Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt

Nhật Bản và Hàn Quốc là những quốc gia có nền kinh tế phát triển với hàng trăm tập đoàn kinh

tế và công ty đa quốc gia, khu vực DNNVV chiếm hơn 99% tổng số doanh nghiệp và có vai trò quan

trọng, được coi là động lực, là xương sống của các nền kinh tế này. Các chính sách hỗ trợ DNNVV

của Nhật Bản, Hàn Quốc đều được luật hóa tại các Đạo luật cơ bản về DNNVV. Nhiều tập đoàn hàng

đầu thế giới hiện nay của hai quốc gia này xuất phát từ các DNNVV và phát triển thành công là nhờ

kết nối và ứng dụng các thành quả, sản phẩm sáng tạo của hàng ngàn DNNVV trong chuỗi cung ứng.

Ở Việt Nam, các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Mặc dù

chiếm hơn 95% trên tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động trên cả nước, song các DNNVV vẫn

đang gặp rất nhiều khó khăn về hành lang pháp lý, công nghệ sản xuất, mô hình quản lý, kỹ năng

quản lý của đội ngũ lãnh đạo, hạn chế về thông tin và tiếp cận dịch vụ tài chính, vốn đầu tư,. Bài

viết đã tổng hợp kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc trong quá trình thực hiện các chính sách

giúp hệ thống DNNVV phát triển, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình

phát triển hệ thống doanh nghiệp này tại Việt Nam.

Từ khóa: Phát triển, Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nhật Bản, Hàn Quốc.

pdf 10 trang Bích Ngọc 06/01/2024 180
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam

Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và kinh nghiệm cho Việt Nam
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
19Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở HÀN QUỐC, 
NHẬT BẢN VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Phùng Mạnh Hùng* 
Phạm Thị Diệu Anh**
* TS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: hungpm@ftu.edu.vn
** ThS, Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam.
Tóm tắt
Nhật Bản và Hàn Quốc là những quốc gia có nền kinh tế phát triển với hàng trăm tập đoàn kinh 
tế và công ty đa quốc gia, khu vực DNNVV chiếm hơn 99% tổng số doanh nghiệp và có vai trò quan 
trọng, được coi là động lực, là xương sống của các nền kinh tế này. Các chính sách hỗ trợ DNNVV 
của Nhật Bản, Hàn Quốc đều được luật hóa tại các Đạo luật cơ bản về DNNVV. Nhiều tập đoàn hàng 
đầu thế giới hiện nay của hai quốc gia này xuất phát từ các DNNVV và phát triển thành công là nhờ 
kết nối và ứng dụng các thành quả, sản phẩm sáng tạo của hàng ngàn DNNVV trong chuỗi cung ứng. 
Ở Việt Nam, các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Mặc dù 
chiếm hơn 95% trên tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động trên cả nước, song các DNNVV vẫn 
đang gặp rất nhiều khó khăn về hành lang pháp lý, công nghệ sản xuất, mô hình quản lý, kỹ năng 
quản lý của đội ngũ lãnh đạo, hạn chế về thông tin và tiếp cận dịch vụ tài chính, vốn đầu tư,... Bài 
viết đã tổng hợp kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc trong quá trình thực hiện các chính sách 
giúp hệ thống DNNVV phát triển, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình 
phát triển hệ thống doanh nghiệp này tại Việt Nam.
Từ khóa: Phát triển, Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Mã số: 196.281015. Ngày nhận bài: 28/10/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 03/11/2015. Ngày duyệt đăng: 04/12/2015.
Abstract
Japan and Korea are the the developed countries with hundred of conglomerates and 
multinational companies. SMEs sector accounts for more than 99 percent of total enterprises and 
plays an important role, as the backbone of these economies. SMEs support policies of Japan and 
Korea are reflected in the Basic Act on SMEs. Many leading corporations of these two countries were 
SMEs and have developed successfully due to connection and application of the results, innovative 
products of SMEs in supply chain.
In Vietnam, SMEs play a vital role in the economic development process. Although accounting 
for over 95% of businesses currently operating in the country, SMEs face many difficulties in the 
legal framework, manufacturing technology, management model, management and leadership 
skills, limited information access to financial services, investment, etc. The article summarizes 
the experiences of Japan, Korea in the process of implementing the supporting policies for SMEs 
development, thus, discovers the lessons learned during the development of this enterprise system 
in Vietnam.
Key words: Development, Small and Medium Enterprises, Japan, Korea.
Paper No. 196.281015. Date of receipt: 28/10/2015. Date of revision: 03/11/2015. Date of approval: 04/12/2015.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
20 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
1. Đặt vấn đề
Trên thế giới, hệ thống doanh nghiệp 
nhỏ và vừa đóng vai trò hết sức quan trọng 
trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển 
kinh tế xã hội. Tuy nhiên, hệ thống doanh 
nghiệp này vẫn còn nhiều khó khăn trong 
quá trình phát triển như: Quy mô nhỏ, thiếu 
vốn và khó tiếp cận nguồn vốn, trình độ công 
nghệ còn lạc hậu, khả năng quản trị doanh 
nghiệp yếu, thiếu nguồn nhân lực có trình độ 
cao, thiếu mặt bằng để phát triển sản xuất kinh 
doanh, đại bộ phận chưa quan tâm đến 
xây dựng thương hiệu, khó liên kết để tạo thế 
mạnh chung...Chính vì vậy, trong những năm 
gần đây, hệ thống doanh nghiệp này đang 
là mục tiêu trọng tâm của các chính sách hỗ 
trợ phát triển kinh tế của các quốc gia. Nhiều 
chương trình và chính sách đã được chính phủ 
các nước triển khai thực hiện để thúc đẩy sự 
phát triển của các DNNVV. Các chính sách và 
chương trình này được thực hiện thông qua 
các hoạt động của nhà nước nhằm giúp hệ 
thống DNNVV khắc phục những hạn chế 
tồn tại của mình trong quá trình phát triển. 
Cho đến nay chưa có một khái niệm chung 
về loại hình DNNVV mà tùy thuộc vào đặc 
điểm của từng quốc gia, từng giai đoạn phát 
triển kinh tế để đưa ra những qui định về 
DNNVV. Khi định nghĩa về DNNVV, các 
quốc gia thường căn cứ vào qui mô về vốn của 
doanh nghiệp, số lao động thường xuyên, tổng 
doanh thu, tổng tài sản của doanh nghiệp để 
định nghĩa. Như vậy, mỗi quốc gia sử dụng 
những tiêu thức hay có các kết hợp các tiêu 
thức khác nhau để đưa ra định nghĩa riêng về 
DNNVV. Bên cạnh đó, không chỉ các tiêu chí 
phân loại khác nhau mà ngay cả cách phân 
loại doanh nghiệp cũng khác nhau. Có quốc 
gia phân chia doanh nghiệp thành 4 loại như 
doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa, doanh 
nghiệp lớn và doanh nghiệp cực lớn. Có quốc 
gia lại phân chia doanh nghiệp thành doanh 
Bảng 1: Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa của một số quốc gia
Nước
Tiêu thức áp dụng
Số lao động Tổng vốn hoặc giá trị tài sản
In-đô-nê-xi-a <100 <0,6 tỷ rupi
Xin-ga-po <100 <499 triệu USD
Thái Lan <100 <200 Bath
Hàn Quốc <300 trong CN, XD <0,6 triệu USD
<200 trong TM&DV <0,25 triệu USD
Nhật <100 trong bán buôn <10 triệu Yên
<50 trong bán lẻ <100 triệu Yên
EU <250 <27 triệu Euro
Mê-hi-cô <250 < 7 triệu USD
Hoa kỳ <500 <20 triệu USD
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
21Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
Bảng 2: Các tiêu thức phân loại doanh nghiệp tại Việt Nam
Khu vực
Doanh 
nghiệp 
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao 
động
Tổng 
nguồn vốn
Số lao 
động
Tổng nguồn 
vốn
Số lao 
động
I. Nông, lâm nghiệp và thủy 
sản
10 người 
trở xuống
20 tỷ đồng 
trở xuống
từ trên 10 
người đến 
200 người
từ trên 20 
tỷ đồng đến 
100 tỷ đồng
từ trên 200 
người đến 
300 người
II. Công nghiệp và xây dựng 10 người 
trở xuống
20 tỷ đồng 
trở xuống
từ trên 10 
người đến 
200 người
từ trên 20 
tỷ đồng đến 
100 tỷ đồng
từ trên 200 
người đến 
300 người
III. Thương mại và dịch vụ 10 người 
trở xuống
10 tỷ đồng 
trở xuống
từ trên 10 
người đến 
50 người
từ trên 10 tỷ 
đồng đến 50 
tỷ đồng
từ trên 50 
người đến 
100 người
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
nghiệp cực nhỏ (thường là kinh tế hộ gia đình), 
doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa, doanh 
nghiệp lớn và doanh nghiệp cực lớn. Thực tế 
trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác 
nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên 
nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau này tiêu 
thức dùng để phân loại quy mô doanh nghiệp 
khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt các tiêu 
thức phân loại đó có hai tiêu thức được sử 
dụng ở phần lớn các nước là quy mô vốn và số 
lượng lao động.
Tại Việt Nam, theo khoản 1 điều 3 Nghị 
định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 thì 
doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh 
đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp 
luật, được chia thành ba cấp: Siêu nhỏ, nhỏ, 
vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn 
vốn tương đương tổng tài sản được xác định 
trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) 
hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn 
vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như bảng 2
Với cách xác định trên thì phần lớn doanh 
nghiệp đang hoạt động có qui mô nhỏ và vừa. 
Nếu phân loại theo qui mô lao động thì trong 
số 324.691 doanh nghiệp đang hoạt động (tính 
đến 1/1/2012) thì có 216.732 doanh nghiệp 
siêu nhỏ, 93.356 doanh nghiệp nhỏ và 6.853 
doanh nghiệp vừa và 7.750 doanh nghiệp 
lớn đang hoạt động. Như vậy nhóm siêu nhỏ 
chiếm tới 66,75%, nhóm doanh nghiệp nhỏ 
chiếm 28,75% trong khi số doanh nghiệp vừa 
chỉ chiếm 2,1% và doanh nghiệp lớn chiếm 
2,4%.
Tình hình doanh nghiệp có dấu hiệu tốt lên 
khi số doanh nghiệp lập mới trong năm 2013 
tăng trở lại so với cùng kỳ năm 2012. Năm 
2013 cả nước có gần 77.000 doanh nghiệp 
đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 
là 398.681 tỷ đồng, tăng 10,1% về số doanh 
nghiệp trong khi giảm 14,7% về số vốn đăng 
ký so với cùng kỳ năm trước. Trong giai đoạn 
2008-2013, số lượng doanh nghiệp thành lập 
mới có xu hướng tăng ổn định trong 02 năm 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
22 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
2009-2011 nhưng lại giảm dần từ năm 2012. 
Nếu năm 2009 cả nước có gần 85.000 doanh 
nghiệp thành lập mới thì đến năm 2012 con 
số này giảm xuống chỉ còn gần 70.000 doanh 
nghiệp và năm 2013 số doanh nghiệp thành 
lập mới giảm 8% so với cùng kỳ năm 2010.
Bảng 3: Số lượng doanh nghiệp đăng ký 
kinh doanh giai đoạn 2008-2013
Năm
Số lượng 
doanh 
nghiệp 
ĐKKD
Lũy kế
Vốn 
đăng ký
 (tỷ 
đồng)
2008 65.319 331.060
2009 84.531 415.591
2010 83.685 499.276
2011 77.548 576.824 513.700
2012 69.874 646.698 467.265
2013 76.955 723.653 398.681
2014 74.842 798.495 432.286
Nguồn: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ kế 
hoạch và Đầu tư
Cũng trong giai đoạn 2008-2012 số lượng 
doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động đã 
duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình hàng 
năm trên 10% cụ thể, tăng 20,9% năm 2009, 
tăng 11,8% năm 2010, tăng 11,6% năm 2011 
và tăng 10,6% năm 2012. Như vậy, tỷ lệ 
giữa số doanh nghiệp đăng ký với số doanh 
nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh 
doanh trong giai đoạn này là gần 53%, giảm 
gần 10% nếu so sánh với tỷ lệ doanh nghiệp 
thực tế đang hoạt động trong tổng số doanh 
nghiệp hiện có của nền kinh tế tại thời điểm 
01/01/2008 (62%). Giai đoạn này hoạt động 
của các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó 
khăn thể hiện qua số lượng các doanh nghiệp 
giải thế, phá sản, hoặc ngừng hoạt động và 
ngừng nộp thuế. Năm 2013 có khoảng 60.700 
doanh nghiệp giải thế và ngừng hoạt động, số 
doanh nghiệp gặp khó khăn rơi vào tình trạng 
ngừng hoạt động là 50.919 doanh nghiệp, tăng 
11,9% so với cùng kỳ năm trước.
Trong năm 2014, cả nước có 74.842 doanh 
nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn 
đăng ký là 432.286 tỷ đồng, giảm 2,7% về số 
doanh nghiệp và tăng 8,4% về số vốn đăng ký 
so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, xu 
hướng thanh lọc diễn ra mạnh mẽ từ năm 2013 
đến nay đã sàng lọc lại những doanh nghiệp 
thực sự có chất lượng, không chỉ linh hoạt để 
tồn tại qua giai đoạn khó khăn nhất mà còn 
tìm kiếm thêm cơ hội kinh doanh mới để mở 
rộng quy mô hoạt động. Cụ thể, trong năm 
2014, có 22.758 lượt doanh nghiệp thay đổi 
tăng vốn với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 
595.707 tỷ đồng. Như vậy, tổng số vốn đăng 
ký mới và đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh 
tế trong năm 2014 là 1.027.993 tỷ đồng.
Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một 
doanh nghiệp trong năm 2014 đạt 5,8 tỷ đồng, 
tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2013. Số lao 
động dự kiến được tạo công việc làm của các 
doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2014 
là 1.091 nghìn lao động, tăng 2,8% so với 
cùng kỳ năm trước. Như vậy, mặc dù vẫn chưa 
thực sự thoát khỏi bối cảnh khó khăn nhưng 
xét trên khía cạnh quy mô vốn, doanh nghiệp 
thành lập mới trong năm 2014 đã tăng hơn 
so với cùng kỳ năm ngoái. Điều đó cho thấy 
môi trường kinh doanh đã được cải thiện, tạo 
niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp vào môi 
trường kinh doanh.
Trong năm 2014, một số ngành, lĩnh vực 
hoạt động có sự gia tăng về doanh nghiệp 
thành lập mới, như: nghệ thuật, vui chơi và 
giải trí; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, 
đặc biệt là sự phục hồi trở lại của lĩnh vực 
kinh doanh bất động sản, phản ánh hiệu quả 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
23Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
các biện pháp của Chính phủ trong việc tháo 
gỡ khó khăn của chương trình tín dụng 30.000 
tỷ đồng cho vay hỗ trợ nhà ở người có thu 
nhập trung bình, thu nhập thấp. Bên cạnh đó, 
vẫn còn một số ngành, lĩnh vực có số doanh 
nghiệp thành lập mới giảm so với năm 2013, 
gồm: khai khoáng; khoa học, công nghệ; dịch 
vụ tư vấn, thiết kế; quảng cáo và chuyên môn 
khác; xây dựng; dịch vụ việc làm; du lịch; cho 
thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ 
hỗ trợ khác và bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô 
tô, xe máy.
2. Kinh nghiệm phát triển DNNVV tại 
Nhật Bản
Nhật Bản là nền kinh tế lớn với hàng 
ngàn tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia 
hoạt động trong và ngoài lãnh thổ quốc gia 
này. Tuy nhiên, khu vực DNNVV vẫn có 
vai trò quan trọng được coi là lực lượng không 
thể thay thế ngay cả hiện tại và trong tương 
lai. Theo số liệu thống kê đến cuối năm 2010, 
DNNVV ở Nhật chiếm đến 99% trong tổng 
số doanh nghiệp, thu hút 39 triệu lao động 
chiếm 80% lực lượng lao động làm việc 
cho các doanh nghiệp. Thu nhập của khu 
vực kinh tế này chiếm 99,1% tổng thu nhập 
bán buôn và 99,8% tổng thu nhập bán lẻ. Đặc 
trưng của các DNNVV của Nhật Bản đáng 
chú ý là hoạt động vệ tinh của các doanh nghiệp 
lớn, nhận thầu lại công việc của những doanh 
nghiệp lớn; Các doanh nghiệp được tổ chức 
theo các giai tầng doanh nghiệp mẹ (tập đoàn), 
doanh nghiệp con, trong đó các doanh nghiệp 
con có sự gắn bó mật thiết, lâu dài, có hợp 
đồng dài hạn, liên tục với doanh nghiệp mẹ; 
Các DNNVV ở Nhật Bản phần lớn thuộc các 
ngành nghề truyền thống, nhưng luôn luôn 
có sự kết hợp giữa những tính cách truyền 
thống dân tộc với kỹ thuật, công nghệ hiện 
đại. Số lượng DNNVV thường biến động, 
nhưng xu hướng số lượng doanh nghiệp loại 
này ngày càng tăng. Trong từng thời kỳ 
phát triển của nền kinh tế đất nước, Chính phủ 
Nhật đã ban hành nhiều chính sách phát 
triển khu vực DNNVV. Những thay đổi về 
chính sách nhằm đặt khu vực DNNVV 
vào vị trí phù hợp nhất và khẳng định tầm 
quan trọng của nó trong nền kinh tế. Những 
thay đổi về chính sách nhằm đặt khu vực 
DNNVV vào vị trí phù hợp nhất và khẳng 
định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế. 
Xét một cách tổng quát, các chính sách phát 
triển DNNVV của Nhật Bản tập trung vào 
các mục tiêu chủ yếu sau đây: Thúc đẩy sự 
tăng trưởng và phát triển của DNNVV; tăng 
cường lợi ích kinh tế và xã hội của các doanh 
nghiệp và người lao động tại các DNNVV; 
khắc phục những bất lợi mà các DNNVV gặp 
phải; hỗ trợ tính tự lực của các DNNVV. Các 
chính sách hỗ trợ các DNNVV của Nhật 
được phân thành hai nhóm chính. Một là, 
hỗ trợ tăng cường năng lực kinh doanh của 
các DNNVV. Hai là, hỗ trợ cho việc thay đổi 
cơ cấu doanh nghiệp. Từ năm 1980, Liên 
đoàn doanh nghiệp nhỏ được thành lập, với 
chức năng chính là thực hiện là toàn bộ 
các chính sách giúp đỡ DNNVV thông qua 
thúc đẩy việc hiện đại hóa và nâng cấp cơ 
cấu DNNVV, nâng cao khả năng của DNNVV 
nhờ phát triển công nghệ kỹ thuật; giúp đỡ 
DNNVV trong các nỗ lực hoạt động kinh 
doanh quốc tế, giúp DNNVV đào tạo nguồn 
nhân lực. Bên cạnh đó, Liên đoàn các doanh 
nghiệp nhỏ của Nhật còn thực hiện các chức 
năng sau: Hướng dẫn và tài trợ cho các dự án 
nâng cấp doanh nghiệp; đào tạo cán bộ công 
nhân tại Học viện quản lý và công nghệ 
DNNVV; cung cấp dịch vụ thông tin, nâng 
cấp kỹ thuật và hỗ trợ cho việc quốc tế hóa ... ải tiến quản lý của các doanh nghiệp 
nhỏ được áp dụng với các doanh nghiệp 
không đòi hỏi phải có thế chấp hoặc bảo lãnh; 
hệ thống bảo lãnh tín dụng nhận bảo lãnh 
cho các DNNVV vay vốn tại các thể chế 
tài chính tư nhân. Còn Hiệp hội bảo lãnh 
tín dụng có chức năng mở rộng các khoản tín 
dụng bổ sung và bảo lãnh tín dụng cho 
các DNNVV. Hệ thống bảo lãnh đặc biệt, đã 
hoạt động từ năm 1998, có chức năng như một 
mạng lưới an toàn, nhằm giảm nhẹ những rối 
loạn về tín dụng và góp phần làm giảm các vụ 
phá sản của DNNVV. 
- Củng cố và phát triển nguồn cung tài trợ 
cho DNNVV bằng các biện pháp như: Chính 
phủ cho vay trực tiếp, chủ yếu là các khoản 
vay dài hạn không có lãi hoặc lãi suất rất thấp 
để nâng cao trình độ công nghệ, phương tiện 
hiện đại phục vụ sản xuất kinh doanh. Cho vay 
thông qua các cơ quan hỗ trợ của Chính phủ, 
các tổ chức tài chính công liên quan đến hỗ 
trợ phát triển DNNVV như Hội đồng tài chính 
DNNVV, Hội đồng tài chính nhân dân, Ngân 
hàng trung ương của các hợp tác xã thương 
mại và công nghiệp.
- Củng cố và phát triển các tổ chức tài chính 
chuyên doanh của khu vực kinh tế tư nhân để 
phục vụ cấp vốn cho DNNVV: Kết hợp với các 
tổ chức tài chính công tổ chức tài chính chuyên 
doanh này tăng khả năng tiếp cận vốn cho 
DNNVV. Kết quả đã thành lập hơn 862 tổ 
chức tài chính phục vụ DNNVV và hơn 4.517 
tổ chức tài chính chuyên trách phục vụ trong 
lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp.
3. Kinh nghiệm phát triển các DNVVN 
của Hàn Quốc
 Vào đầu những năm 1980, Hàn Quốc 
đã thực hiện các chính sách khuyến khích 
DNNVV phát triển, qua đó DNNVV trở thành 
những doanh nghiệp vệ tinh cung cấp bán 
thành phẩm cho các tập đoàn lớn. Chính phủ 
Hàn Quốc đã ban hành Luật Xúc tiến doanh 
nghiệp hỗ trợ chỉ định một số ngành công 
nghiệp cũng như một số sản phẩm trong các 
ngành công nghiệp này là sản phẩm phụ trợ. 
Luật yêu cầu các doanh nghiệp lớn phải mua 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
25Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
các sản phẩm đã chỉ định này từ bên ngoài 
chứ không được tự sản xuất. Chính phủ Hàn 
Quốc tập trung đầu tư cải thiện những mặt 
yếu kém của các DNNVV, nhằm tăng tính 
cạnh tranh thông qua việc khuyến khích các 
doanh nghiệp loại này đổi mới cơ cấu quản 
lý và vận hành. Hàn Quốc đề ra chính sách 
nhằm thực hiện chiến lược tăng cường hỗ 
trợ phù hợp với đặc tính của từng giai đoạn 
tăng trưởng như: Linh hoạt hóa khởi nghiệp, 
bằng các chính sách như tăng cường đào tạo 
nguồn nhân lực, cải thiện cơ chế quản lý, 
đơn giản hóa thủ tục rút ngắn thời gian 
thành lập, hỗ trợ vốn khởi nghiệp, mặt bằng 
và thuế (ưu tiên cho các doanh nghiệp mạo 
hiểm). Chính phủ đã định hướng lĩnh vực 
ưu tiên phát triển là các ngành công nghiệp 
chế tạo, hình thành loại hình “thung lũng 
Silicon Hàn Quốc” cho DNNVV, hỗ trợ 50% 
chi phí trang thiết bị và giảm thuế doanh 
thu, sử dụng tài sản, đất; nuôi dưỡng và 
thúc đẩy tăng trưởng, chính sách giúp các 
DNNVV có kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước để 
nghiên cứu đổi mới công nghệ phù hợp với 
ngành và phạm vi hoạt động, đồng thời có thể 
tiếp nhận và ứng dụng nhanh những thành 
tựu của nghiên cứu mới vào hoạt động hiện 
hữu. Chính sách thương mại hóa sản phẩm 
gắn liền với chủ trương thực hiện các hợp 
đồng mua sản phẩm của Chính phủ và các 
tập đoàn công nghiệp lớn, trong đó có phần 
hỗ trợ bảo lãnh tín dụng và thiết kế mẫu mã 
thích nghi với thị trường; tăng trưởng - toàn 
cầu hóa, là nhóm giải pháp nhằm ổn định 
nguồn nhân lực, củng cố điều kiện làm việc 
và xây dựng năng lực cạnh tranh toàn cầu. 
Để ổn định nguồn nhân lực cho DNNVV, 
gắn tương lai DNNVV với tương lai của các 
trường đại học và nền kinh tế, Chính phủ đã 
có chủ trương thay đổi nhận thức của giới 
lao động về hoạt động và hướng phát triển 
của DNNVV, bằng các giải pháp hữu hiệu 
như ưu tiên cho sinh viên các trường đại học 
thực tập tại DNNVV (có cộng thêm điểm), 
bổ sung vào chương trình đào tạo các môn 
học về DNNVV; khuyến khích DNNVV tăng 
cường thu nhận chuyên gia nước ngoài.
Tại Hàn Quốc, hệ thống hỗ trợ tài chính 
cho DNNVV bao gồm hệ thống bảo lãnh tín 
dụng trực thuộc Ngân hàng Trung ương, các 
cơ cấu tài chính khác thuộc chính phủ và chính 
sách thuế. Đây là những công cụ đắc lực mà 
chính phủ sử dụng để hỗ trợ DNNVV. 
- Bảo lãnh tín dụng: 
Hệ thống bảo lãnh tín dụng của Hàn Quốc 
được luật hóa từ năm 1961 với mục tiêu là 
giảm nhẹ khó khăn tài chính cho các DNNVV. 
Cho đến nay, hệ thống hỗ trợ tài chính cho 
DNNVV được phân theo ba kênh chính 
gồm: Quỹ bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc, Quỹ 
bảo lãnh tín dụng công nghệ Hàn Quốc và Quỹ 
bảo lãnh tín dụng địa phương. Quỹ bảo lãnh tín 
dụng Hàn Quốc được Chính phủ thành lập 
từ năm 1976 với 50% vốn của Chính phủ, 
30% vốn của ngân hàng thương mại và 20% 
của các định chế tài chính, đến nay, phần vốn 
của Chính phủ chỉ chiếm 20%. Ngoài bảo lãnh 
tín dụng, quỹ này còn cung cấp các dịch vụ 
tư vấn, đào tạo về quản lý đối với nhân lực của 
các DNNVV được quỹ bảo lãnh. Năm 1989, 
Hàn Quốc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng 
công nghệ để triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ 
tài chính cho doanh nghiệp công nghệ mới, 
chuyên cung cấp các dịch vụ bảo lãnh tín dụng 
đối với doanh nghiệp, đặc biệt ưu tiên cho các 
DNNVV có triển vọng tốt, ứng dụng công 
nghệ sạch nhưng không đủ tài sản đảm bảo.
- Thực hiện chính sách hoàn thuế đối với 
các DNNVV:
Chính sách này được thực hiện từ năm 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
26 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
1980, trong đó tập trung vào những doanh 
nghiệp đầu tư và nghiên cứu phát triển sản 
phẩm mới, bao gồm: hoàn lại 15% chi phí 
đầu tư cho nghiên cứu phát triển và đào 
tạo nguồn nhân lực; miễn thuế VAT, thuế 
trước bạ đối với nhà cửa và đất đai phục vụ 
các mục tiêu nghiên cứu phát triển.
4. Một số kinh nghiệm nhằm phát triển 
các DNNVV tại Việt Nam
4.1. Hoàn thiện khung pháp lý, môi 
trường kinh doanh
Việt Nam đã xây dựng các chính sách hỗ 
trợ phát triển loại hình doanh nghiệp này gồm 
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 
về trợ giúp phát triển DNNVV thay thế Nghị 
định số 90/2001/NĐ-CP 23/10/2001 của 
Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV. 
Tiếp đến, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 
số 22/NQ-CP ngày 05/5/2010 về việc triển 
khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP 
nhằm triển khai thực hiện tích cực, đồng bộ 
các chính sách trợ giúp phát triển và phát huy 
mọi khả năng và nguồn lực đẩy mạnh hoạt 
động sản xuất kinh doanh của DNNVV. Để 
đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao năng 
lực cạnh tranh của DNNVV, tạo môi trường 
đầu tư và kinh doanh thuận lợi, lành mạnh để 
các doanh nghiệp này góp phần ngày càng 
cao vào phát triển kinh tế, nâng cao năng lực 
cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc 
tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết 
định số 1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 về Phê 
duyệt Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ 
và vừa giai đoạn 2011 - 2015.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục thực 
hiện các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ 
mô, đảm bảo môi trường ổn định cho cộng 
đồng DN nâng cao hiệu quả kinh doanh, yên 
tâm đầu tư lâu dài. Các Bộ ngành tổ chức 
hướng dẫn triển khai các văn bản luật quan 
trọng liên quan đến môi trường pháp lý cho 
doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp, Luật 
Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Phá sản, Luật 
Hải quan...) nhằm đảm bảo môi trường kinh 
doanh ổn định, thuận lợi cho doanh nghiệp. 
Các Bộ ngành, Chính quyền địa phương cần 
thực hiện các giải pháp mạnh mẽ nhằm cải 
cách triệt để các thủ tục hành chính thông 
qua ứng dụng công nghệ thông tin vào quản 
lý nhằm đơn giản hóa, công khai minh bạch 
quy trình thủ tục, giảm thời gian và chi phí 
tuân thủ cho doanh nghiệp. Cần khẩn trương 
đánh giá, tổng kết, tổ chức nhân rộng mô 
hình trung tâm hành chính công ra cả nước, 
tiến tới áp dụng mô hình dịch vụ công; đặc 
biệt tập trung vào các lĩnh vực: gia nhập thị 
trường, xuất nhập khẩu, thuế, đất đai, đầu tư, 
xây dựng, hải quan, giấy phép kinh doanh. 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương rà soát 
danh mục các lĩnh vực đầu tư kinh doanh 
có điều kiện, hệ thống hoá, công khai minh 
bạch các điều kiện để tháo gỡ khó khăn trong 
việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh cho 
doanh nghiệp.
4.2. Hỗ trợ DNNVV tiếp cận tài chính, tín 
dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Do đặc điểm của các DNNVV là ít vốn, 
các điều kiện để vay vốn ngân hàng thường 
không được thỏa mãn, đặc biệt là điều kiện 
thế chấp tài sản. Do đó, việc mở rộng hình 
thức cho thuê tài chính về máy móc, thiết bị 
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV, 
giải quyết các khó khăn về vốn trung và dài 
hạn cho các DNNVV, giúp các DNNVV nâng 
cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh 
tranh tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. 
Hoạt động cho thuê tài chính mang lại lợi ích: 
Góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế, 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
27Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, 
cải tiến khoa học kỹ thuật, người thuê mua tài 
chính có thể gia tăng năng lực sản xuất trong 
điều kiện hạn chế về vốn và đầu tư,...
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần 
tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ 
khó khăn cho sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp như: Trên cơ sở bám sát diễn biến 
của lạm phát và kinh tế vĩ mô, điều hành lãi 
suất theo hướng duy trì mức lãi suất thấp, ưu 
đãi hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn. Ngân 
hàng Nhà nước tiếp tục chỉ đạo các tổ chức 
tín dụng, ngân hàng thương mại chủ động tiếp 
cận DNNVV để tư vấn cho vay các dự án, 
phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, 
mở rộng loại hình cho vay dựa trên tín chấp 
và phương án kinh doanh. Khuyến khích các 
ngân hàng thương mại áp dụng hình thức đánh 
giá tín nhiệm doanh nghiệp để mở rộng cho 
vay tín chấp đối với các doanh nghiệp có dự 
án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, cơ 
cấu lại các khoản vay vốn lãi suất cao trước 
đây. Bên cạnh nguồn vốn tín dụng ngân hàng, 
Bộ Tài chính chỉ đạo đẩy mạnh triển khai các 
hoạt động hỗ trợ DNNVV thông qua Quỹ bảo 
lãnh tín dụng tại Ngân hàng phát triển và hệ 
thống Quỹ Bảo lãnh tín dụng tại địa phương. 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đẩy nhanh đưa Quỹ 
Phát triển DNNVV vào hoạt động hỗ trợ phát 
triển doanh nghiệp.
4.3. Cải cách, hỗ trợ về thuế đối với các 
DNNVV
Hệ thống thuế Việt Nam đã có nhiều cải 
tiến theo hướng đảm bảo công bằng cho các 
thành phần kinh tế tuy nhiên vẫn còn những 
khó khăn nhất định: thời gian miễn giảm thuế 
cho các DNNVV còn ngắn so với các doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuế suất 
và cách tính còn phức tạp, còn nhiều loại thuế 
và lệ phí,...Để giải quyết những khó khăn đó, 
trước mắt cần phải đơn giản hóa chế độ kế 
toán cho phù hợp với trình độ kế toán của 
DNNVV, xóa bỏ những đóng góp ngoài thuế, 
khi có luật thuế thay đổi cần có sự đào tạo, tập 
huấn cho cán bộ thuế, cán bộ kế toán cũng như 
chủ doanh nghiệp để nâng cao nhận thức và 
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ nộp thuế 
và đặc biệt phải xây dựng những chính sách 
thuế phù hợp với đặc thù của DNNVV và cần 
dành những ưu đãi để khuyến khích các chủ 
thể kinh tế hướng theo mục tiêu nhà nước dự 
định, ví dụ như có thể có những ưu đãi thuế 
cho những ngành nghề được khuyến khích 
phát triển dành cho các DNNVV ở những địa 
bàn khó khăn, vùng sâu vùng xa,...
4.4. Cần có sự phối hợp giữa các bộ, ban 
ngành nhằm hỗ trợ DNNVV đổi mới công 
nghệ, phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh 
hình thành các cụm liên kết, cụm ngành 
công nghiệp, tăng cường cung cấp thông tin, 
xúc tiến mở rộng thị trường
Con người và công nghệ là yếu tố quan 
trọng, giữ vai trò quyết định trong phát triển 
nền kinh tế xã hội, nó cũng là động lực tăng 
trưởng kinh tế, và là nhân tố chuyển đổi cơ 
cấu sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh 
trên thị trường. Hiện nay, những chủ trương 
chính sách về công nghệ đối với DNNVV đều 
được vận dụng chung từ những chủ trương, 
chính sách chung của nhà nước đối với tất cả 
các doanh nghiệp. Do đó, để có thể giúp các 
DNNVV tiếp cận lĩnh vực công nghệ tiên tiến 
và đầu tư đổi mới công nghệ tương thích với 
định hướng phát triển của nhà nước cần phải 
thành lập các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật và tư 
vấn, xây dựng chính sách tạo lập mối quan 
hệ thiết thực giữa cơ quan nghiên cứu với các 
doanh nghiệp, hỗ trợ về vốn cho các doanh 
nghiệp thay đổi công nghệ...
Đối với các bộ, đặc biệt là Bộ Khoa học 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
28 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
Công nghệ cần tập trung chỉ đạo, đẩy nhanh 
tiến độ triển khai các chương trình chuyển 
giao, đổi mới công nghệ, chương trình nâng 
cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng 
hóa, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, 
phổ biến, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật 
tiên tiến tới các DNNVV, khuyến khích hợp 
tác và chia sẻ công nghệ giữa DNNVV với 
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu 
tư nước ngoài, khuyến khích DNNVV tham 
gia các chương trình liên kết ngành, liên kết 
vùng và phát triển công nghiệp hỗ trợ. Các Bộ 
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Công 
thương tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu 
quả các chương trình đào tạo nguồn nhân 
lực; hỗ trợ pháp lý khuyến công dựa trên các 
kết quả tích cực đã đạt được trong giai đoạn 
vừa qua cho DNNVV. Bộ Giáo dục và Đào 
tạo cần khẩn trương hoàn thành Đề án về 
cơ chế hợp tác nhà trường và doanh nghiệp 
trong đào tạo nguồn nhân lực, đưa vào triển 
khai trong năm 2015. Bên cạnh đó, cần đẩy 
nhanh tiến độ trình Chính phủ ban hành các 
văn bản hướng dẫn quy định về chính sách 
ưu đãi đối với doanh nghiệp nhỏ khi tham gia 
đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm 
và xây lắp theo quy định tại Điều 14, Luật 
Đấu thầu số 43/2013/QH13. UBND các tỉnh, 
thành phố trực thuộc trung ương xây dựng và 
thực hiện cơ chế “một cửa” hỗ trợ thủ tục đầu 
tư cho DNNVV từ việc tiếp nhận hồ sơ đến 
việc giải quyết tập trung các thủ tục đầu tư, 
đất đai, xây dựng. Bộ Công Thương rà soát 
công tác quản lý thị trường, kiên quyết xử 
lý vấn đề hàng nhái, hàng kém chất lượng, 
giá rẻ từ bên ngoài, phá vỡ tính lành mạnh 
của thị trường. Tiếp tục thực hiện tốt các hoạt 
động xúc tiến thương mại quốc gia và hỗ trợ 
công nghiệp địa phương theo kế hoạch đã 
được phê duyệt.q 
Tài liệu tham khảo
1. Cục phát triển Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo kế hoạch sắp xếp doanh 
nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2015.
2. Cục phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sách trắng Doanh nghiệp vừa và 
nhỏ Việt Nam, 2014
3. Nguyễn Thế Bính, Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp 
nhỏ và vừa và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Hội nhập và phát triển tháng 09-10/2013.
4. Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ: Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ 
và vừa.
5. Quyết định số 1231/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07/9/2012 về Phê duyệt Kế 
hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011 - 2015.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_cac_doanh_nghiep_nho_va_vua_o_han_quoc_nhat_ban_v.pdf