Phát triển nghề nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình

TÓM TẮT

Bên cạnh chức năng chủ yếu là tạo nguồn nước cho sản xuất điện năng, hồ thuỷ điện Hoà Bình còn tạo ra nhiều

tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội, trong đó có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói chung và nghề

nuôi cá lồng nói riêng. Nghiên cứu này thực hiện khảo sát hiện trạng phát triển nghề nuôi cá lồng và phỏng vấn

203 hộ sản xuất trực tiếp để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp phát triển bền vững nghề này trên vùng

hồ thuỷ điện Hoà Bình. Kết quả phân tích cho thấy địa phương đã có nhiều giải pháp và đã có những thành

công trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh, phát huy các điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nuôi cá lồng

trên địa bàn. Thông qua việc sử dụng phương pháp phân tích định lượng, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra và lượng

hoá được một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả nuôi của các hộ nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện

Hòa Bình. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp phát triển nghề nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy

điện Hòa Bình bao gồm: Nâng cao năng lực cho các hộ nuôi cá; Hoàn thiện chính sách khuyến khích; Tăng

cường khả năng tiếp cận vốn; Mở rộng và nâng cao chất lượng các liên kết kinh tế; Tăng cường công tác kiểm

soát môi trường.

Từ khóa: Hàm sản xuất Cobb-douglas, nghề nuôi cá lồng, vùng hồ thủy điện Hòa Bình.

pdf 10 trang Bích Ngọc 05/01/2024 1380
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển nghề nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nghề nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình

Phát triển nghề nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 191 
PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI CÁ LỒNG TẠI 
VÙNG HỒ THỦY ĐIỆN HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH 
Lưu Thị Thảo, Lê Đình Hải 
Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Bên cạnh chức năng chủ yếu là tạo nguồn nước cho sản xuất điện năng, hồ thuỷ điện Hoà Bình còn tạo ra nhiều 
tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội, trong đó có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói chung và nghề 
nuôi cá lồng nói riêng. Nghiên cứu này thực hiện khảo sát hiện trạng phát triển nghề nuôi cá lồng và phỏng vấn 
203 hộ sản xuất trực tiếp để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp phát triển bền vững nghề này trên vùng 
hồ thuỷ điện Hoà Bình. Kết quả phân tích cho thấy địa phương đã có nhiều giải pháp và đã có những thành 
công trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh, phát huy các điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nuôi cá lồng 
trên địa bàn. Thông qua việc sử dụng phương pháp phân tích định lượng, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra và lượng 
hoá được một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả nuôi của các hộ nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện 
Hòa Bình. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp phát triển nghề nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy 
điện Hòa Bình bao gồm: Nâng cao năng lực cho các hộ nuôi cá; Hoàn thiện chính sách khuyến khích; Tăng 
cường khả năng tiếp cận vốn; Mở rộng và nâng cao chất lượng các liên kết kinh tế; Tăng cường công tác kiểm 
soát môi trường... 
Từ khóa: Hàm sản xuất Cobb-douglas, nghề nuôi cá lồng, vùng hồ thủy điện Hòa Bình. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nuôi cá lồng là một hình thức nuôi trồng 
thủy sản được phát triển mạnh trong những 
năm gần đây. Với nhiều ưu điểm so với nuôi 
trong ao như nước thường xuyên thay đổi nên 
có thể nuôi cá ở mật độ cao; môi trường nuôi 
cá sạch, không bị ô nhiễm bởi các chất thải của 
cá nên cá lớn nhanh; hao hụt ít, hạn chế được 
dịch hại; quản lý, chăm sóc, thu hoạch thuận 
lợi; năng suất cao Nuôi cá lồng không chỉ 
đóng vai trò quan trọng đối với việc gia tăng 
thu nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện 
đời sống người dân mà còn giúp tái tạo và bảo 
vệ nguồn gen, kiểm soát tốt hơn môi trường 
sinh thái. 
Vùng hồ thủy điện Hòa Bình hội tụ nhiều 
lợi thế để phát triển nghề nuôi cá lồng, là vùng 
có điều kiện khí hậu, sinh thái và hệ thuỷ văn 
thuận lợi, rất phù hợp với nghề nuôi trồng và 
đánh bắt thuỷ sản. Lực lượng lao động trong 
vùng khá dồi dào, đã có kinh nghiệm trong sản 
xuất và đã mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học 
kỹ thuật và đưa các giống mới có giá trị kinh tế 
vào sản xuất nên đã góp phần năng cao năng 
suất, giá trị và hiệu quả sản xuất. Tính đến năm 
2018, toàn vùng lòng hồ Hoà Bình đã có 4.300 
lồng cá hoạt động (tương đương 260.000m3) 
và đã tạo cho người dân địa phương một hướng 
phát triển sinh kế hết sức quan trọng, đem lại 
nhiều lợi ích về kinh tế - xã hội cho khu vực 
(Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2017). 
Tuy nhiên, quá trình phát triển nghề nuôi cá 
lồng tại khu vực cũng còn bộc lộ nhiều bất cập 
như: sự phát triển còn manh mún, nhỏ lẻ chưa 
tương xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có, 
các loài cá nuôi còn đơn điệu, hình thức nuôi 
chủ yếu là quảng canh và quảng canh cải tiến 
(chiếm tỷ lệ trên 90% tổng diện tích NTTS của 
vùng); kỹ thuật nuôi trồng chưa được nghiên 
cứu hoàn thiện, các yếu tố về tổ chức sản xuất 
và phát triển thị trường còn chưa đồng bộ 
Những tồn tại này đang ảnh hưởng không tốt 
tới tính hiệu quả và tính bền vững trong quá 
trình phát triển nghề nuôi cá lồng trong khu 
vực và cần có những giải pháp đồng bộ để 
khắc phục. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Phương pháp nghiên cứu 
Kinh tế & Chính sách 
192 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 
2.1.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu 
Các số liệu thứ cấp về hoạt động nuôi cá 
lồng trên địa bàn được tổng hợp qua hệ thống 
cơ sở dữ liệu, các báo cáo chuyên đề của các 
cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh Hòa Bình 
và các huyện ven hồ. 
Thông tin sơ cấp được thu thập chủ yếu 
thông qua việc điều tra, khảo sát trực tiếp bằng 
các phiếu phỏng vấn và bảng hỏi đối với các 
tác nhân tham gia trực tiếp vào quá trình nuôi 
cá lồng trên địa bàn. 
* Dung lượng mẫu điều tra: 
Dung lượng mẫu chính thức: Nhóm nghiên 
cứu áp dụng công thức xác định số mẫu trong 
trường hợp đã biết tổng thể (Yamane, 1967) 
như sau: 
 =

1 +  × 
N: Tổng thể nghiên cứu; 
n: số mẫu được chọn; 
e: Sai số cho phép, thông thường để đảm 
bảo mức độ tin cậy trong nghiên cứu 95% thì 
sai số chấp nhận được là 5%. 
Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn 3 xã 
(Thái Thịnh, Ngòi Hòa, Vầy Nưa) thuộc 3 
huyện (TP Hòa Bình, Tân Lạc, Đà Bắc) có số 
hộ nuôi cá lồng lớn nhất trong vùng. Tổng số 
hộ nuôi cá lồng của cả 3 xã là 374 hộ nên áp 
dụng công thức xác định dung lượng mẫu của 
Yammane, số mẫu tối thiểu được chọn là: 
 =
374
1+374×0,052
=193 
* Cách thức chọn mẫu điều tra 
Việc lựa chọn đối tượng khảo sát được tiến 
hành theo phương pháp ngẫu nhiên phân tầng 
sau đó chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện. 
Mẫu thu thập theo quy tắc: Quy mô số lồng 
nuôi của các hộ tại 3 huyện nuôi cá lồng của 
vùng. Nếu mẫu thu về đạt trên 80% so với kế 
hoạch thì chấp nhận kết quả còn nếu chưa đạt 
tiến hành điều tra bổ sung đến khi đạt tỷ lệ 
trên. Nghiên cứu đã chọn 210 hộ nuôi cá lồng, 
phân bố trên 3 xã điển hình của vùng hồ thuỷ 
điện Hoà Bình theo các quy mô nuôi khác 
nhau và tiến hành điều tra, kết quả thu về được 
203 mẫu đạt yêu cầu và được thể hiện trên 
bảng 1. 
Bảng 1. Cơ cấu mẫu điều tra 
Đơn vị tính: Hộ 
Tiêu chí Thái Thịnh Ngòi Hoa Vầy Nưa Tổng 
Quy mô số 
lồng nuôi 
Từ 1-3 lồng 18 27 27 72 
Từ 4-6 lồng 16 34 20 70 
trên 7 lồng 15 27 19 61 
Tổng 49 88 66 203 
2.1.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 
Các số liệu được xử lý trên phần mềm 
SPSS 23. 
Việc phân tích số liệu được thực hiện qua 
các phương pháp thống kê chủ yếu như thống 
kê mô tả, so sánh để làm rõ thực trạng phát 
triển nghề nuôi cá lồng trên địa bàn và thực 
trạng kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh 
của các hộ trên địa bàn. 
Hàm Cobb-Douglas được sử dụng trong 
nghiên cứu để phân tích ảnh hưởng của việc sử 
dụng các yếu tố đầu vào đến năng suất cá lồng 
của các hộ điều tra. Mô hình đề xuất trong 
nghiên cứu này có dạng sau: 
Y = A X1
α1 X2
α2 X3
α3 X4
α4 X5
α5X6
α6X7
α7
e
α8D1
e
ui 
 (1) 
Trong đó: 
Y là năng suất cá lồng (tấn/ha). 
Các biến đầu vào ảnh hưởng đến năng suất 
cá lồng và kỳ vọng dấu của các biến độc lập 
được thể hiện qua bảng 2. 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 193 
Bảng 2. Bảng mô tả và kỳ vọng dấu các biến độc lập trong mô hình 
STT 
Mã hóa 
biến 
Diễn giải 
Kỳ vọng 
dấu 
1 X1 Mật độ thả giống (con/m3) + 
2 X2 Kinh nghiệm nuôi (năm nuôi cá lồng) + 
3 X3 Chi phí thức ăn (triệu đồng/m3) - 
4 X4 Chi phí lao động (triệu đồng/m3 lồng nuôi/vụ nuôi) - 
5 X5 Thể tích lồng nuôi (m3) + 
6 X6 Trình độ học vấn (số năm đi học) + 
7 X7 Khoảng cách giữa các lồng (m) + 
8 D1 
Tập huấn trong nuôi trồng thủy sản 
 (D1 = 1 là hộ đã được tham gia tập huấn về nuôi cá lồng 
 D1 = 0 là hộ chưa được tập huấn về nuôi cá lồng) 
+ 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Thực trạng phát triển nghề nuôi cá lồng 
ở vùng hồ thủy điện Hòa Bình 
3.1.1. Tình hình xây dựng và thực hiện quy 
hoạch phát triển nuôi cá lồng 
Tình trạng phát triển thuỷ sản nói chung và 
nuôi cá lồng nói riêng trên địa bàn vùng hồ 
thủy điện Hòa Bình đang diễn ra một cách tự 
phát, phân tán, nhỏ lẻ, thiếu tập trung. Thêm 
vào đó, yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng 
cao về chất lượng thực phẩm, trong đó có thực 
phẩm thủy sản và họ tập trung quan tâm nhiều 
vào vấn đề như an toàn thực phẩm, truy xuất 
nguồn gốc, bảo vệ môi trường sinh thái 
Nhưng hiện nay, tỉnh Hòa Bình vẫn chưa định 
hình một cách rõ nét những vùng nuôi trồng 
thủy sản tập trung để tạo ra được khối lượng 
hàng hóa lớn và đảm bảo chất lượng vệ sinh an 
toàn thực phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ 
sản phẩm thủy sản. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho 
phát triển ngành thủy sản của tỉnh và việc tổ 
chức, quản lý đảm bảo an toàn vệ sinh thực 
phẩm đối với sản phẩm thủy sản còn hạn chế. 
Vì vậy, nếu không sớm định hướng quy hoạch 
phát triển ngành thủy sản của tỉnh một cách 
đúng đắn, khoa học sẽ không phát huy được 
tiềm năng, lợi thế sẵn có mà còn kìm hãm sự 
phát triển ngành thủy sản của tỉnh Hòa Bình. 
Hiện nay, nuôi cá lồng ở Vùng hồ thủy điện 
Hòa bình tập trung ở ba huyện: Đà Bắc, TP 
Hòa Bình, Tân Lạc. Dựa theo kế hoạch phát 
triển cá lồng trên sông và hồ chứa giai đoạn 
2015 - 2020 của tỉnh Hòa Bình, Vùng sẽ tiếp 
tục phát triển nuôi cá lồng trên sông Đà. Điều 
này cho thấy vùng hồ thủy điện Hòa Bình là 
vùng có lợi thế rất lớn trong phát triển nuôi cá 
lồng. Trong những năm tới, được sự quan tâm 
chỉ đạo của tỉnh, các huyện vùng hồ sẽ là 
những địa phương đi đầu trong phát triển nuôi 
cá lồng của toàn tỉnh Hòa Bình. 
3.1.2. Thực trạng phát triển về quy mô nghề 
nuôi cá lồng ở vùng hồ thủy điện Hòa Bình 
Vùng hồ thủy điện Hòa Bình có vị trí địa lý 
hết sức thuận lợi cho việc phát triển kinh tế về 
nông nghiệp. Được sự quan tâm chỉ đạo của 
tỉnh, huyện, các cấp, các ngành trong lĩnh thuỷ 
sản, các hộ dân sản xuất, kinh doanh theo 
nhiều hình thức khá phong phú. Nuôi cá lồng 
đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận và 
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu 
kinh tế của các huyện ven Hồ. Kết quả tổng kết 
tình hình nuôi cá lồng của các huyện ven hồ 
qua 03 năm từ 2015 đến 2017 được thể hiện 
qua bảng 3. 
Từ bảng 3 cho thấy, số lượng lồng cá của 
vùng tăng mạnh trong 3 năm, cụ thể từ năm 
2015, số lồng cá trên địa bàn huyện chỉ có 
2.293 lồng. Đến năm 2016 tăng lên 3.482 lồng 
và năm 2017, số lượng lồng tăng mạnh lên 
3.890 lồng đạt tốc độ phát triển bình quân 
130,25%. 
Kinh tế & Chính sách 
194 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 
Bảng 3. Quy mô phát triển nghề nuôi cá lồng của vùng hồ Thủy điện Hòa Bình 
Chỉ tiêu ĐVT 2015 2016 2017 ΘBQ(%) 
Tổng số lồng nuôi Lồng 2.293 3.482 3.890 130,25 
Năng suất Tấn/lồng 0,90 0,91 0,82 95,45 
Sản lượng Tấn 2.072,1 3.162,5 3.172,6 123,74 
Tổng giá trị sản xuất Tr.đ 120.096 134.893 145.231 109,97 
Giá trị sản xuất bình quân Tr.đ/lồng 52,38 38,74 37,33 84,42 
Một số địa phương có lợi thế mặt nước, 
được sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền các 
cấp đã chuyển đổi mô hình sản xuất nông 
nghiệp từ trồng trọt, chăn nuôi truyền thống 
sang phát triển thuỷ sản, trong đó có nghề nuôi 
cá lồng. Do vậy, sản lượng và giá trị sản xuất 
của cá lồng có xu thế tăng đáng kể và khá đều 
đặn trong những năm gần đây. 
Trong những năm tới, khi người dân tiếp 
cận được với nhiều chính sách đầu tư phát triển 
nuôi cá lồng, đây sẽ là một trong những ngành 
mang lại nguồn thu nhập làm giàu chính đáng, 
góp phần thay đổi bộ mặt của vùng hồ thủy 
điện Hòa Bình nói chung và địa phương trong 
vùng nói riêng. 
Năng suất và sản lượng của các loại cá nuôi 
lồng là khác nhau. Nhìn vào bảng 4 ta thấy, cá 
Lăng là giống cá cho sản lượng cao nhất. Một 
số giống cá mới như cá Nheo cho năng suất 
0,95 tấn/lồng, cá Trắm cỏ 0,81 tấn/lồng; cá 
Chép lai 0,74 tấn/lồng. Trong tương lai, cá 
Lăng và cá Nheo sẽ là giống cá đặc sản được 
người tiêu dùng ưa chuộng, mang lại giá trị 
kinh tế cao. 
Bảng 4. Năng suất, sản lượng của các loại cá nuôi lồng ở vùng hồ thủy điện Hòa Bình năm 2017 
STT Loại cá Số lượng lồng 
Năng suất 
(tấn/lồng) 
Sản lượng 
(tấn) 
1 Trắm đen 934 0,59 555,46 
2 Rô phi đơn tính 500 0,37 185,01 
3 Chép lai 354 0,74 260,96 
4 Diêu hồng 825 0,66 545,01 
5 Lăng 727 1,61 1.171,89 
6 Nheo lai 59 0,95 56,02 
7 Trắm cỏ 491 0,81 398,25 
8 Tổng 3.890 
3.1.3. Tình hình phát triển các liên kết kinh tế 
trong kinh doanh cá lồng 
Trong những năm gần đây, việc phát triển 
các liên kết kinh tế theo hướng tạo chuỗi liên 
kết cho nghề nuôi cá lồng đã được các địa 
phương quan tâm và đã có một số dự án liên 
kết được triển khai trên thực tế. 
Dự án liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm 
cá đặc sản sông Đà được triển khai trong 2 
năm 2017 - 2018 trên địa bàn 5 huyện, thành 
phố. Trong đó, tại thành phố Hòa Bình có 2 cơ 
sở tham gia là Công ty TNHH thủy sản Hải 
Đăng và Công ty TNHH xây dựng và dịch vụ 
Cường Thịnh với quy mô 240 lồng, sản lượng 
khoảng 700 tấn/ha. Tại huyện Đà Bắc là đại 
diện HTX dịch vụ sản xuất - kinh doanh nông, 
lâm nghiệp Hiền Lương với 6 hộ tham gia, quy 
mô 93 lồng cá, sản lượng 300 tấn/ha. 
Các sản phẩm được sản xuất theo chuỗi 
theo dự án này là các loại cá đặc sản như lăng 
đen, lăng vàng; lăng chấm, ngạnh, tầm; các 
loại cá truyền thống như: trắm, chép, rô phi. 
Các cơ sở, hộ gia đình được hỗ trợ tập huấn, 
kinh phí mua con giống, hướng dẫn áp dụng 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 195 
quy phạm thực hành sản xuất VietGap và các 
quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm 
(ATVSTP); hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng 
bá tiêu thụ sản phẩm Các hộ và cơ sở cam 
kết thực hiện các quy định bảo đảm ATVSTP, 
thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường 
trong việc nuôi cá lồng bè. 
Việc tổ chức nuôi trồng, đánh bắt thủy sản 
trên sông gắn với bảo vệ môi trường nguồn 
nước đã và sẽ là một hướng đi đúng, một mũi 
kinh tế sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong 
kinh tế nông lâm thủy sản những huyện ven 
vùng hồ thủy Điện Hòa Bình. Để nghề này 
ngày càng phát triển hiệu quả, bền vững mang 
tính chuyên nghiệp rất cần có sự kết hợp, liên 
kết chặt chẽ hơn nữa 4 nhà: Nhà nước, Nhà 
nông, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp. 
3.1.4. Các chính sách khuyến khích phát 
triển nghề nuôi cá lồng trên địa bàn 
Phát triển thuỷ sản nói chung và phát triển 
nghề nuôi các lồng nói riêng đã được tỉnh Hoà 
Bình xác định là một chương trình nông nghiệp 
trọng điểm, và đã ban hành một số chính sách 
khuyến khích phát triển cụ thể. Các chính sách 
khuyến khích phát triển nghề này tại tỉnh Hoà 
Bình đã được thể hiện khá rõ nét trong 2 văn 
bản cụ thể sau đây của UBND tỉnh: 
Quyết định số 3124/QĐ-UBND về rà soát, 
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển thủy 
sản tỉnh Hòa Bình đến năm 2020 và định 
hướng đến năm 2030 với hệ thống các chính 
sách hỗ trợ về giống, nâng cấp hạ tầng sản 
xuất; 
Quyết định số 10/2015/QĐ-UBND “Quy 
định một số chính sách hỗ trợ khuyến khích 
phát triển nuôi cá lồng vùng hồ thủy điện Hòa 
Bình giai đoạn 2015 - 2020” để khai thác tiềm 
năng mặt nước và nâng cao giá trị sản phẩm, 
kích thích sản suất phát triển, đồng thời kịp 
thời hỗ trợ người sản xuất. 
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất cá 
lồng của các hộ điều tra tại vùng hồ Hòa 
Bình 
Kết quả ước lượng mô hình các nhân tố ảnh 
hưởng tới năng suất cá lồng tại vùng hồ thủy 
điện Hòa bình được thể hiện trên bảng 5. 
Bảng 5. Kết quả hồi quy các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất cá lồng 
Model R R2 R2 đã điều chỉnh 
Sai số tiêu chuẩn của 
ước lư ... ụ cá lồng của các hộ gặp nhiều khó 
khăn, đặc biệt là vào chính vụ thu hoạch giá cả 
bấp bênh, tư thương ép giá dẫn đến thu nhập 
thấp và tâm lý người nuôi bị ảnh hưởng. 
Trình độ học vấn: Thể hiện tư duy, nhận 
thức và kiến thức trong việc nuôi cá lồng. Kết 
quả khảo sát thực tế cho thấy số lao động có 
trình độ cấp 2 là chủ yếu, một phần lớn do các 
hộ ở đây có độ tuổi trên dưới 40 tuổi, sống 
trong giai đoạn khó khăn của cả đất nước, một 
phần nhận thức về giá trị của việc học của 
người dân chưa cao, câu hỏi lớn đặt ra là nó có 
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả nuôi cá lồng của 
họ hay không? Và điều có thể nhận ra ngay đó 
là nó sẽ ảnh hưởng đến nhận thức, khả năng 
tiếp thu và nhạy bén trong việc nắm bắt những 
thay đổi của thị trường sẽ không cao. Ở đây có 
cả lao động có trình độ Đại học, Cao đẳng 
nhưng chiếm tỷ lệ rất ít. Nhưng điều đó cũng 
thể hiện việc nuôi cá lồng ở vùng đang dần trở 
nên quan trọng, không chỉ biến đổi về số lượng 
mà còn về chất lượng. 
Kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của 
người sản xuất: Ngoài những bài học sản xuất 
rút ra từ quá trình lao động lâu dài, nhận thấy 
một điều là các hộ nuôi cá lồng rất ít tham gia 
tập huấn, tỉ lệ người được tập huấn chỉ trên 
30%, các hộ nuôi cá lồng vẫn chủ yếu dựa vào 
kinh nghiệm của bản thân và người đi trước, 
nhưng việc không được tham gia tập huấn nên 
nhiều khi cá bị bệnh, rồi công tác chọn giống, 
cách chăm sóc còn nhiều hạn chế, không tiếp 
cận được thông tin thị trường một cách sớm 
nhất Vì thế cần nâng cao công tác khuyến 
ngư, tổ chức các lớp tập huấn, tham quan mô 
hình đồng thời cung cấp một cách nhanh 
nhất thông tin thị trường tới người nuôi, giúp 
các hộ có thêm kinh nghiệm nuôi mang lại 
hiệu quả một cách cao nhất. 
Kinh nghiệm nuôi cá lồng là một yếu tố 
quan trọng trong nuôi cá lồng, vì sau mỗi một 
quá trình nuôi người dân sẽ rút ra được những 
bài học kinh nghiệm, chủ động khi khó khăn 
xảy ra, phòng chống dịch bệnh thiên tai. Nuôi 
cá lồng mới được phát triển ở các huyện ven 
hồ thủy điện trong vài năm trở lại đây nên kinh 
nghiệm nuôi cá lồng của các hộ là chưa nhiều. 
Vì thế, yêu cầu đặt ra là các huyện phải tổ chức 
các lớp tập huấn về kỹ thuật nuôi cũng như 
cách chăm sóc để các hộ có đủ kiến thức cũng 
như kỹ năng trong quá trình nuôi cá lồng. 
3.4. Giải pháp phát triển nghề nuôi cá lồng 
vùng hồ thủy điện Hòa Bình 
Việc phát triển nuôi cá lồng ở vùng hồ thủy 
Điện chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau 
thuộc nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội. Các yếu tố 
này có liên quan chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau, 
giải quyết tốt vấn đề này cũng góp phần nâng 
cao hoặc giải quyết một phần các vấn đề khác. 
Thực trạng nuôi cá lồng ở các huyện ven Hồ 
Kinh tế & Chính sách 
198 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 
cho thấy, để phát triển nuôi cá lồng cần phải 
giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. Trong khuôn 
khổ nghiên cứu này, tôi chỉ tập trung nghiên 
cứu, đề ra một số vấn đề chủ yếu, trực tiếp có 
liên quan nhằm khắc phục những tồn tại đã nêu 
đồng thời phát huy tiềm năng, tạo sự phát triển 
mạnh hơn đối với hoạt động nuôi cá lồng nói 
riêng và nuôi trồng thủy sản nói chung ở vùng 
hồ thủy điện Hòa Bình. 
3.4.1. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy 
hoạch phát triển nghề nuôi các lồng 
Trong công tác quy hoạch, cần đặc biệt tập 
trung tới hệ thống các công trình chung phục 
vụ sản xuất như hệ thống thuỷ lợi cho nuôi cá, 
hệ thống điện, giao thông đảm bảo không 
ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất khác ở 
trong vùng, cảnh quan môi trường. 
Kết hợp hài hoà giữa việc đảm bảo các công 
trình thủy lợi với việc tận dụng khai thác mặt 
nước lớn để sản xuất ra sản phẩm xã hội, nhất 
là diện tích trên 6.000 ha diện tích hồ chứa lớn, 
mặt nước chưa có người dùng. Tập trung 
chuyển diện tích đã chuyển đổi sang chuyên 
canh nuôi cá và các biện pháp nâng cao năng 
suất, sản lượng. 
Các huyện ven hồ thủy điện Hòa Bình đã 
quy hoạch và bố trí sản xuất nghề nuôi cá lồng 
về số lượng, định mức kinh tế, kỹ thuật theo 
hướng của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, 
khuyến khích những hộ có kinh nghiệm đã và 
đang phát triển nghề nuôi cá lồng; các hộ có đủ 
điều kiện về tài chính, nhân lực và nhu cầu 
nuôi thả cá lồng đầu tư sản xuất, tập trung 
thành vùng sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, 
các địa phương trong vùng đang đã và đang 
tăng cường thông tin tuyên truyền, tập huấn kỹ 
thuật, xây dựng và nhân rộng các mô hình nuôi 
thâm canh, nuôi giống mới có năng suất, chất 
lượng cao ở các dạng mặt nước. 
3.4.2. Nâng cao năng lực cho các hộ nuôi cá 
lồng 
Các hộ nuôi phải hết sức quan tâm đến việc 
áp dụng kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất của gia 
đình mình. Mặt khác, dưới góc độ của tổ chức 
quản lý sản xuất nông hộ thì mục tiêu sản xuất 
kinh doanh của nông hộ là thu nhập cao so với 
công sức, tiền vốn mà họ bỏ ra. Do vậy, các 
nông hộ phải biết tổ chức và quản lý hoạt động 
sản xuất ngay từ khâu chuẩn bị sản xuất đến tổ 
chức quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 
Để nâng cao trình độ cho người nuôi cá 
lồng trên địa bàn các huyện, Nhà nước và các 
tổ chức chính trị xã hội cần giúp các hộ trong 
việc chuyển giao khoa học kỹ thuật để phổ 
biến kiến thức, giải đáp những khó khăn, thắc 
mắc của các hộ nuôi, phổ biến các quy trình 
công nghệ mới. 
Tăng cường tổ chức các cuộc hội nghị, toạ 
đàm giữa những người nuôi cá lồng, tham quan 
học tập kinh nghiệm trong và ngoài tỉnh. 
Ngoài ra, khuyến khích các hộ nuôi thành 
lập thành các tổ, nhóm, HTX sản xuất theo vị 
trí địa lý. Đây là phương thức có hiệu quả và 
phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. 
3.4.3. Cải thiện khả năng tiếp cận nguồn vốn 
cho hộ nuôi cá lồng 
Theo kết quả điều tra, lượng vốn nuôi cá 
lồng ở các hộ trên địa bàn các huyện ven Hồ 
được huy động từ nhiều nguồn khác nhau 
nhưng chiếm tỷ lệ lớn vẫn là lượng vốn đi vay, 
đặc biệt là vay từ các ngân hàng còn lượng vốn 
của hộ tự có là rất ít. Lượng vốn bình quân mà 
các hộ muốn vay phục vụ cho mục đích phát 
triển nuôi cá lồng là 400 triệu/hộ. Do nuôi cá 
lồng chỉ mới được quan tâm đến trong những 
năm gần đây nên hầu hết các hộ nuôi cá lồng 
đều chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang do đó 
đời sống vẫn còn nhiều khó khăn. Bởi yêu cầu 
lượng vốn lớn không chỉ là vốn ban đầu mà 
còn phải bỏ vốn cải tạo hàng năm mà không ít 
hộ nuôi phải gặp nhiều khó khăn trong việc 
huy động vốn. 
Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ vay vốn 
và khuyến khích hộ nuôi cá tăng cường đầu tư 
thâm canh là cần thiết để nâng cao năng suất 
sản lượng. 
Khuyến khích thành lập các hợp tác xã, 
trang trại NTTS để giúp nhau trong sản xuất 
đồng thời có tư cách pháp nhân thuận lợi hơn 
trong việc vay vốn theo Nghị định 41/NĐ-CP. 
3.4.4. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích 
phát triển nghề nuôi cá lồng 
Kinh tế & Chính sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 199 
Trong những năm vừa qua các chính sách, 
chương trình hỗ trợ phát triển nuôi thuỷ sản 
còn ít. Trong thời gian tới các cơ chế, chính 
sách, chương trình, đề án phát triển nuôi thuỷ 
sản Vùng cần tập trung vào: 
- Chính sách đầu tư: cần phải có chính sách 
đầu tư rõ ràng, đầu tư trọng điểm và có chiều 
sâu. Cụ thể là Nhà nước, tỉnh, huyện nên đầu 
tư nguồn lực kinh tế xây dựng các trung tâm 
giống tại địa phương để người dân có thể yên 
tâm về chất lượng cũng như số lượng con 
giống. Tập trung xây dựng một số nhà máy chế 
biến, bảo quản số lượng cá sau khi thu hoạch 
được tiêu thụ hết. Thực hiện chính sách trợ giá 
đầu vào giống cá cho các hộ gia đình, các hợp 
tác xã, tổ hợp tác nuôi cá lồng; hỗ trợ vay vốn 
tín dụng ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân 
đầu tư cho phát triển sản xuất các giống cá đặc 
sản có giá trị kinh tế cao và chính sách thu hút 
đầu tư đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư vào 
phát triển nuôi cá lồng. Tỉnh cũng cần có 
những cơ chế chính sách để khuyến khích các 
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông 
thôn nói chung và nuôi cá lồng nói riêng như 
tạo điều kiện về thủ tục hành chính, ưu đãi tiền 
thuế, trợ giá giống đầu vào... 
- Chính sách hỗ trợ sản xuất – tiêu thụ: cần 
chú ý tổ chức tốt việc cung cấp các công cụ 
chuyên dùng cho nuôi cá lồng. Công cụ 
chuyên dùng phải đảm bảo yêu cầu của công 
việc và phù hợp với người lao động mới mang 
lại hiệu quả, nâng cao năng suất lao động và 
đảm bảo chất lượng công việc. Hiện còn thiếu 
hệ thống các cửa hàng chuyên bán các dụng cụ 
phục vụ riêng cho việc nuôi cá lồng. Vấn đề thị 
trường đầu ra cũng cần phải được quan tâm 
chú ý, để giải quyết vấn đề thị trường, cần có 
sự kết hợp giữ biện pháp vi mô và vĩ mô, biện 
pháp kinh tế và kỹ thuật. 
3.3.5. Phát triển và nâng cao chất lượng các 
liên kết kinh tế trong nghề nuôi cá lồng 
Việc phát triển nuôi cá có liên quan đến 
nhiều ngành nhiều lĩnh vực khác nhau. Để có 
thể phát triển thuỷ sản một cách bền vững 
thuận lợi cần phải có sự liên doanh liên kết 
giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan nhằm 
phục vụ tốt nhất cho việc phát triển nuôi cá. 
Ngày 24/06/2002, Thủ tướng Chính phủ ban 
hành Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về chính 
sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá 
thông qua hợp đồng - xây dựng mối liên kết "4 
nhà": Nhà nước, Nhà khoa học, Nhà doanh 
nghiệp, Nhà nông. Để tăng cường mối liên 
doanh liên kết, phải có sự liên hệ chặt chẽ với 
các đơn vị trong ngành để làm tốt việc điều tra 
phân vùng, quy hoạch sản xuất và cả trong quá 
trình chỉ đạo sản xuất. Phải có sự kết hợp chặt 
chẽ giữa các ngành Phát triển nông thôn, địa 
chính, tài chính, ngân hàng, giao thông, thuỷ 
lợi, điện lực trong quá trình quy hoạch và thực 
hiện. 
Tăng cường sự hợp tác giúp đỡ nhau giữa 
các hộ nuôi cá lồng thông qua thành lập các tổ 
hợp tác, HTX, trang trại. Thông qua các tổ 
chức tự nguyện này là một cách thức bắt đầu 
công việc, giúp thiết lập các mối liên hệ xã hội 
giúp cho người dân đi đến các thỏa thuận và 
đưa ra tiếng nói chung mạnh mẽ hơn trong việc 
ra quyết định và trong đàm phán với những đối 
tác có nhiều quyền lực hơn, hướng tới các cách 
thức làm tăng hiệu quả cho các hoạt động ở địa 
phương. 
3.3.6. Tăng cường công tác kiểm soát về môi 
trường trong nghề nuôi cá lồng 
Đánh giá tác động môi trường là hoạt động 
khoa học, bằng phương pháp điều tra, nghiên 
cứu, phân tích và dự báo để cảnh báo đề xuất 
các giải pháp công nghệ, quản lý nhằm giảm 
thiểu những tác động bất lợi đối với môi 
trường của các vùng nuôi cá lồng và môi 
trường xung quanh khu vực nuôi cá. Tăng 
cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi 
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, quản lý 
chặt chẽ nguồn nước thải từ các nhà máy, khu 
công nghiệp, cụm công nghiệp khi đổ ra hệ 
thống sông tiêu thụ của huyện, tỉnh. Thực hiện 
định kỳ quan trắc về cảnh báo môi trường ven 
biển, thông báo kịp thời cho người nuôi cá 
lồng về diễn biến môi trường để có phương án 
thu hoạch, bảo vệ cá phù hợp. Thực hiện tốt 
các biện pháp phòng chống gió bão, lũ lụt. 
Thông báo kịp thời diễn biến của thời tiết để 
Kinh tế & Chính sách 
200 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 3 - 2019 
người nuôi cá lồng có phương hướng giải 
quyết kịp thời, tránh những tổn thất không 
đáng có. 
4. KẾT LUẬN 
Việc nghiên cứu thực trạng phát triển nghề 
nuôi cá lồng tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình và 
đề xuất một số giải pháp góp phần phát triển 
nghề nuôi cá lồng trên vùng hồ thủy điện Hòa 
Bình là cần thiết. Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
tình hình nuôi cá lồng của vùng hồ thủy điện 
Hòa Bình hiện nay có nhiều điểm tích cực như 
diện tích nuôi cá lồng và số lượng nuôi cá lồng 
tăng qua các năm. Để có được những bước 
phát triển như vậy là do sự đầu tư, chỉ đạo thực 
hiện của tỉnh, huyện, sự nỗ lực của các hộ 
tham gia nuôi cá lồng. Trên cơ sở nghiên cứu 
thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến phát 
triển nghề nuôi cá lồng của vùng hồ thủy điện 
Hòa Bình, để nuôi cá lồng của vùng đạt được 
các mục tiêu đề ra, trong thời gian tới cần thực 
hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu cho các 
lĩnh vực: Giải pháp về quy hoạch; Giải pháp về 
nâng cao năng lực cho các hộ nuôi cá; Giải 
pháp về cơ chế, chính sách; Giải pháp về vốn; 
Giải pháp về liên doanh liên kết; Giải pháp về 
môi trường. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Quỳnh Anh và Phạm Văn Hùng 
(2012), Giải pháp quản lý bảo vệ môi trường nuôi trồng 
thủy sản phía Nam Hà Nội, Tạp chí Khoa học và Phát 
triển - Học viện nông nghiệp Việt Nam, số 7(10), tr. 
1044-1049. 
2. Quốc Hội (2003), Luật số 17/2003/QH11 của 
Quốc Hội, Luật Thủy sản, Hà Nội. 
3. Sena S De Silva và Michael J Phillips (2007), A 
review of cage aquaculture: Asia (excluding China), 
FAO Fisheries Technical Paper, số 498, tr. 21. 
5. Taro Yamane (1973), Statistics: An introductory 
analysis, 3rd Edition, Harper and Row, New York. 
5. Trung tâm khuyến nông quốc gia (2017), Hiệu 
quả nuôi cá lồng bè bền vững trên sông, hồ vùng Trung 
du miền núi Phía Bắc, số 27/2017, Bộ Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn. 
6. Vũ Đình Thắng và Nguyễn Viết Trung (2005), 
Giáo trình kinh tế thủy sản, NXB Lao động - Xã hội, 
Hà Nội. 
7. Hà Quang Thành và Nguyễn Đình Phúc (2012), 
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở huyện 
Tuy Phước, tỉnh Bình Định, Tạp chí Khoa học xã hội và 
nhân văn, Trường Đại học Huế, số 72(3), tr.317-325. 
SOLUTION TO DEVELOP FISH CAGE FARMING IN HOA BINH 
HYDROPOWER RESERVOIR AREA, HOA BINH PROVINCE 
Luu Thi Thao, Le Dinh Hai 
Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
Besides the main function of creating water sources for electricity production, Hoa Binh hydropower plant also 
creates many potentials for socio-economic development, including the ability to develop aquaculture in 
general and the profession, cage farming in particular. This study conducted a survey of the current status of 
cage fish culture development and interviewed 203 fish cage farmers to find out the influencing factors and 
solutions to the sustainable development of this profession in Hoa Binh hydropower reservoir area. The 
analytical results show that the locality has many solutions and has succeeded in organizing production and 
business, promoting favorable conditions to develop cage farming in the area. Through the use of quantitative 
analysis methods, the research results have shown and quantified some key factors affecting the farming 
efficiency of fish cage farmers in Hoa Binh hydropower reservoir area. On that basis, the study has proposed 
some solutions to develop cage farming in Hoa Binh hydropower reservoir area including Capacity building for 
fish farming households; Completing incentive policies; Increase access to capital; Expanding and improving 
the quality of economic links; Strengthening environmental control... 
Keywords: Cage fish farming, Cobb-Douglas production function, Hoa Binh hydropower reservoir area. 
Ngày nhận bài : 15/01/2019 
Ngày phản biện : 23/5/2019 
Ngày quyết định đăng : 30/5/2019 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nghe_nuoi_ca_long_tai_vung_ho_thuy_dien_hoa_binh.pdf