Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau

TÓM TẮT

Black tiger shrimp is one of the main target species of Ca Mau province.

The study was conducted from May to December 2014. The interview

method was applied directly on 45 households of intensive tiger shrimp

systems in Dam Doi, Phu Tan districts and Ca Mau City of Ca Mau

province in order to evaluate the effectiveness of technical, financial and

advantages and disadvantages of the model. Results of the survey showed

that the average pond area of 0.27 ha/pond, the average of total pellet

feeds were supplied about 6.656±2.302 kg/ha. Shrimp seeds were stocked

at average density of 27.9±4.85 individuals/m2 and mostly originating from

Central region of Vietnam. The average of yield and profit of intensive

tiger shrimp system were 5.246±1.401 kg/ha/crop and 551±342 million

VND/ha/crop, respectively. Intensive tiger shrimp system currently faces

many difficulties, such as longer culture period, the increase in the feed

price, diseases and high medicine prices.

Từ khóa:

Tôm sú, thâm canh, tài chính,

kỹ thuật, Cà Mau

pdf 8 trang Bích Ngọc 05/01/2024 1760
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau

Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 87 
DOI:10.22144/ctu.jvn.2016.546 
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH CỦA MÔ HÌNH NUÔI TÔM SÚ THÂM CANH 
Ở TỈNH CÀ MAU 
Nguyễn Thanh Long 
Khoa Thủy Sản, Trường Đại học Cần Thơ 
Thông tin chung: 
Ngày nhận: dd/mm/yyyy 
Ngày chấp nhận: 26/10/2016 
Title: 
Analyzing effectiveness of 
financial of the intensive 
black tiger shrimp system in 
Ca Mau province 
Từ khóa: 
Tôm sú, thâm canh, tài chính, 
kỹ thuật, Cà Mau 
Keywords: 
Black tiger shrimp, intensive, 
financial, technical, Ca mau 
ABSTRACT 
Tôm sú là một trong những đối tượng nuôi chủ lực của tỉnh Cà Mau. 
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 12/2014. Phương pháp 
phỏng vấn trực tiếp được áp dụng trên 45 hộ nuôi tôm sú thâm canh ở 
huyện Đầm Dơi, Phú Tân và thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau nhằm đánh 
giá hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi và xác định những 
thuận lợi và khó khăn của mô hình sản xuất. Kết quả khảo sát cho thấy 
diện tích ao nuôi trung bình 0,27 ha/ao, tổng lượng thức ăn viên sử dụng 
trung bình là 6.656±2.302 kg/ha. Tôm được nuôi với mật độ trung bình là 
27,9±4,85 con/m2 và phần lớn con giống thả nuôi có nguồn gốc từ miền 
Trung. Năng suất tôm và lợi nhuận trung bình của mô hình nuôi thâm 
canh tôm sú lần lượt là 5.246±1.401 kg/ha/vụ và 551±342 triệu 
đồng/ha/vụ. Nghề nuôi tôm sú thâm canh hiện đang còn gặp nhiều khó 
khăn như thời gian nuôi lâu, sự tăng lên về giá thức ăn, dịch bệnh và giá 
thuốc cao. 
TÓM TẮT 
Black tiger shrimp is one of the main target species of Ca Mau province. 
The study was conducted from May to December 2014. The interview 
method was applied directly on 45 households of intensive tiger shrimp 
systems in Dam Doi, Phu Tan districts and Ca Mau City of Ca Mau 
province in order to evaluate the effectiveness of technical, financial and 
advantages and disadvantages of the model. Results of the survey showed 
that the average pond area of 0.27 ha/pond, the average of total pellet 
feeds were supplied about 6.656±2.302 kg/ha. Shrimp seeds were stocked 
at average density of 27.9±4.85 individuals/m2 and mostly originating from 
Central region of Vietnam. The average of yield and profit of intensive 
tiger shrimp system were 5.246±1.401 kg/ha/crop and 551±342 million 
VND/ha/crop, respectively. Intensive tiger shrimp system currently faces 
many difficulties, such as longer culture period, the increase in the feed 
price, diseases and high medicine prices. 
Trích dẫn: Nguyễn Thanh Long, 2016. Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở 
tỉnh Cà Mau. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 46b: 87-94. 
1 GIỚI THIỆU 
Thủy sản đã và đang trở thành một ngành đem 
lại hiệu quả kinh tế xã hội cao và được xếp vào một 
trong năm ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu 
hàng đầu của đất nước (Tổng cục Thủy sản, 2013). 
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là nơi có 
điều kiện phát triển nuôi trồng thủy sản, năm 2012 
ĐBSCL chiếm 70% tổng diện tích tôm nuôi và 
80% sản lượng tôm biển nuôi của cả nước. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 88 
Cà Mau có tiềm năng lớn để phát triển nuôi 
trồng thủy sản (NTTS). Năm 2013, tổng diện tích 
nuôi tôm nước lợ toàn tỉnh chiếm gần 40% diện 
tích cả nước với 268.242 ha, sản lượng đạt 103.900 
tấn, chủ lực trong NTTS của tỉnh là tôm sú, với đa 
dạng các mô hình nuôi góp phần vào sự tăng 
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh, 
bao gồm cả mô hình nuôi tôm sú thâm canh (Chi 
cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh Cà Mau, 2014). Năm 
2015, diện tích nuôi tôm thâm canh tăng nhanh và 
đạt gần 9.000 ha. Vùng nuôi tập trung nhiều ở các 
huyện Ðầm Dơi 2.817 ha, Phú Tân 2.154 ha, Cái 
Nước 1.610 ha, Trần Văn Thời 667 ha... Mặc dù 
trong những năm gần đây, do nhiều yếu tố một số 
hộ nuôi chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng, tuy 
vậy tôm sú vẫn được xác định là sản phẩm chính 
trong sản xuất và xuất khẩu tôm của tỉnh. Nghề 
nuôi thâm canh tôm sú đã và đang phát huy hiệu 
quả, góp phần tạo việc làm và cải thiện đời sống 
cho người dân tại địa phương trong tỉnh. 
Hiệu quả và năng suất của mô hình nuôi thâm 
canh tôm sú phụ thuộc vào các yếu tố như: điều 
kiện tự nhiên của vùng để phát triển các đối tượng 
tiềm năng và áp dụng các mô hình nuôi phù hợp, 
bên cạnh đó yếu tố kinh tế - kỹ thuật có tác động 
rất lớn đến hiệu quả sản suất của nghề nuôi. Nhằm 
cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc quản lý nghề 
nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau và tìm hiểu 
thêm những thuận lợi và khó khăn của mô hình này 
giúp cho người nuôi ổn định sản xuất, đề tài "Phân 
tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm sú 
thâm canh ở tỉnh Cà Mau" đã được thực hiện. 
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đề tài đã được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 
12/2014. Số liệu thứ cấp được thu thập từ các báo 
cáo tại các cơ quan chức năng: Chi cục Nuôi 
TRỒNG Thủy sản tỉnh Cà Mau, Trung tâm 
Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Cà Mau, các tài 
liệu thư viện cùng với những luận văn cao học, các 
tạp chí khoa học và trang web có liên quan; liên hệ 
với các cán bộ và thu thập các báo cáo đã được 
thống kê hàng năm tại địa bàn nghiên cứu. 
Nghề nuôi tôm thâm canh ở tỉnh Cà Mau tập 
trung nhiều ở các huyện Đầm Dơi, Phú Tân, Cái 
Nước, Trần Văn Thời, Thành phố Cà Mau do 
giới hạn về kinh phí nên chọn 1 huyện giáp biển 
Đông (Đầm Dơi), 1 huyện giáp biển Tây (Phú Tân) 
và thành phố Cà Mau. Cụ thể là huyện Đầm Dơi 
(phỏng vấn 20 mẫu), Phú Tân (phỏng vấn 20 mẫu) 
và thành phố Cà Mau (phỏng vấn 5 mẫu), tổng 
cộng phỏng vấn trực tiếp 45 hộ nuôi tôm sú thâm 
canh. 
Bảng câu hỏi soạn sẵn với những nội dung bao 
gồm: các thông tin chung về nông hộ (Họ tên, tuổi, 
giới tính, trình độ văn hóa, địa chỉ, lực lượng lao 
động, số năm kinh nghiệm, lý do chọn mô hình 
nuôi); khía cạnh kỹ thuật (diện tích ao nuôi, số vụ, 
thời gian nuôi, mật độ thả, kích cỡ con giống, quản 
lý ao, dịch bệnh, thức ăn, thu hoạch, tỉ lệ sống, 
FCR); khía cạnh tài chính (Chi phí, doanh thu, lợi 
nhuận, tỉ suất lợi nhuận và giá thành); thuận lợi, 
khó khăn và những vấn đề có liên quan đến mô 
hình nuôi. 
Các số liệu sau khi phỏng vấn được tổng hợp, 
kiểm tra và nhập vào máy tính. Phần mềm Excel 
được sử dụng để nhập và xử lý số liệu khảo sát. 
Các số liệu được thể hiện tần số xuất hiện, tỉ lệ 
phần trăm, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn, giá 
trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất. 
* Một số chỉ tiêu hiệu quả tài chính được tính 
dựa trên các công thức sau: 
 Tổng chi phí = Tổng chi phí biến đổi + 
Tổng chi phí khấu hao 
 Tổng thu nhập = tổng số tiền bán sản phẩm 
 Tổng Lợi nhuận = Tổng thu nhập – Tổng 
chi phí 
 Tỉ suất lợi nhuận (lần) = Tổng lợi 
nhuận/Tổng chi phí 
 Giá thành = Tổng chi phí/tổng sản lượng 
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1 Những thông tin chung về nông hộ nuôi 
tôm sú thâm canh tỉnh Cà Mau 
Trung bình trong gia đình có 3 lao động thì có 2 
người tham gia nuôi tôm và phần lớn các hộ được 
khảo sát đều sử dụng lao động của gia đình, do đất 
nuôi ít hoặc hộ nuôi muốn tiết kiệm chi phí thuê 
mướn. Có 94,3% lao động tham gia nuôi tôm là 
nam giới, chỉ có 5,7% là nữ vì họ là những lao 
động chính của gia đình, điều này cho thấy nam 
giới luôn đóng vai trò chính trong hoạt động nuôi 
tôm, do nghề nuôi cần phải có tính mạnh dạn đầu 
tư và sức khỏe tốt. Khảo sát này phù hợp với kết 
quả nghiên cứu của Lê Xuân Sinh (2006), tỉ lệ nam 
quyết định trong hoạt động NTTS chiếm 75,7%. 
Độ tuổi của các chủ hộ nuôi tôm sú chủ yếu là 
trung niên, trung bình là 43 tuổi. Số năm có kinh 
nghiệm nuôi trung bình là 7 năm, thấp nhất là 1 
năm và cao nhất là 17 năm. Những hộ nhiều năm 
kinh nghiệm thường là những hộ đã được địa 
phương khuyến khích cải tạo đất nuôi tôm từ nhiều 
năm trước đây. Để có kiến thức về kỹ thuật nuôi, 
các chủ hộ nuôi tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật 
tại địa phương, tích lũy kinh nghiệm trong thời 
gian nuôi của chính nông hộ và học hỏi kinh 
nghiệm từ người thân và bạn bè. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 89 
Bảng 1: Tuổi chủ hộ, lao động, số năm kinh nghiệm 
Nội dung Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất 
Tổng số lao động trong gia đình (người/hộ) 3 1 8 
Số lao động trong gia đình tham gia mô hình (người/hộ) 2 1 3 
Số lao động thuê mướn (người/hộ) 0 0 0 
Tuổi (tuổi) 43 26 64 
Số năm có kinh nghiệm trong NTTS (năm) 7 1 17 
Trình độ học vấn là một trong những yếu tố 
quan trọng trong sản xuất, vì bên cạnh những kinh 
nghiệm đã tích lũy được, người nuôi phải có những 
kiến thức cơ bản để dễ ứng dụng các kỹ thuật nuôi. 
Từ kết quả khảo sát cho thấy có 100% chủ hộ có 
trình độ từ tiểu học trở lên, không có chủ hộ nào 
mù chữ. Trong đó, 2,9% chủ hộ có trình độ đại 
học, cao đẳng, 34,3% chủ hộ có trình độ trung học 
phổ thông, 40,0% chủ hộ có trình độ trung học cơ 
sở và 22,8% chủ hộ trong và đã qua trình độ tiểu 
học. Với 77,2% các chủ hộ có trình độ học vấn từ 
trung học cơ sở trở lên, việc tiếp thu và ứng dụng 
kỹ thuật vào mô hình nuôi cũng được tốt hơn, góp 
phần nâng cao hiệu quả sản xuất của mô hình. 
Bảng 2 cho biết lý do các chủ hộ lựa chọn mô 
hình, trong đó lý do được nhiều hộ chọn là vì lợi 
nhuận cao và ít tốn chi phí nuôi so với mô hình 
khác như mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng. Theo 
kết quả nghiên cứu của Phùng Thị Hồng Gấm và 
ctv. (2014) cho thấy tổng chi phí cho mô hình nuôi 
tôm thẻ chân trắng và tôm sú thâm canh lần lượt là 
747 triệu đồng/ha/vụ và 402 triệu đồng/ha/vụ. Các 
lý do chủ yếu khác như: theo xu hướng nuôi của 
vùng, được địa phương hỗ trợ về kỹ thuật, mô hình 
tận dụng được đất và lao động gia đình, dễ nuôi và 
tỉ lệ nuôi thành công khá cao. 
Bảng 2: Lý do chọn mô hình 
Các lý do chính Số hộ Tỷ lệ (%) 
Ít tốn chi phí nuôi so với mô hình khác và lợi nhuận tương đối cao 21 46,67 
Xu hướng nuôi tôm sú của vùng 15 33,33 
Có kinh nghiệm nuôi 14 31,11 
Tận dụng đất và lao động từ gia đình 11 24,44 
Tỉ lệ nuôi thành công cao 10 22,22 
Dễ nuôi 7 15,56 
3.2 Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi 
tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau 
Diện tích nuôi khác nhau thì chi phí nuôi khác 
nhau và sẽ ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch và 
doanh thu của hộ. Diện tích đất NTTS trung bình 
của chủ hộ là 1,17 ha/hộ, trung bình diện tích đất 
cho nuôi tôm sú là 0,60 ha/hộ, có sự chệnh lệch về 
diện tích nuôi của các hộ, diện tích lớn nhất là 1,50 
ha/hộ và nhỏ nhất là 0,22 ha/hộ. Diện tích nuôi lớn 
hộ nuôi sẽ gặp khó khăn trong việc quản lí và chăm 
sóc nếu như sử dụng ít lao động, ngược lại diện 
tích nhỏ sẽ dễ quản lí hơn. Tùy theo diện tích nuôi 
mà mỗi hộ phân chia diện tích ao và số lượng ao 
nuôi tôm sú khác nhau, trung bình diện tích mỗi ao 
0,27 ha/hộ và độ sâu mực nước của ao nuôi trung 
bình là 1,50 m. Kết quả này giống với kết quả khảo 
sát của Phạm Công Kỉnh và ctv. (2015), cao hơn 
kết quả nghiên cứu của Lâm Văn Tùng và ctv. 
(2012) với mực nước bình quân của ao nuôi tôm sú 
thâm canh là 1,38 m ở hình thức nuôi nông hộ ở 
tỉnh Sóc Trăng và Bến Tre. 
Bảng 3: Thông tin về diện tích nuôi và ao nuôi thâm canh tôm sú Cà Mau 
Nội dung Min-Max Trung bình 
Tổng diện tích sử dụng NTTS (toàn bộ) (ha/hộ) 0,12-3,90 1,17±0,84 
Tổng diện tích nuôi tôm sú thâm canh (ha/hộ) 0,22-1,50 0,60±0,36 
Tỷ lệ diện tích ao lắng (%) 0,00-50 13,3±15,6 
Diện tích mặt nước 1 ao nuôi (ha/ao) 0,10-0,60 0,27±0,12 
Số lượng ao nuôi thâm canh tôm sú (ao/hộ) 1,00-6,00 2,20±1,12 
Mực nước bình quân ao nuôi (m) 1,00-2,00 1,50±0,18 
Trong 45 hộ nuôi được phỏng vấn thì chỉ có 19 
hộ có sử dụng ao lắng với diện tích mặt nước ao 
lắng 0,08 ha/ao. Tỉ lệ diện tích ao lắng chiếm trung 
bình 13,3% so với diện tích nuôi tôm sú. Các hộ 
không làm ao lắng vì quy mô nuôi nhỏ hoặc để tận 
dụng tối đa diện tích đất nuôi. Ao lắng và ao xử lí 
nước rất cần thiết đối với nuôi thâm canh để đảm 
bảo chất lượng nước đưa vào ao nuôi. 
Nuôi tôm sú trung bình khoảng 150 ngày có thể 
thu hoạch được, ở những hộ có tôm chậm lớn hoặc 
đợi giá bán cao mới thu hoạch thường nuôi trên 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 90 
150 ngày, thấp hơn với kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Thanh Long và Võ Thanh Toàn (2008) có 
thời gian nuôi thâm canh tôm sú trung bình là 168 
ngày. Thời gian nuôi tôm sú dài nên mỗi năm chỉ 
nuôi từ 1 đến 2 vụ và thường bắt đầu thả tôm vào 
các tháng ít mưa vì độ mặn nước nuôi cao dễ xử lý, 
thuận lợi cho sự phát triển của tôm. 
Qua kết quả khảo sát thì có 62,9% hộ nuôi đang 
sử dụng con giống có nguồn gốc ở miền Trung, 
17,0% con giống từ các tỉnh ĐBSCL và còn lại là 
trong tỉnh (20,1%). Kết quả này phù hợp với 
nghiên cứu của Lê Xuân Sinh (2006), hàng năm 
lượng tôm sú giống thả nuôi ở ĐBSCL phải nhập 
từ các tỉnh miền Trung từ 65% - 75%. Có 86,0% 
các hộ nuôi tôm sú nhận định nguồn tôm giống có 
chất lượng từ khá trở lên. Điều này cho thấy người 
nuôi đã có nhận thức tốt trong việc chọn tôm giống 
nên đa số đều tìm được nguồn con giống chất 
lượng tốt để nuôi. 
Nghề nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau có 
thể nuôi từ 1 đến 2 vụ trong năm. Thời gian nuôi 1 
vụ từ 120-180 ngày. Mật độ thả nuôi trung bình 
của các hộ là 27,9 con/m2, cao nhất là 40 con/m2 và 
thấp nhất là 20 con/m2, do kích cỡ thu hoạch lớn và 
ở những hộ chưa có kinh nghiệm nuôi nhiều thì thả 
nuôi ở mật độ thấp. So sánh với kết quả của Dương 
Vĩnh Hảo (2009) mật độ thả nuôi tôm sú trung bình 
là 27,3 con/m2 thì cao hơn và thấp hơn kết quả 
nghiên cứu của Lâm Văn Tùng và ctv. (2012) với 
mật độ thả tôm sú trung bình là 33,8 con/m2. Tôm 
sú thích nghi với mật độ thấp và giá con giống 
không quá cao nên các hộ mua giống với kích cỡ 
tương đối lớn và tỉ lệ sống đạt khá cao (63,1%). 
Bảng 4: Các thông số kỹ thuật của mô hình nuôi thâm canh tôm sú Cà Mau 
Nội dung Min-Max Giá trị 
Số vụ nuôi trong năm (vụ/năm) 1-2 1,49±0,51 
Thời gian nuôi (số ngày/vụ) 120-180 150±15,4 
Số lần sên vét (lần/năm) 1-2 1,57±0,50 
Mật độ thả nuôi (con/m2) 20-40 27,9±4,85 
Kích cỡ con giống thả (PL) PL10 -PL15 PL10 -PL15 
Tỉ lệ sống (%) 45-100 63,1±14,9 
Tổng lượng thức ăn sử dụng (Kg/ha/vụ) 3.250- 15.000 6.656±2.302 
Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) 1,1-2 1,26± 0,26 
Số lần cho ăn trong ngày (số lần/ngày) 3-5 4,00± 0,24 
Kích cỡ thu hoạch (con/kg) 20-48 33,9± 5,86 
Năng suất (kg/ha/vụ) 3.333- 10,000 5.246±1.401 
Lượng thức ăn cung cấp cho ao nuôi trung bình 
là 6.656±2.302 kg/ha/vụ. Kết quả này gần bằng kết 
quả nghiên cứu của Đàm Thị Phong Ba (2007), 
lượng thức ăn trung bình của nuôi tôm sú thâm 
canh là 6.685 kg/ha/vụ. Số lượng thức ăn phụ 
thuộc vào thời gian nuôi và sự tăng trưởng của con 
giống, những hộ sử dụng lượng thức ăn cho tôm ít 
là do thất mùa hoặc thu hoạch tôm sớm. FCR trung 
bình là 1,26 và thấp hơn kết quả nghiên cứu của 
Dương Vĩnh Hảo (2009) với FCR trong nuôi tôm 
sú thâm canh là 1,53. Thức ăn tốt sẽ giúp tôm khỏe 
và mau lớn, do đó nhu cầu về chất lượng thức ăn 
cho tôm ở các nông hộ ngày càng cao; phần lớn hộ 
sử dụng thức ăn viên cho tôm, số lần cho ăn trung 
bình là 4 lần/ngày và hình thức cho ăn chủ yếu là 
rải đều trong ao nuôi. 
Theo kết quả khảo sát, năng suất nuôi bình 
quân là 5.246±1.401 kg/ha/vụ. Năng suất này cao 
hơn so với kết quả nghiên cứu của Phạm Công 
Kỉnh và ctv. (2015). Năng suất ở hình thức nuôi 
nông hộ đạt 4,68 tấn/ha ở mật độ thả 33,1 con/m2).
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 91 
Hình 1: Tương quan mật độ thả nuôi đến năng 
suất 
Hình 2: Tương quan diện tích ao nuôi đến năng 
suất 
Xét về mối tương quan giữa mật độ và diện tích 
ao nuôi đến năng suất, qua Hình 1 và 2 cho thấy 
mật độ thả nuôi từ 20 con/m2 đến 40 con/m2 thì 
mật độ thả nuôi càng cao sẽ có năng suất càng cao 
và diện tích ao nuôi càng lớn thì năng suất càng 
giảm. Năng suất cao tập trung vào ao có diện tích 
từ 2000-4000 m2. Tuy nhiên, hai mối tương quan 
này có R2 nhỏ (lần lượt là R2=0,0239 và 
R2=0,0263). 
3.3 Phân tích hiệu quả tài chính của mô 
hình nuôi tôm sú thâm canh tỉnh Cà Mau 
Theo kết quả khảo sát cho thấy, tổng chi phí cố 
định trung bình 129±46,6 triệu đồng/ha bao gồm 
các khoản chi phí làm ao nuôi và mua máy móc 
thiết bị phục vụ việc nuôi. Tổng chi phí khấu hao 
trung bình là 21,7±8,03 triệu đồng/ha/vụ, trong đó 
chi phí đào ao cao hơn chi phí máy móc, thiết bị 
phục vụ sản xuất do mô hình ít đầu tư trang thiết bị 
và máy móc, các máy móc được sử dụng với công 
suất không quá lớn nên thời gian sử dụng được lâu 
hơn. 
Tổng chi phí cố định đầu tư vào mô hình giữa 
các hộ nuôi là không giống nhau, do còn phụ thuộc 
vào diện tích nuôi và mức độ đầu tư của mỗi hộ, và 
thường đối với ao nuôi có diện tích lớn thì có thể 
tiết kiệm được 1 khoản về chi phí trang thiết bị hơn 
ao nhỏ. 
Bảng 5: Chi phí cố định và chi phí khấu hao của mô hình 
Nội dung Chi phí cố định (triệu đồng/ha) 
Thời gian sử dụng 
(năm) 
Chi phí khấu hao 
(triệu đồng/ha/vụ) 
Chi phí xây dựng ao 72,8±35,9 5,36±2,79 9,12±5,88 
Xây cống, hệ thống cấp nước 2,54±6,08 5,17±1,16 0,33±0,74 
Xây nhà phục vụ sản xuất 7,51±7,98 2,19±2,4 2,30±2,47 
Máy đạp nước (cánh quạt, sụt khí) 22,8±11,2 4,24±1,5 3,61±1,56 
Máy bơm phục vụ sản xuất 11,0±5,79 3,36±1,49 2,20±1,07 
Ghe xuồng, xe phục vụ sản xuất 12,3±12,1 2,01±3,47 4,10±2,60 
Tổng 129±46,6 21,7±8,03 
Bảng 6 thệ hiện các khoản chi phí biến đổi của 
mô hình. Từ kết quả khảo sát cho thấy chi phí thức 
ăn là khoản chi phí cao nhất trung bình là 259±125 
triệu đồng/ha/vụ, chiếm 55,9% trong tổng chi phí 
biến đổi, kế đến là chi phí thuốc hóa chất trung 
bình 89,7±87,2 triệu đồng/ha/vụ, chiếm 19,3% 
tổng chi phí biến đổi. Đứng thứ 3 trong chi phí 
biến đổi là chi phí điện phục vụ sản xuất. Khoản 
chi phí dùng cho việc trả lãi ngân hàng tương đối 
thấp, đa phần các hộ sử dụng nguồn vốn tự có hoặc 
tự tìm nguồn vốn từ người thân, bạn bè. Tổng chi 
phí biến đổi trung bình là 465±174 triệu 
đồng/ha/vụ. Kết quả khảo sát phù hợp với nghiên 
cứu của Lê Xuân Sinh (2006): thức ăn, thuốc thú y 
thủy sản, nhiên liệu, con giống là các khoản chi phí 
lớn có ảnh hưởng trực tiếp hiệu quả và chất lượng 
nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh. 
Giá bán tôm sau thu hoạch trung bình 
201.000±52.314 đồng/kg, tuy nhiên có sự chênh 
lệch về giá khi bán tôm sú giữa các hộ nuôi, có hộ 
bán được với giá 320.000 đồng/kg nhưng có hộ chỉ 
bán được giá 118.000 đồng/kg. Giá bán cao hay 
thấp còn phụ thuộc vào kích cỡ thu hoạch, mùa vụ 
cũng như sự biến động của thị trường và chất 
lượng tôm sau thu hoạch. 
y = 53,853x + 4670
R² = 0,0239
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
15 25 35 45
Nă
ng
 su
ất 
(kg
/ha
/vụ
)
Mật độ thả (con/m2)
y = -0,2287x + 6794,4
R² = 0,0263
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
0 2.000 4.000 6.000 8.000N
ăn
g s
uấ
t (k
g/h
a/v
ụ)
Diện tích ao nuôi (m2) 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 92 
Bảng 6: Chi phí biến đổi của mô hình nuôi thâm canh tôm sú tỉnh Cà Mau 
Nội dung Giá trị Tỷ lệ (%) 
Tổng chi phí cho thức ăn (triệu đồng/ha/vụ) 259±125 55,9 
Tổng chi phí thuốc và hóa chất (triệu đồng/ha/vụ) 89,7±87,2 19,3 
Chi phí nhiên liệu (điện, xăng, dầu, nhớt...) (triệu đồng/ha/vụ) 49,1±27,3 10,6 
Chi phí cải tạo ao (triệu đồng/ha/vụ) 26,7±20,2 5,71 
Tổng chi phí con giống (triệu đồng/ha/vụ) 21,6±8,19 4,60 
Chi phí sửa chữa lại ao (triệu đồng/ha/vụ) 16,4±18,5 3,52 
Tổng chi phí tiền lãi ngân hàng (triệu đồng/ha/vụ) 1,72±6,06 0,37 
Tổng chi phí biến đổi (triệu đồng/ha/vụ) 465±174 100 
Qua kết quả khảo sát 45 hộ nuôi cho thấy trung 
bình doanh thu của các hộ có từ mô hình tương đối 
cao và không có hộ nào bị lỗ vốn nguyên nhân là 
do trong quá trình nuôi ít rủi ro, phòng trị bệnh kịp 
thời nên đảm bảo được hiệu quả tôm nuôi. Doanh 
thu cao do đó lợi nhuận mô hình đem lại khá cao 
bình quân là 551±342 triệu đồng/ha/vụ, tỷ suất lợi 
nhuận bình quân là 1,19±0,70 lần. 
Bảng 7: Hiệu quả tài chính của mô hình nuôi thâm canh tôm sú tỉnh Cà Mau 
Nội dung Min-Max Giá trị 
Tổng doanh thu (triệu đồng/ha/vụ) 410-1.550 1.038±398 
Tổng chi phí (triệu đồng/ha/vụ) 369-810 487±176 
Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 56-925 551±342 
Giá thành (đồng/kg) 69.818-152.814 94.306±26.025 
Tỉ suất lợi nhuận (lần) 0,11-2,09 1,19±0,70 
Giá thành sản xuất trung bình là 94.306 
đồng/kg. Cao hơn nghiên cứu của Lâm Văn Tùng 
và ctv. (2012), ở thời điểm 2012 giá thành sản xuất 
trung bình tôm sú thâm canh là 74.900 đồng/kg. 
Giá thành sản xuất ngày càng tăng do tình hình 
dịch bệnh trên tôm đang xảy ra nhiều nên chi phí 
thuốc, hóa chất phòng trị bệnh tăng và chi phí thức 
ăn cao do đảm bảo chất lượng càng cao. 
Hình 3: Tương quan mật độ thả nuôi đến lợi nhuận Hình 4: Tương quan diện tích ao nuôi đến lợi nhuận 
Hình 3 và 4 thể hiện mối tương quan giữa mật 
độ thả nuôi và diện tích ao nuôi đến lợi nhuận. Mối 
tương quan này cho thấy mô hình được thả nuôi ở 
mật độ cao đem lại lợi nhuận thấp hơn và lợi nhuận 
cao tập trung vào mật độ thả từ 25-30 con/m2. Diện 
tích ao càng lớn thì đem lại lợi nhuận càng cao. 
Tuy nhiên, cả hai mối tương quan này có R2 thấp. 
3.4 Những thuận lợi và khó khăn của nghề 
nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau 
Tôm sú đã phát triển từ rất lâu ở nước ta và đã 
trở thành một trong những đối tượng nuôi chủ lực 
của tỉnh Cà Mau. Theo kết quả khảo sát cho thấy 
có nhiều thuận lợi cho hoạt động sản xuất của các 
hộ nuôi tôm sú như chi phí nuôi tương đối thấp và 
lợi nhuận mang lại cao, rủi ro thấp và dễ nuôi, giá 
bán tôm thương phẩm ổn định và có nhiều thương 
lái thu mua. Hiện nay, so với thẻ chân trắng thị 
trường của tôm sú có giá hơn và mang lại hiệu quả 
kinh tế cao hơn tạo động lực cho các hộ nuôi đã 
nhiều năm giữ vững mô hình này vì giá bán cao là 
nguyên nhân góp phần tăng lợi nhuận của mô hình 
nuôi. 
y = -8,5196x + 583,77
R² = 0,0457
 -
 100
 200
 300
 400
 500
 600
 700
 800
15 25 35 45
Lợ
i n
hu
ận
 (tr
iệu
đồ
ng
/ha
/vụ
)
Mật độ thả nuôi (con/m2)
y = 0,0298x + 264,98
R² = 0,0342
 -
 100
 200
 300
 400
 500
 600
 700
 800
0 2000 4000 6000 8000
Lợ
i n
hu
ận
 (tr
iệu
đồ
ng
/ha
/vụ
)
Diện tích ao nuôi (m2)
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 93 
Bảng 8: Thuận lợi của mô hình nuôi thâm canh tôm sú ở tỉnh Cà Mau 
Nội dung Mẫu quan sát Tỉ lệ (%) 
Chi phí nuôi thấp hơn tôm thẻ và lợi nhuận cao 36 80,00 
Dễ quản lí và chăm sóc 29 64,44 
Giá bán cao và nhiều thương lái thu mua 14 31,11 
Được địa phương hỗ trợ về kỹ thuật và cơ sở hạ tầng 11 24,44 
Môi trường nước nuôi tốt 8 17,78 
Chất lượng con giống tốt 7 15,56 
Cà Mau là vùng có nhiều lợi thế để phát triển 
NTTS, đặc biệt là nuôi tôm nên được Nhà nước, 
chính quyền địa phương quy hoạch và đầu tư xây 
dựng cơ sở hạ tầng điện nước, được sự hỗ trợ của 
trung tâm khuyến ngư của tỉnh và phòng Nông 
nghiệp, người nuôi tôm được tiếp xúc với những 
kỹ thuật nuôi mới và các thông tin về dịch bệnh, 
hướng dẫn kỹ thuật nuôi và quản lý chăm sóc, đây 
cũng là một trong những thuận lợi lớn để người 
dân phát triển và nâng cao hiệu quả nuôi mô hình 
này. 
Tuy nhiên, trong quá trình nuôi người nuôi 
cũng gặp nhiều khó khăn, cũng là nguyên nhân dẫn 
đến không lời nhiều ở một số hộ nuôi tôm sú của 
tỉnh Cà Mau. Khó khăn lớn nhất mà đa số các hộ 
nuôi gặp phải là thời gian nuôi lâu nên chỉ nuôi 
được 1 đến 2 vụ mỗi năm, người nuôi sẽ rất khó tái 
vụ nếu trong quá trình nuôi tôm gặp thất bại, kế 
đến là giá thuốc và thức ăn cao làm chi phí nuôi 
tăng dẫn đến lợi nhuận cũng bị ảnh hưởng. 
Bảng 9: Khó khăn của mô hình nuôi thâm canh 
tôm sú ở tỉnh Cà Mau 
Nội dung 
Mẫu 
quan 
sát 
Tỉ lệ 
(%) 
Thời gian nuôi lâu 27 60,00 
Giá thuốc và thức ăn tăng cao 19 42,22 
Rủi ro về dịch bệnh cao 17 37,78 
Nguồn nước chung ô nhiễm nặng 16 35,56 
Giá điện cao 12 26,67 
Thuốc và hóa chất pha tạp tràn lan 10 22,22 
Thời tiết thay đổi 4 8,89 
Tình hình dịch bệnh trên tôm ngày càng phức 
tạp là điều mà các hộ nuôi tôm sú luôn phải đối 
mặt, đặc biệt là những bệnh chưa có thuốc đặc trị 
hoặc khó trị như bệnh về gan đã ảnh hưởng đến 
chất lượng tôm, nguồn nước chung ô nhiễm nặng 
do ảnh hưởng từ các chất thải công nghiệp và ý 
thức chung trong việc xử lí chất thải ao, sên vét ao 
của các hộ nuôi. Không chỉ chất thải của các hộ 
nuôi tôm sú mà còn chất thải của các mô hình nuôi 
khác và chất thải công nghiệp từ các địa phương là 
nguyên nhân lớn làm cho tình hình dịch bệnh tăng 
mạnh. 
Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác gây khó 
khăn cho người nuôi tôm sú như giá điện phục vụ 
sản xuất ở một vài hộ nuôi cao là do các hộ vẫn 
chưa được áp giá điện, thuốc thú y thủy sản không 
rõ nguồn gốc và bị pha tạp xuất hiện ngày càng 
nhiều làm cho các hộ nuôi gặp khó khăn trong việc 
nhận dạng và phân biệt thuốc, hóa chất có chất 
lượng. Mưa nhiều dẫn đến phân tầng nguồn nước 
nuôi và người nuôi khó xử lý độ mặn nước ao và 
khó khăn trong việc quản lý cho ăn. 
Với mong muốn có thể giảm bớt phần thiệt hại 
trong quá trình nuôi, một vài chủ hộ sử dụng một 
số phương pháp đã tích lũy và học hỏi được. Để 
ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh từ môi trường ngoài 
vào ao, các hộ xây dựng ao nuôi khép kín, hạn chế 
việc thay nước ao thường xuyên và xử lý tốt nguồn 
nước trước khi đưa vào ao và thải nước ra để ít ảnh 
hưởng đến môi trường chung; với chất lượng và 
nguồn gốc của thuốc, hóa chất hiện tại, một số hộ 
đã sử dụng thêm thuốc đông y cho tôm như: cây 
mật gấu, ô rô,vừa tiết kiệm chi phí thuốc cũng 
đảm bảo được chất lượng tôm sau thu hoạch. 
4 4KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
4.1 Kết luận 
 Ao nuôi tôm sú thâm canh ở tỉnh Cà Mau có 
diện tích trung bình là 0,27 ha/ao và độ sâu mực 
nước ao trung bình là 1,5 m. 
 Có 62,9% hộ nuôi tôm sú sử dụng con 
giống từ miền Trung và còn lại là một số trại sản 
xuất giống tại các tỉnh ĐBSCL. 
 Sau thời gian nuôi trung bình 150 ngày/vụ; 
với mật độ thả nuôi trung bình là 27,9 con/m2; mô 
hình đạt năng suất bình quân là 5.246±1.401 
kg/ha/vụ, tỉ lệ sống đạt 63,1% và hệ số tiêu tốn 
thức ăn trung bình là 1,26. 
 Với tổng chi phí là 487±176 triệu 
đồng/ha/vụ, mô hình đem lại lợi nhuận là 551±342 
triệu đồng/ha/vụ và tỷ suất lợi nhuận là 1,19 lần. 
 Qua kết quả khảo sát thấy các khó khăn hộ 
nuôi đối mặt như: thời gian nuôi lâu, sự gia tăng về 
giá thức ăn, giá thuốc và dịch bệnh. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 46 (2016): 87-94 
 94 
4.2 Đề xuất 
Cần có chiến lược bình ổn giá vật tư thủy sản: 
thức ăn, thuốc phòng trị bệnh và hóa chất để các hộ 
có thể giảm phần nào chi phí nuôi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Chi cục Nuôi trồng Thủy sản tỉnh Cà Mau, 2014. Báo 
cáo tham luận tình hình dịch bệnh và công tác 
phòng chống dịch bệnh năm 2013-2014. 6 trang. 
Đàm Thị Phong Ba, 2007. Phân tích các yếu tố ảnh 
hưởng đến sản xuất và tiêu thụ tôm sú ở Đồng 
bằng sông Cửu Long. Luận văn cao học chuyên 
nghành kinh tế nông nghiệp. Khoa Kinh tế và 
Quản trị Kinh doanh. Đại học Cần Thơ. 72 trang. 
Dương Vĩnh Hảo, 2009. Phân tích hiệu quả kinh tế-
kỹ thuật của mô hình nuôi tôm sú thâm canh và 
bán thâm canh ven biển tỉnh Sóc Trăng. Luận 
văn cao học 2009, Đại học Cần Thơ. 79 trang. 
Lâm Văn Tùng, Phạm Công Kỉnh, Trương Hoàng 
Minh và Trần Ngọc Hải, 2012. Hiệu quả kỹ 
thuật, tài chính và phương thức liên kết của các 
cơ sở nuôi tôm sú (Panaeus Monodon) thâm canh 
ở tỉnh Bến Tre và tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Khoa 
học, Đại học Cần Thơ. 2012:24a 78-87 
Lê Xuân Sinh, 2006. Tác động về mặt xã hội các hoạt 
động nuôi trồng thủy sản mặn lợ ven biển Đồng 
bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học, Trường 
Đại học Cần Thơ, quyển 2, trang 220-234. 
Nguyễn Thanh Long và Võ Thanh Toàn, 2008. Đánh 
giá mức độ tích lũy đạm, lân trong mô hình nuôi 
tôm sú (Panaeus Monodon) thâm canh. Tạp chí 
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, quyển 1, 
trang 44-52. 
Phạm Công Kỉnh, Trần Ngọc Hải và Trương Hoàng 
Minh, 2014. So sánh khí cạnh kỹ thuật và tài 
chính giữa các hình thức sản xuất tôm sú 
(Penaeus monodon) thâm canh ở tỉnh Bến Tre. 
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Số 
16/2014. 65-72. 
Phùng Thị Hồng Gấm, Võ Nam Sơn và Nguyễn 
Thanh Phương, 2014. Phân tích hiệu quả sản 
xuất các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm 
sú thâm canh ở tỉnh Ninh Thuận. Tạp chí Khoa 
học Trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề: 
Thủy sản (2014) 37-43. 
Tổng cục Thủy sản, 2013. Kết quả sản xuất thủy sản 
năm 2012. htttp://www.fistenet.gov.vn cập nhật 
ngày 20/07/2014. 
Võ Văn Bé, 2007. Điều tra hiệu quả nuôi tôm sú 
(Panaeus Monodon) rải vụ ở tỉnh Sóc Trăng. Luận 
văn cao học chuyên ngành Nuôi trồng thủy sản, 
Khoa thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. 69 trang. 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_hieu_qua_tai_chinh_cua_mo_hinh_nuoi_tom_su_tham_ca.pdf