và tăng thanh khoản toàn ngành 
đạt được những kết quả bước đầu khả quan. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng thực tế vẫn 
3 
còn nhiều bất ổn và trước áp lực cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì các ngân hàng sẽ 
luôn phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình 
Phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để 
biết được điểm mạnh điểm yếu của riêng từng ngân hàng và của cả hệ thống ngân hàng 
nói chung. Phân tích chính xác sẽ hạn chế rủi ro, đảm bảo hoạt động vững chắc cho ngân 
hàng, từ đó mang lại lợi ích cho cả nền kinh tế. Hơn nữa thông qua việc phân tích đánh 
giá, có thể biết được những ngân hàng nào đang hoạt động hiệu quả để từ đó rút ra bài 
học kinh nghiệm cho các ngân hàng khác cùng hệ thống. 
Xuất phát từ các vấn đề trên, tác giả nhận thấy sự cấp thiết của việc đánh giá được chính 
xác hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam, nguyên nhân của những yếu kém còn 
tồn tại trong hoạt động của các ngân hàng giai đoạn 2011-2016 để từ đó đưa ra được các 
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam 
2. Cơ sở nghiên cứu 
2.1. Cơ sở lý thuyết 
Hiệu quả hoạt động ngân hàng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả và chi phí thông qua 
sự phân bổ và kết hợp các nguồn lực trong ngân hàng. Hiệu quả hoạt động ngân hàng 
được chia thành 2 nhóm là hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Trong đó, hiệu quả 
tuyệt đối được tính bằng sự chênh lệch giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được 
kết quả đó. Tuy nhiên chỉ tiêu hiệu quả này chỉ phù hợp với việc đánh giá khả năng của 
một ngân hàng đơn lẻ khi so sánh hiệu quả qua từng giai đoạn mà không thể đánh giá, so 
sánh được giữa các ngân hàng với nhau. Nhóm thứ hai là hiệu quả tương đối được xem 
xét dưới dạng chỉ số giữa kết quả đạt được trên chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó hoặc 
dạng nghịch đảo xem xét chi phí trên kết quả đạt được. Do đó, hiệu quả tương đối phù 
hợp sử dụng để so sánh hiệu quả giữa các ngân hàng có quy mô và thời kỳ khác nhau. 
Phương pháp phân tích đường biên dữ liệu DEA (Data Envelopment Analysis) là phương 
pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của một tập hợp những đơn vị ra quyết định được gọi 
là các DMU (Decision Making Unit), và hiệu quả của mỗi DMU này được đánh giá qua 
khả năng sử dụng những yếu tố đầu vào để tạo ra các yếu tố đầu ra tương ứng được thu 
thập theo dữ liệu. Phương pháp DEA có thể được áp dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau và 
trong những bối cảnh, điều kiện khác nhau, có thể là bệnh viện, trường học, trong các 
ngành như nông nghiệp, hàng không, công nghệ thông tin, ngân hàng, thị trường chứng 
khoán hoặc thậm chí là một quốc gia, vùng kinh tế. Lợi thế trong phân tích DEA là 
không đòi hỏi xác định dạng hàm đối với biên hiệu quả và có thể xác định được hiệu quả 
tương đối của các đơn vị hoạt động trong một hệ thống phức tạp, đặc biệt đối với ngành 
ngân hàng, nhiều mối quan hệ giữa các đầu vào đầu ra là không xác định và hiệu quả 
được đánh giá thông qua xem xét đồng thời nhiều yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra. 
Theo lý thuyết của DEA thì đơn vị hoạt động tốt nhất sẽ có hiệu suất bằng 1, và có thể 
xác định chỉ số của các đơn vị phi hiệu quả dựa trên biên hiệu quả. Vì vậy những thông 
tin thu được sau nghiên cứu sẽ giúp nhà quản lý biết được thực tế hoạt động của đơn vị 
mình so với đơn vị khác như thế nào, từ đó sẽ lập ra chiến lược để đạt được hiệu quả tối 
4 
đa khi sử dụng các yếu tố đầu vào. Do đối tượng nghiên cứu của bài viết là hiệu quả hoạt 
động của các ngân hàng trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần nên mỗi ngân 
hàng được coi là một DMU cần được tính toán và đánh giá. 
Mô hình DEA nguyên thủy được đề xuất bởi Charnes, Cooper và Rhodes là mô hình sản 
lượng không đổi theo quy mô (DEA-CRS) vào năm 1978; mô hình này cho rằng các 
doanh nghiệp (các DMU) đều hoạt động ở quy mô tối ưu. Dữ liệu trong nghiên cứu xem 
xét N doanh nghiệp với M yếu tố đầu vào và S yếu tố đầu ra. Gọi vectơ lần lượt là 
tập hợp đầu vào (nguồn lực hoặc chi phí) và đầu ra (sản lượng hoặc doanh thu) tương 
ứng. Hiệu quả kỹ thuật (CRSTE) từng DMU được định nghĩa như sau: 
Maximize 
∑ 
∑ 
Điều kiện 
∑ 
∑ 
 ≤ 1 j = 1,, n 
 > 0 r = 1,, s; i = 1,..., m 
Bài toán quy hoạch tuyến tính trên có thể giải quyết theo hai hướng tiếp cận: mô hình 
định hướng đầu vào và mô hình định hướng đầu ra. 
Maximize ∑ 
Điều kiện ∑ 
 - ∑ 
 ≥ 0 j = 1,, n 
 ∑ 
 = 1 
 > 0 r = 1,, s; i = 1,..., m 
Để phù hợp hơn trong tính toán, các nhà nghiên cứu áp dụng tính đối ngẫu trong chương 
trình tuyến tính để giảm bớt số điều kiện ràng buộc của mô hình từ n+1 xuống s+m. Mô 
hình cuối cùng có dạng: 
Minimize 
Điều kiện - ∑ 
 ≤ 0 r = 1,, s 
 - ∑ 
 ≥ 0 i = 1,..., m 
 ≥ 0 j = 1,, n 
Trong đó θ_k là đại lượng vô hướng thể hiện mức độ hiệu quả của ngân hàng. λ là vectơ 
hằng số đi với các yếu tồ đầu vào, đầu ra. Bài toán (trên) được giải N lần, nghĩa là từng 
lần đối với mỗi doanh nghiệp. Như vậy, giá trị nghiệm θ được xác định cho từng doanh 
nghiệp. Nếu θ=1 nghĩa là doanh nghiệp đạt hiệu quả, θ <1 doanh nghiệp không đạt hiệu 
quả. Các doanh nghiệp không đạt hiệu quả có thể chiếu lên đường giới hạn hiệu quả, khi 
đó ta nhận được tổ hợp tuyến tính (Xλ, Yλ) là vị trí của doanh nghiệp tham chiếu giả 
định. Đối với doanh nghiệp không đạt hiệu quả có thể thiết lập mục tiêu giảm tỷ lệ các 
yếu tố đầu vào một đại lượng là θ trong khi vẫn giữ các giá trị đầu ra như trước. 
5 
Mô hình DEA sản lượng thay đổi theo quy mô (DEAVRS) được thành lập dựa trên mô 
hình sản lượng không đổi theo quy mô và bổ sung thêm ràng buộc ∑ 
 . Khi đó sẽ 
xuất hiện thêm chỉ tiêu đo hiệu quả nữa đó là hiệu quả biến đổi theo quy mô (VRSTE) 
(đường VBV’). Hình 1 biểu diễn đồng thời đường biên hiệu quả với hai giả thiết không 
đổi theo quy mô CRS và biến đổi theo quy mô VRS. 
Hình 1. Đường biên hiệu quả theo mô hình DEA-CRS (đường OC) và mô hình DEA-VRS 
(đường VBV’) 
Nguồn: Charnes, Cooper và Rhodes (1978) 
2.2. Tình hình nghiên cứu 
Các nghiên cứu trên thế giới về hiệu quả hoạt động của ngân hàng đã được thực hiện 
tương đối nhiều. Các nghiên cứu này ngoài việc sử dụng các chỉ số truyền thống thì hầu 
hết gần đây đều tập trung áp dụng các mô hình hiện đại khác nhau trong đánh giá hiệu 
quả hoạt động của ngân hàng thương mại. 
Chen (2002) sử dụng mẫu 39 ngân hàng tại Đài Loan để so sánh giữa hai kết quả của 
phương pháp DEA (phân tích biên dữ liệu) và SFA (phân tích đường biên ngẫu nhiên) sử 
dụng trong đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng, đưa ra kết luận về sự khác nhau 
trong kết quả của hai phương pháp này, đồng thời nhận định yếu tố quyền sở hữu là một 
yếu tố rất nổi bật ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. 
Luo (2003) nghiên cứu mẫu 254 ngân hàng thương mại lớn ở các khu vực khác nhau để 
xem xét tính hiệu quả bằng phương pháp DEA, kết luận rằng các ngân hàng lớn có xu 
hướng đạt kết quả cao về tính sinh lợi nhưng lại có kết quả thấp về hiệu quả thị trường. 
Tác giả cũng kết luận khu vực địa lý của ngân hàng không ảnh hưởng tới tính sinh lợi. 
Eken và Kale (2011) sử dụng DEA với hai cách tiếp cận theo hướng sản phẩm và tính 
sinh lợi đối với các ngân hàng thương mại Thổ Nhĩ Kỳ, rút ra kết luận về sự tương đồng 
cao giữa quy mô và tính hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, các tác giả cũng rút ra kết luận là 
quy mô càng cao thì hiệu quả biên càng giảm dần. 
Yang và cộng sự (2010) sử dụng phương pháp biên dữ liệu lai HMRP-DEA cho 14 chi 
nhánh ngân hàng ở vùng Greater Manchester để đưa ra một bộ kết quả mới về hiệu quả 
hoạt động của các chi nhánh này. 
6 
Ngo Dang Thanh (2012) bằng phương pháp DEA đã chỉ ra hiệu quả hoạt động của hệ 
thống NHTM Việt Nam giai đoạn 1990-2010 còn hạn chế và hệ thống ngân hàng mới chỉ 
đạt được hiệu quả bằng 2/3 mức tiềm năng trong bối cảnh quy mô ngành ngân hàng ngày 
càng mở rộng, thị trường tài chính biến động, nền kinh tế thế giới và khu vực bất ổn. 
Thagunna và Poudel (2013) sử dụng phương pháp DEA để đánh giá về hiệu quả hoạt 
động của các ngân hàng ở Nepal, rút ra kết luận về sự ổn định trong hoạt động theo thời 
gian, nhưng không có mối liên hệ rõ rệt về sở hữu và hiệu quả hoạt động. 
Gwahula Raphael (2013) đã đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng của khu 
vực Đông Phi trong giai đoạn 2005-2011 bằng phương pháp DEA. Với các biến đầu vào 
được lựa chọn là lao động, khấu hao, chi phí hoạt động, chi phí tài chính và biến đầu ra là 
tổng dư nợ, giá trị của khoản mục đầu tư, tác giả đã tìm ra hiệu quả hoạt động chung của 
các ngân hàng khu vực này chỉ đạt mức thấp ở mức 53.2%. 
Như vậy, có thể thấy trên thế giới, các nghiên cứu về đánh giá hiệu quả hoạt động kinh 
doanh của NHTM là khá đa dạng với một trong những phương pháp được sử dụng chủ 
yếu là phân tích đường biên (frontier analysis). Trong đó, nổi bật nhất là hai phương pháp 
tiếp cận phân tích đường biên ngẫu nhiên SFA và phân tích đường biên dữ liệu DEA. 
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng 
thương mại ở Việt Nam hiện nay cũng đã được một số tác giả quan tâm. Một số nghiên 
cứu sử dụng phân tích định tính như: Liễu Thu Trúc và Võ Thành Danh (2012) sử dụng 
cách phân tích hiệu quả truyền thống dựa trên các chỉ số tài chính. Với phương pháp phân 
tích truyền thống các tác giả đã chỉ ra được điểm mạnh, điểm yếu cụ thể của từng ngân 
hàng trong từng giai đoạn tuy nhiên lại khó có thể tính toán được một chỉ số tổng hợp bao 
gồm nhiều yếu tố cùng lúc, đặc biệt là cho cả một hệ thống các ngân hàng trong một giai 
đoạn phát triển dài. Chính bởi lý do này những nghiên cứu chỉ đơn thuần sử dụng phương 
pháp truyền thống trong môi trường kinh tế hiện nay không mang tính dự báo cho xu 
hướng và vì vậy ít được sử dụng riêng lẻ mà phải kết hợp với các phương pháp khác để 
khắc phục cho nhược điểm này. 
Sử dụng phương pháp phân tích biên dữ liệu DEA và áp dụng tương đối thành công trong 
nghiên cứu thực tiễn phải kể đến nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng (2008). T ...  năm 2011. Cùng với 
chính sách tiền tệ thì chính sách tự do hóa lãi suất cũng liên tục được điều chỉnh vào giai 
đoạn này. Đặc biệt, nghị định 141/2006/NĐ-CP quy định về việc các NHTMCP phải đạt 
được mức vốn pháp định 3000 tỷ (tăng từ mức 1000 tỷ) vào ngày 31/12/2010 và sau đó là 
nghị định 10/2011/NĐ-CP cho phép các ngân hàng được gia hạn thời gian đạt mức vốn 
pháp định 3000 tỷ cho đến ngày 31/12/2011 khiến các ngân hàng phải sử dụng vốn vay 
của chính ngân hàng hoặc của các ngân hàng khác để tăng vốn cho đủ, đây là một trong 
những nguyên nhân chính dẫn đến việc xuất hiện tình trạng sở hữu chéo phức tạp trong 
hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán giai 
đoạn này đều biến động khó lường đẩy các ngân hàng đối mặt với các khoản nợ xấu tăng 
cao. Chính vì hoạt động kém hiệu quả của các ngân hàng và sự bất ổn nội tại của hệ 
thống ngân hàng, Chính phủ đã thông qua Đề án 254 về “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức 
tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã phân loại hệ thống 
NHTM thành ba nhóm: Nhóm 1, các NHTM có tình hình tài chính lành mạnh và năng 
lực quy mô đủ lớn để phát triển thành các ngân hàng trụ cột trong hệ thống; Nhóm 2, 
gồm các NHTM có tình hình tài chính lành mạnh, nhưng quy mô nhỏ; Nhóm 3, gồm các 
NHTM có tình hình tài chính khó khăn, buộc phải tái cơ cấu. 
Bảng 3. Hiệu quả kỹ thuật theo mô hình không đổi theo quy mô (DEA-CRSTE) 
HIỆU QUẢ KỸ THUẬT THEO MÔ HÌNH KHÔNG ĐỔI THEO QUY MÔ: DEA-CRS 
Khoảng hiệu quả (%) Số lượng ngân hàng theo từng năm 
 2011 2012 2013 2014 2015 2016 
100% 3 7 5 7 5 5 
90% - dưới 100% 0 3 8 1 3 1 
80-90 2 6 5 4 8 3 
70-80 3 4 4 3 6 9 
60-70 5 2 1 7 0 4 
50-60 6 1 0 1 1 1 
Dưới 50 4 0 0 0 0 0 
 23 23 23 23 23 23 
12 
Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả bằng phần mềm DEAP 2.1 
Hình 2. Hiệu quả kỹ thuật không đổi theo quy mô 
Hiệu quả kỹ thuật trung bình của các năm sau theo mô hình không đổi theo quy mô-
CRSTE của các NHTM đều tăng trên mức 80%, đặc biệt cao nhất là năm 2013 khi con số 
này là 89.7%, điều này cho thấy các ngân hàng đã sử dụng các nguồn lực đầu vào một 
cách đồng đều hơn. Năm 2013 cũng là năm mà số lượng các ngân hàng đạt mức hiệu quả 
kỹ thuật trung bình trong khoảng từ 80%-100% là cao nhất với số lượng lên đến 18/23 
ngân hàng. Theo sau là năm 2015 với 16/23 ngân hàng đạt được hiệu quả kỹ thuật trên 
80%. Điều này có thể được lý giải là do quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được những 
kết quả ban đầu, dẫn đến quá trình lành mạnh hóa tài chính hệ thống ngân hàng với việc 
tăng cường xây dựng các qui định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu hệ thống qua việc thành 
lập VAMC và tăng cường quản trị rủi ro, hướng đến chuẩn mực Basel II. Số lượng các 
ngân hàng đạt mức hiệu quả kỹ thuật tối ưu từ sau năm 2011 đều dao động trong khoảng 
từ 5 đến 7 ngân hàng. Các ngân hàng đạt được mức hiệu quả tối ưu trong hệ thống liên 
tiếp qua các năm là ngân hàng Bắc Á, ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPB), ngân 
hàng Tiên Phong (TPB), ngân hàng Hàng Hải (MSB). Nếu phân theo tính chất sở hữu thì 
nhìn chung trong cả giai đoạn, các NHTMCP sở hữu tư nhân có hiệu quả kỹ thuật tương 
đối cao hơn so với nhóm các NHTMCP có vốn Nhà nước (82.1% so với 79%). Đặc biệt 
năm 2011, con số này chênh lệch rõ ràng khi các NHTMCP tư nhân đạt được hiệu quả kỹ 
thuật thuần túy là 70.77% (cao hơn mức trung bình của hệ thống) trong khi các 
NHTMCP có vốn Nhà nước (bao gồm 3 ngân hàng là VCB, BIDV và Vietinbank) lại chỉ 
đạt được con số 48.33%. Một trong những lý do quan trọng của hiện tượng này là do các 
NHTMCP Nhà nước tuy chiếm ưu thế hơn so với các NHTMCP tư nhân về vốn nhưng đã 
sử dụng không hiệu quả nguồn lực này bằng các NHTMCP tư nhân. Trong khi đó, các 
NHTMCP tư nhân lại cạnh tranh hơn trong việc huy động vốn, quản trị rủi ro tốt hơn và 
do đó, nợ xấu của khối NHTM này cũng thấp hơn so với khối Nhà nước. Đối tượng 
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
100% 90%-100% 80-90 70-80 60-70 50-60 Dưới 50 
DEA - hiệu quả kỹ thuật CRS 
2011 2012 2013 2014 2015 2016
13 
khách hàng cho vay của khối NHTM Nhà nước tập trung nhiều vào các doanh nghiệp và 
tổng công ty Nhà nước và do các doanh nghiệp này trong giai đoạn 2011-2016 được đánh 
giá là hoạt động yếu kém nên đã gây nhiều tổn thất cho các NHTM có vốn Nhà nước. 
Bên cạnh đó, yếu tố đầu vào là chi phí nhân công thấp hơn cũng là một trong những yếu 
tố giúp các NHTMCP tư nhân đạt được hiệu quả kỹ thuật thuần túy cao hơn các 
NHTMCP có vốn Nhà nước. theo tính toán của tác giả từ số liệu tổng hợp dựa trên báo 
cáo tài chính của các ngân hàng thì các NHTMCP Nhà nước có chi phí nhân công trung 
bình gấp khoảng 4.31 lần các NHTMCP tư nhân cho cả giai đoạn nghiên cứu. 
Hình 3. So sánh hiệu quả kỹ thuật của NHSHNN và NHTN 
Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả bằng phần mềm DEAP 2.1 
Hiệu quả kỹ thuật thay đổi theo quy mô (VRSTE) cho phép xác định hiệu quả phụ thuộc 
vào quy mô và mức độ phi hiệu quả của quy mô hoạt động. Theo kết quả ước lượng thể 
hiện ở Bảng 2 thì hiệu quả kỹ thuật thay đổi theo quy mô (VRSTE) cao hơn hiệu quả kỹ 
thuật không đổi theo quy mô (CRSTE) cho giai đoạn nghiên cứu. Kết quả phân tích cho 
thấy hiệu quả VRSTE trung bình của toàn hệ thống đạt 91.3% (cao hơn hiệu quả trung 
bình CRSTE 9.6%). Hiệu quả kỹ thuật trung bình theo mô hình DEA-VRSTE cũng có xu 
hướng như trong mô hình DEA-CRSTE, thấp nhất ở năm 2011 và cao nhất trong hai năm 
2012 và 2013 (95% và 93.9%) và giảm xuống ở 2016 (89.7%). Tuy nhiên số lượng các 
ngân hàng đạt được mức hiệu quả tối ưu ở mô hình DEA-VRSTE cao hơn rõ rệt so với 
mô hình DEA-CRSTE và mức độ tập trung số lượng ngân hàng có hiệu quả kỹ thuật cao 
hơn 80% ở mô hình DEA-VRSTE cũng cao hơn nhiều so với mô hình DEA-CRSTE, 
điển hình như năm 2016 có đến 18 ngân hàng đạt hiệu quả trên 90% theo mô hình DEA-
VRSTE trong khi chỉ có 9 ngân hàng nếu theo kết quả mô hình DEA-CRSTE. Một số 
ngân hàng có hiệu quả kỹ thuật VRSTE trung bình nổi bật trong giai đoạn là NH Công 
thương (Vietinbank), NH Ngoại thương (VCB), NH Đầu tư & Phát triển (BIDV), NH 
Bắc Á, NH Nam Á, NH Kỹ thương (Techcombank), NH Việt Nam Thịnh Vượng 
(VPBank). Ngược lại một số ngân hàng đạt mức trung bình thấp như NH An Bình và NH 
Phát triển nhà TPHCM (HD Bank). 
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
2011 2012 2013 2014 2015 2016
Hiệu quả của NHSHNN và NHTN 
NH NN NH tư nhân 
14 
Bảng 4. Hiệu quả kỹ thuật theo mô hình thay đổi theo quy mô (DEA-VRSTE) 
HIỆU QUẢ KỸ THUẬT THEO MÔ HÌNH THAY ĐỔI THEO QUY MÔ: DEA-VRS 
Khoảng hiệu quả (%) Số lượng ngân hàng theo từng năm 
2011 2012 2013 2014 2015 2016 
100% 10 16 12 13 11 11 
90% - dưới 100% 4 2 4 1 5 4 
80-90 0 2 5 1 4 3 
70-80 5 3 1 5 2 2 
60-70 2 0 1 3 1 2 
50-60 2 0 0 0 0 1 
Dưới 50 0 0 0 0 0 0 
23 23 23 23 23 23 
Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả bằng phần mềm DEAP 2.1 
Hình 4. Hiệu quả kỹ thuật thay đổi theo quy mô VRS 
Từ công thức tính hiệu quả quy mô SE = CRSTE/VRSTE, kết quả ước lượng ở bảng 2 
cho thấy hiệu quả quy mô của các ngân hàng trong giai đoạn 2011-2016 trung bình là 
89.7%. Điều này thể hiện hiệu quả kỹ thuật thuần túy (VRSTE) của ngân hàng đóng góp 
vào hiệu quả kỹ thuật (CRSTE) của ngân hàng lớn hơn so với các nhân tố phản ánh quy 
mô hoạt động (SE). Tuy hiệu quả kỹ thuật thuần túy có đóng góp lớn hơn so với hiệu quả 
trong quy mô nhưng theo xu hướng giảm chung thì hai yếu tố trên đều khiến cho hiệu quả 
kỹ thuật giảm. Kết quả này có thể lý giải bởi thực trạng hoạt động của ngành ngân hàng 
trong giai đoạn vừa qua. Về hiệu quả quy mô, có thể thấy việc tăng trưởng về số lượng 
ngân hàng và tốc độ mở rộng quy mô của từng ngân hàng không đột biến như giai đoạn 
trước năm 2011. Nếu trước năm 2011 số lượng các NHTMCP gia tăng nhanh chóng về 
cả số lượng và quy mô thì sau năm 2011 theo đề án tái cơ cấu hệ thống tài chính, hệ 
thống NHTMCP cần phải loại bỏ bớt các ngân hàng yếu kém, tập trung vào nâng cao 
0
2
4
6
8
10
12
14
16
100% 90 - 100 80-90 70-80 60-70 50-60 Dưới 50 
DEA - hiệu quả kỹ thuật VRS 
2011 2012 2013 2014 2015 2016
15 
hiệu quả các ngân hàng lớn. Thêm vào đó sự tăng trưởng về số lượng và quy mô trước đó 
không gắn liền với cấu trúc hợp lý và chất lượng tăng trưởng, dịch vụ các NHTM đang 
cung cấp hiện nay chủ yếu là các sản phẩm truyền thống, các dịch vụ ngân hàng hiện đại 
chưa phát triển đồng bộ và rất nhiều dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. 
Chính vì thế mà hiệu quả t quy mô của hệ thống NHTMCP không đạt được kết quả mong 
muốn. Về hiệu quả kỹ thuật thuần, vấn đề quản trị hoạt động và công nghệ của các ngân 
hàng vẫn bất cập, hoạt động quản trị rủi ro chưa thực sự hiệu quả, nợ xấu không được xử 
lý kịp thời và triệt để gây ra khó khăn thanh khoản cho một số ngân hàng. Yếu tố công 
nghệ trong ngân hàng cũng chưa được đầu tư xứng đáng do năng lực tài chính hạn chế 
dẫn đến khó có thể thường xuyên thay đổi công nghệ hoạt động khiến cho hiệu quả kĩ 
thuật thấp. 
Bên cạnh đó, mô hình DEA còn được phát triển bằng cách thêm các biến là trọng số về 
giá của các yếu tố đầu vào. Với các biến mới này mô hình có khả năng đánh giá được 
hoàn toàn về hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong việc kiểm soát về số lượng và chi 
phí của các yếu tố đầu vào đã sử dụng. Hình 5 cho kết quả tóm tắt về hiệu quả kỹ thuật 
(TE), hiệu quả phân bổ (AE) và hiệu quả chi phí CE (Trong đó CE = TE × AE). 
Hình 5. Hiệu quả trung bình qua các năm 
Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả 
Chỉ số hiệu quả chi phí (CE) trong nghiên cứu có kết quả tăng dần qua giai đoạn 5 năm. 
Từ 52.84% năm 2011, đặc biệt năm 2012 chỉ số này tăng mạnh lên mức 69.33%, giảm 
xuống ở năm 2013 và sau đó tăng đều đặn đến năm 2016 với kết quả là 70.61%. Sự tăng 
lên của chỉ số CE được đánh giá là nhờ các ngân hàng có hiệu quả phân bổ tăng dần trong 
các năm và tăng nhanh hơn so với hiệu quả kỹ thuật. Tuy nhiên, chỉ số CE trung bình 
toàn giai đoạn là 64.41% cho thấy việc sử dụng các nguồn lực đầu vào chưa thực sự hiệu 
quả và do đó, chỉ số hiệu quả chi phí này chỉ đạt được ở mức trung bình. 
5. Kết luận 
0 
0.1 
0.2 
0.3 
0.4 
0.5 
0.6 
0.7 
0.8 
0.9 
1 
2011 2012 2013 2014 2015 2016 
AE CE TE
16 
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay thì các NHTM Việt Nam sẽ 
chỉ có thể phát triển được bền vững và khẳng định được vị thế của mình nếu như các 
ngân hàng chủ động đổi mới về bộ máy, về hoạt động và công nghệ để nâng cao hiệu quả 
hoạt động. Bằng việc ứng dụng phương pháp phân tích đường biên dữ liệu DEA, bài viết 
cho thấy một bức tranh toàn cảnh về khả năng sử dụng kết hợp các yếu tố đầu vào của 
ngân hàng. Từ kết quả mô hình DEA cho giai đoạn 2011-2016, có thể rút ra đặc điểm về 
hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTMCP Việt Nam như sau: Hiệu quả hoạt động của 
các ngân hàng chỉ đạt mức trung bình trong giai đoạn nghiên cứu, trong đó hiệu quả về 
quy mô đóng góp ít hơn hiệu quả kỹ thuật thuần túy chứng tỏ hoạt động quản lý nguồn tài 
nguyên đầu vào của các ngân hàng chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Quy mô hoạt động 
càng lớn càng tạo điều kiện cho sự tăng trưởng trong hiệu quả hoạt đông nhưng khiến 
ngân hàng khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả kỹ thuật thuần túy. Một số ngân hàng 
quy mô lớn có hiệu quả thấp hơn các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ. Có thể thấy việc 
sử dụng các yếu tố đầu vào vẫn nghiêng về sử dụng nhiều nguồn lực cho chi phí lãi và 
các khoản tương tự. Mặc dù NHNN vẫn hướng tới mục tiêu lãi suất thấp để thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế, tuy nhiên, lãi suất huy động của ngân hàng vẫn chịu áp lực tăng do lạm 
phát được kỳ vọng tăng và nhu cầu tăng lãi suất huy động để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn 
sau thông tư 06 của các ngân hàng. Trước áp lực tăng lãi suất huy động như trên thì các 
ngân hàng càng ít có động lực để giảm lãi suất cho vay đầu ra. Bên cạnh đó, các ngân 
hàng sẽ có thể hạn chế tín dụng và đẩy mạnh tăng vốn để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn CAR, 
từ đó lại gây áp lực lên chi phí vốn. 
Tài liệu tham khảo 
1. Charnes Cooper and Rhodes (1978), “Measuring the efficiency of decision making 
units”, European Journal of Operational Research, vol 2, issue 6, 429-444. 
2. Chen T-Y (2002), A Comparison of Chance-Constrained DEA and Stochastic 
Frontier Analysis: Bank Efficiency in Taiwan, JORS 53(5): 492-500. 
3. Eken and Kale (2011), “Measuring Bank Branch Performance Using Data 
Envelopment Analysis (DEA): The Case of Turkish Bank Branches”, African Journal of 
Business Management, 5(3), 889–901. 
4. Farrell, 1957, “The measurement of productive efficiency”, Journal of the Royal 
Statistical Society, series A (General), vol 120, No. 3(1957), 253-290. 
5. Guo-liang Yang et. al. (2013), “Cross-efficiency aggregation in DEA models using 
the evidential-reasoning approach”, European Journal of Operational Research 231 
(2013) 393–404. 
6. Gwahula Raphael (2013), “Efficiency of Commercial Banks in East Africa: A Non 
Parametric Approach”, International Journal of Business and Management, Vol.8, No.4, 
2013. 
7. Luo XM, 2003, “Evaluating the Profitability and Marketability Efficiency of Large 
Banks – an Application of Data Envelopment Analysis”, J Business Research 56(8): 627-
635. 
8. Ngo Dang Thanh, 2012, “Measuring the Performance of the Banking System Case of 
Vietnam (1990- 2010)”, Journal of Applied Finance & Banking. 2(2): 289-312. 
17 
9. Thagunna and Poudel, 2013, “Measuring Bank Performance of Nepali Banks: A Data 
Envelopment Analysis (DEA) Perspective”, International Journal of Economics and 
Financial Issues, Vol.3, No.1 (2013). 
10. William W.Cooper, Lawrence M.Seiford and Joe Zhu, 2004, Data Envelopment 
Analysis, Kluwer Academic Publishers. 
11. Lê Phan Thị Diệu Thảo và Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh, 2013, “Ứng dụng phương pháp 
DEA trong đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ 
phần Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 21 tháng 11/2013, tr.16-17. 
12. Nguyễn Thị Hồng Vinh, “Đo lường hiệu quả kỹ thuật và chỉ số Malmquist của ngân 
hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 74 tháng 5/2013, tr.16-
23. 
13. Nguyễn Thị Hồng Xuân (2012), “Ứng dụng phương pháp biên dữ liệu vào việc đánh 
giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ 
Ngân hàng. 20: 27-33. 
14. Nguyễn Việt Hùng (2008), Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động 
của các ngân hàng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà 
Nội. 
15. Phạm Lê Thông và cộng sự (2011), “Hiệu quả kĩ thuật các ngân hàng thương mại Việt 
Nam”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 69 tháng 12/2011, tr.20-26. 
16. Phạm Thị Bích Lương (2006), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân 
hàng thương mại nhà nước Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế Quốc 
dân, Hà Nội. 
17. Võ Thành Danh và Liễu Thu Trúc (2008), Phân tích hoạt động kinh doanh của hệ 
thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, Tạp chí Khoa học 2012:21a, tr.158-168. 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_hieu_qua_hoat_dong_cua_he_thong_ngan_hang_thuong_m.pdf