Sân khấu Dù kê – Góc nhìn từ văn hóa dân gian
Tóm tắt
Trong bài viết này, vấn đề thứ nhất xin gợi ý tìm hiểu thêm về xuất xứ nguồn gốc của loại hình
này thông qua việc khảo sát một số nghệ nhân, bậc thầy qua từng thời kỳ một cách kỹ lưỡng, và cũng để
làm rõ về sự giao thoa thể loại bài hát, dàn nhạc và múa trong loại hình sân khấu Hí kịch, sân khấu Cải
lương, sự tiếp nhận về loại hình sân khấu Dì kê và loại hình sân khấu “La khôn Khôl” (sân khấu đeo
mặt nạ) ở vương quốc Campuchia; vấn đề thứ hai, từ góc nhìn văn hóa dân gian các dân tộc, cố gắng
làm rõ Dù kê là loại hình sân khấu đặc biệt đã chuyển tải những nội dung, giá trị văn hóa dân gian rất
đậm nét (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, tục ngữ) và nghệ thuật dân gian (nghệ thuật tạo
hình dân gian: kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian; nghệ thuật biểu diễn dân gian:
âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn), đáp ứng trong sinh hoạt văn hóa và đời
sống lao động của mọi tầng lớp người Khmer.
Từ khóa: Sân khấu Dù kê, góc nhìn văn hóa dân gian.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sân khấu Dù kê – Góc nhìn từ văn hóa dân gian
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201486 Soá 13, thaùng 3/2014 87 SÂN KHẤU DÙ KÊ – GÓC NHÌN TỪ VĂN HÓA DÂN GIAN Thạch Chane Vitu1 Tóm tắt Trong bài viết này, vấn đề thứ nhất xin gợi ý tìm hiểu thêm về xuất xứ nguồn gốc của loại hình này thông qua việc khảo sát một số nghệ nhân, bậc thầy qua từng thời kỳ một cách kỹ lưỡng, và cũng để làm rõ về sự giao thoa thể loại bài hát, dàn nhạc và múa trong loại hình sân khấu Hí kịch, sân khấu Cải lương, sự tiếp nhận về loại hình sân khấu Dì kê và loại hình sân khấu “La khôn Khôl” (sân khấu đeo mặt nạ) ở vương quốc Campuchia; vấn đề thứ hai, từ góc nhìn văn hóa dân gian các dân tộc, cố gắng làm rõ Dù kê là loại hình sân khấu đặc biệt đã chuyển tải những nội dung, giá trị văn hóa dân gian rất đậm nét (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, tục ngữ) và nghệ thuật dân gian (nghệ thuật tạo hình dân gian: kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian; nghệ thuật biểu diễn dân gian: âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn), đáp ứng trong sinh hoạt văn hóa và đời sống lao động của mọi tầng lớp người Khmer. Từ khóa: Sân khấu Dù kê, góc nhìn văn hóa dân gian. Abstract The origin of formation of Du ke Southern Khmer Theatre is not assessed clearly, but only based on some unscientific surveys. Thus, this paper is to find out its origin through artists, teachers of each period, and to demonstrate the cultural interference of songs, orchestra and dance in Hi Kich theatre, Cai luong (folk songs), Di Ke and La Khon Khol (mask theatre) in Cambodia; this paper also focuses on the contents and cultural value (mythology, fairy tale, legend, humorous story, proverb) and folk arts (image-buidling art: architecture, painting, decoration; performing arts:folk music, dance, theatre) of Du ke, meeting cultural activities and labour life of Khmer people. Keyword: Du ke theatre, folklore perspectives 1 Trưởng Phòng Hành chính, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh Đặt vấn đề Trước thực tiễn xã hội hội nhập, phát triển, nghệ thuật sân khấu ở nước ta nói chung và sân khấu Dù kê của một số đoàn nghệ thuật như Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, đang đứng trước thử thách yêu cầu mới, nhiệm vụ mới. Việc giảm sút sự năng động và phát triển không đều của các đoàn, thiếu đội ngũ cán bộ, văn nghệ sĩ, đạo diễn tài năng, chất lượng nghệ thuật không hiệu quả đã dẫn đến việc chuyển tải nội dung vở diễn, tuồng tích, các giá trị văn hóa dân gian không đáp ứng được nhu cầu thị hiếu công chúng. Sự thành công của một loại hình nghệ thuật sân khấu phải bao gồm đầy đủ các giá trị lịch sử, hiện thực, nhân đạo, thẩm mỹ thông qua đỉnh cao hình tượng nghệ thuật để từng bước các thế hệ sau tiếp nhận và có những giải pháp khả thi để bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật này. 1. Sự hình thành loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê 1.1. Khái quát sự hình thành loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê Khoảng hơn một thế kỷ đã qua, loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê không bị mai một và được nhân dân, các chùa Phật giáo Nam tông Khmer nuôi dưỡng và phát triển, đã tạo nên văn hóa nghệ thuật tiêu biểu cho dân tộc, cùng ra sức phục vụ và chuyển biến rõ rệt trong đời sống nhân dân Khmer. Từ thập niên 60 cho đến nay, một số tác giả, nghệ nhân, văn nghệ sĩ, nhà quản lý nghệ thuật đã nghiên cứu, sưu tầm và nhận định rằng: sân khấu Dù kê là sản phẩm của nông dân, tầng lớp trí thức Khmer sáng tạo ra tại vùng đất Tây Nam Bộ trong sự giao lưu sân khấu Hí kịch của người Hoa và Cải lương của người Kinh. Tỉnh Trà Vinh và tỉnh Sóc Trăng là nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống và phong trào văn hóa văn nghệ dân gian có xu hướng phát triển rộng khắp phum sróc. Hai tỉnh này đã có công lao rất lớn trong quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê, điển hình qua một số nghệ nhân tiêu biểu ở tỉnh Trà Vinh là Thạch Sua ở Phum Chếch (nay thuộc Khóm 1, Phường 7, Tp. Trà Vinh), Tà Tìa, Kru Cừu (Thầy Cừu), Kim Thị Suông - vừa là những nghệ nhân, bậc thầy, dẫn tuồng (đạo diễn), biên đạo, nghệ sĩ; vừa là ông bầu gánh trong giai đoạn đầu thế kỷ 19. Do phong trào văn hóa văn nghệ từ sân khấu Dì kê, sân khấu Rô băm (múa Chằn) đã sinh ra một loại hình nghệ thuật sân khấu mới, đó là sân khấu Dù kê lan tỏa qua các vùng miền được nhân dân đón nhận và say mê. Đối với tỉnh Sóc Trăng, mặc dù chưa được nghiên cứu, sưu tầm trong giai đoạn hình thành sơ khai, nhưng đoàn Dù kê được hình thành với quy mô lớn vào năm 1921 do ông Lý kọn (Xã Kọn) ở xã An Ninh, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng làm bầu gánh2. Ông này có lòng say mê nghệ thuật, mỗi khi nhớ đến quê hương là nhớ đến thời thơ ấu mà mình đã từng đi xem hát Dù kê phum sróc. Chính vì điều này đã khiến ông từ Pháp trở về quê hương mình thành lập một gánh hát lấy tên “À Pê Đờm Phồ” (Đờm Phồ là cây Bồ đề). Lý Kọn là người Khmer gốc Hoa, ông vừa giàu có, đảm bảo được cơ sở vật chất, vừa có khả năng quản lý nên tập hợp được các nghệ nhân nổi tiếng như Thạch Sua, Kru Cừu. Đoàn Dù kê của ông đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của nhân dân rộng khắp vùng đồng bằng sông nước, trong lối diễn xuất có lồng tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng Pháp thông qua người dẫn tuồng hoặc vai hề. Năm 1930, sang vương quốc Campuchia lần thứ hai biểu diễn trên thuyền dọc theo hạ lưu sông Mê Kông và biểu diễn tại thủ đô Phnom Pênh, đoàn của ông đã được nhân dân Campuchia tiếp nhận và đặt tên Lakhôn Basắc, tức là sân khấu của con người ở sông Ba Thắc (Ba sắc): “Tên gọi Du ke là của người Khmer ở phía Đông thuộc nước Việt Nam (tức là Phía Tây Nam - Việt Nam) người ta sử dụng tên gọi để đánh dấu một loại hình sân khấu của họ cũng như ở Campuchia sử dụng tên gọi sân khấu Ba sắc (La-khôn Basắc) để đánh dấu cách 2 Trích từ tác giả: Sơn Lương trong cuốn sách “Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, xuất bản năm 2012, trang 57 gọi loại hình sân khấu này cho đến nay3. Như vậy, chúng ta xác định được từ năm 1930 ở Campuchia người ta tự đặt tên La-khôn Basắc để chỉ loại hình sân khấu con người sống theo dọc sông Basắc thuộc một nhánh sông Mê Kông, của con người ở tiểu vùng Tây Nam Bộ nói chung, chứ không phải Lakhôn Basắc của con người ở Sóc Trăng sáng lập hay Lakhôn Trơn Kh’lốt là của con người Trà Vinh sáng lập, sự phân chia ranh giới loại hình nghệ thuật hay tên gọi này sẽ dẫn đến khó có thể nhận định về tính giao thoa, tiếp biến văn hóa vùng, mặc dù cùng có một nền văn hóa: tín ngưỡng tôn giáo, văn học, các loại hình nghệ thuật sân khấu, Sân khấu Dù kê phát âm từ sân khấu Dì kê khi sân khấu Dù kê mới hình thành sơ khai. Còn có tên gọi: La-khôn Trơn Kh’lốt tức là sân khấu giàn bầu do ông Thạch Sua làm bầu gánh. Tuy nhiên, vẫn còn có tên gọi thiếu tính khoa học như Vũ kê, À kê, À pê. Bởi vì nếu tên gọi “Vũ Kê” thì từ “vũ” chưa trở thành phổ biến trong cộng đồng phum sróc Khmer do người Khmer ít biết nói ngôn ngữ Việt trong những thập niên trước đây; còn tên gọi “À Kê” không biết xuất xứ ở đâu? Rất khó có thể khẳng định được cậu bé tên “Kê” này ở vùng đất Trà Vinh lại có sự trùng hợp chăng với từ “Kê” ở Campuchia gọi là Dì kê hay ở Thái Lan gọi là Li kê, nhưng đây cũng là một luận điểm để tiếp tục lý giải. Như vậy, các tên gọi này xuất phát từ tên gọi trong dân gian do có sự phát âm không chuẩn xác hay sự biến âm dần từ Dì kê sang Vũ kê, À kê, À pê được lưu truyền phổ biến từ các vùng, các nơi khác nhau. Ngoài ra, còn có tên gọi miệt thị đối với người không thích loại hình nghệ thuật này như tên gọi “À Pê À Pồn” (tức là vừa biểu diễn Dù kê vừa kéo theo trò chơi cờ bạc). Sau giai đoạn chiến tranh thế giới lần thứ hai, tình hình chính trị thế giới phức tạp, bối cảnh trong nước rất khó khăn, vừa chống phát xít Nhật vừa chống Pháp, các phong trào văn hóa văn nghệ, kể cả loại hình sân khấu Dù kê phát triển chậm. Đến năm 1960, phong trào văn nghệ các địa phương tiếp tục khơi dậy rầm rộ, theo chủ trương của Tỉnh ủy Trà Vinh, đồng chí Thạch Voi đã thành lập Đoàn Văn công Khmer của tỉnh và hoạt động chính thức 3 Trích theo tác giả: Pich Tum Kravel trong cuốn sách “Dì kê và sân khấu Basắc”, xuất bản 1997 (trang 1) Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201486 Soá 13, thaùng 3/2014 87 SÂN KHẤU DÙ KÊ – GÓC NHÌN TỪ VĂN HÓA DÂN GIAN Thạch Chane Vitu1 Tóm tắt Trong bài viết này, vấn đề thứ nhất xin gợi ý tìm hiểu thêm về xuất xứ nguồn gốc của loại hình này thông qua việc khảo sát một số nghệ nhân, bậc thầy qua từng thời kỳ một cách kỹ lưỡng, và cũng để làm rõ về sự giao thoa thể loại bài hát, dàn nhạc và múa trong loại hình sân khấu Hí kịch, sân khấu Cải lương, sự tiếp nhận về loại hình sân khấu Dì kê và loại hình sân khấu “La khôn Khôl” (sân khấu đeo mặt nạ) ở vương quốc Campuchia; vấn đề thứ hai, từ góc nhìn văn hóa dân gian các dân tộc, cố gắng làm rõ Dù kê là loại hình sân khấu đặc biệt đã chuyển tải những nội dung, giá trị văn hóa dân gian rất đậm nét (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, tục ngữ) và nghệ thuật dân gian (nghệ thuật tạo hình dân gian: kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian; nghệ thuật biểu diễn dân gian: âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn), đáp ứng trong sinh hoạt văn hóa và đời sống lao động của mọi tầng lớp người Khmer. Từ khóa: Sân khấu Dù kê, góc nhìn văn hóa dân gian. Abstract The origin of formation of Du ke Southern Khmer Theatre is not assessed clearly, but only based on some unscientific surveys. Thus, this paper is to find out its origin through artists, teachers of each period, and to demonstrate the cultural interference of songs, orchestra and dance in Hi Kich theatre, Cai luong (folk songs), Di Ke and La Khon Khol (mask theatre) in Cambodia; this paper also focuses on the contents and cultural value (mythology, fairy tale, legend, humorous story, proverb) and folk arts (image-buidling art: architecture, painting, decoration; performing arts:folk music, dance, theatre) of Du ke, meeting cultural activities and labour life of Khmer people. Keyword: Du ke theatre, folklore perspectives 1 Trưởng Phòng Hành chính, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh Đặt vấn đề Trước thực tiễn xã hội hội nhập, phát triển, nghệ thuật sân khấu ở nước ta nói chung và sân khấu Dù kê của một số đoàn nghệ thuật như Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, đang đứng trước thử thách yêu cầu mới, nhiệm vụ mới. Việc giảm sút sự năng động và phát triển không đều của các đoàn, thiếu đội ngũ cán bộ, văn nghệ sĩ, đạo diễn tài năng, chất lượng nghệ thuật không hiệu quả đã dẫn đến việc chuyển tải nội dung vở diễn, tuồng tích, các giá trị văn hóa dân gian không đáp ứng được nhu cầu thị hiếu công chúng. Sự thành công của một loại hình nghệ thuật sân khấu phải bao gồm đầy đủ các giá trị lịch sử, hiện thực, nhân đạo, thẩm mỹ thông qua đỉnh cao hình tượng nghệ thuật để từng bước các thế hệ sau tiếp nhận và có những giải pháp khả thi để bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật này. 1. Sự hình thành loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê 1.1. Khái quát sự hình thành loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê Khoảng hơn một thế kỷ đã qua, loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê không bị mai một và được nhân dân, các chùa Phật giáo Nam tông Khmer nuôi dưỡng và phát triển, đã tạo nên văn hóa nghệ thuật tiêu biểu cho dân tộc, cùng ra sức phục vụ và chuyển biến rõ rệt trong đời sống nhân dân Khmer. Từ thập niên 60 cho đến nay, một số tác giả, nghệ nhân, văn nghệ sĩ, nhà quản lý nghệ thuật đã nghiên cứu, sưu tầm và nhận định rằng: sân khấu Dù kê là sản phẩm của nông dân, tầng lớp trí thức Khmer sáng tạo ra tại vùng đất Tây Nam Bộ trong sự giao lưu sân khấu Hí kịch của người Hoa và Cải lương của người Kinh. Tỉnh Trà Vinh và tỉnh Sóc Trăng là nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống và phong trào văn hóa văn nghệ dân gian có xu hướng phát triển rộng khắp phum sróc. Hai tỉnh này đã có công lao rất lớn trong quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê, điển hình qua một số nghệ nhân tiêu biểu ở tỉnh Trà Vinh là Thạch Sua ở Phum Chếch (nay thuộc Khóm 1, Phường 7, Tp. Trà Vinh), Tà Tìa, Kru Cừu (Thầy Cừu), Kim Thị Suông - vừa là những nghệ nhân, bậc thầy, dẫn tuồng (đạo diễn), biên đạo, nghệ sĩ; vừa là ông bầu gánh trong giai đoạn đầu thế kỷ 19. Do phong trào văn hóa văn nghệ từ sân khấu Dì kê, sân khấu Rô băm (múa Chằn) đã sinh ra một loại hình nghệ thuật sân khấu mới, đó là sân khấu Dù kê lan tỏa qua các vùng miền được nhân dân đón nhận và say mê. Đối với tỉnh Sóc Trăng, mặc dù chưa được nghiên cứu, sưu tầm trong giai đoạn hình thành sơ khai, nhưng đoàn Dù kê được hình thành với quy mô lớn vào năm 1921 do ông Lý kọn (Xã Kọn) ở xã An Ninh, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng làm bầu gánh2. Ông này có lòng say mê nghệ thuật, mỗi khi nhớ đến quê hương là nhớ đến thời thơ ấu mà mình đã từng đi xem hát Dù kê phum sróc. Chính vì điều này đã khiến ông từ Pháp trở về quê hương mình thành lập một gánh hát lấy tên “À Pê Đờm Phồ” (Đờm Phồ là cây Bồ đề). Lý Kọn là người Khmer gốc Hoa, ông vừa giàu có, đảm bảo được cơ sở vật chất, vừa có khả năng quản lý nên tập hợp được các nghệ nhân nổi tiếng như Thạch Sua, Kru Cừu. Đoàn Dù kê của ông đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của nhân dân rộng khắp vùng đồng bằng sông nước, trong lối diễn xuất có lồng tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng Pháp thông qua người dẫn tuồng hoặc vai hề. Năm 1930, sang vương quốc Campuchia lần thứ hai biểu diễn trên thuyền dọc theo hạ lưu sông Mê Kông và biểu diễn tại thủ đô Phnom Pênh, đoàn của ông đã được nhân dân Campuchia tiếp nhận và đặt tên Lakhôn Basắc, tức là sân khấu của con người ở sông Ba Thắc (Ba sắc): “Tên gọi Du ke là của người Khmer ở phía Đông thuộc nước Việt Nam (tức là Phía Tây Nam - Việt Nam) người ta sử dụng tên gọi để đánh dấu một loại hình sân khấu của họ cũng như ở Campuchia sử dụng tên gọi sân khấu Ba sắc (La-khôn Basắc) để đánh dấu cách 2 Trích từ tác giả: Sơn Lương trong cuốn sách “Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, xuất bản năm 2012, trang 57 gọi loại hình sân khấu này cho đến nay3. Như vậy, chúng ta xác định được từ năm 1930 ở Campuchia người ta tự đặt tên La-khôn Basắc để chỉ loại hình sân khấu con người sống theo dọc sông Basắc thuộc một nhánh sông Mê Kông, của con người ở tiểu vùng Tây Nam Bộ nói chung, chứ không phải Lakhôn Basắc của con người ở Sóc Trăng sáng lập hay Lakhôn Trơn Kh’lốt là của con người Trà Vinh sáng lập, sự phân chia ... đã đáp ứng điều đó, biết nâng đỡ giá trị con người, phê phán những hiện thực xấu xa và bênh vực cho những nỗi khổ đau, đề cao những ước mơ, khát vọng của con người. Và sân khấu Dù kê đã lột tả hình ảnh sống động, giáo dục cho con người xã hội ngày nay phải trân trọng đạo lý, lòng nhân ái và nguyên tắc ứng xử giữa con người và con người, con người và môi trường xã hội xung quanh. Giá trị nhân đạo của truyện dân gian đặc biệt được thể hiện ở những kết thúc có sự nhân hậu, khoan dung như: truyện Trần Minh khổ chuối “Chao Sro-Tốp-Chêch”, Tấm Cám tức “Mô-Rô- Ná MiếtĐa”, truyện Người con gái Nam Xương - “Sro-môl on-tôl chách hay còn gọi cái bóng oan Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201492 Soá 13, thaùng 3/2014 93 tình”, Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - “Sất- Thy-Vong”,... Cũng xuất phát từ lòng nhân đạo sâu sắc ấy mà nhân dân đã để cho cô Tấm thảo hiền, xinh đẹp qua nhiều biến hoá thăng trầm, cuối cùng trở về làm hoàng hậu, sống cuộc đời hạnh phúc bên nhà vua; Trần Minh thoát khỏi cái nghèo khổ và cũng tận hưởng hạnh phúc; Truyện Người con gái Nam Xương vừa có giá trị tố cáo hiện thực của xã hội phong kiến và mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, càng thấy rõ giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong một xã hội tốt đẹp hơn, vươn lên làm chủ cuộc đời được hạnh phúc và bình đẳng; Lục Vân Tiên thể hiện tính cách của người Nam Bộ, tính anh hùng nghĩa hiệp, giúp người hoạn nạn;... Những kết thúc của truyện cổ tích, truyện dân gian đều “gỡ nút” bằng triết lí nhân dân: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. 2.4. Sân khấu Dù kê mang lại giá trị thẩm mỹ Sự đóng góp cho loại hình nghệ thuật sân khấu là sự thành công của một tác phẩm, kịch bản đến vai trò của người đạo diễn dựng tính kịch, mỹ thuật, hóa trang, sáng tác âm nhạc,, tất cả cho diễn viên được tôn lên trở thành nhân vật trọng tâm của sân khấu. Nhưng giá trị thẩm mỹ được hội tụ trên sân khấu không chỉ dừng lại ở mỹ thuật, hóa trang, phục trang, ánh sáng,... mà còn bộc lộ các giá trị khác như chân, thiện,... nó mang tính phổ quát trong một tác phẩm, giá trị của tác phẩm cũng chính là giá trị thẩm mỹ và chỉ khi đạt giá trị thẩm mỹ mới trở thành hình tượng nghệ thuật, khi đạt đến hình tượng nghệ thuật thì đó mới chính là chất lượng của một tác phẩm nghệ thuật sân khấu. Giá trị thẩm mỹ được bộc lộ ở nhân vật của từng nội dung truyện, có thể tìm thấy được về giá trị đạo đức, giá trị nhận thức, tư tưởng, giáo lý của các vị thần NeakTa, của Đức Phật Thích Ca, đạo sĩ Âyxây tu hành khổ luyện, hay một nhân vật thông minh nào đó, để thể hiện nhất quán quan điểm trong việc giáo dục con người. Mặc dù rơi vào phép thuật hay thần thánh bí ẩn nhưng người xưa vẫn biết sử dụng hư cấu để điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh mối quan hệ xã hội, loại trừ cái phi đạo đức, đẩy lùi cái hiện tượng xấu xa, không thể có cái phi chân, thiện, mỹ. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đã xuất hiện văn học viết, những kịch bản mới với những đề tài hiện đại, đánh dấu sự biến đổi văn học Khmer. Tác phẩm ra đời: “Nghĩa tình trong giông tố” của tác giả Thạch Voi; “Giữ đền Vêhia” của tác giả Thạch Chân đã thúc đẩy cho lực lượng đông đảo nghệ sĩ kiểu mới của cách mạng Việt Nam, có kiến thức khoa học về sân khấu tiên tiến, luôn hướng về công cuộc đấu tranh cho Tổ quốc quê hương, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp. Vừa mới chấm dứt tiếng súng chống Mỹ thì chiến tranh bảo vệ tổ quốc chống chế độ diệt chủng Pôl-Pốt Iêng Sary, tình hình mới đặt ra trước nghệ thuật sân khấu những yêu cầu mới, kịch bản “Mối tình BôPha RạngXây” của tác giả Thạch Chân đã ra đời và đáp ứng nhu cầu thưởng thức của nhân dân trong nước và nước bạn Campuchia, có tác dụng cực kỳ to lớn trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ của người Khmer, đã trở thành công cụ cho cuộc vận động cách mạng và tình đoàn kết dân tộc, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ - văn học dưới ánh sáng của thế giới quan vô sản. 3. Giải pháp giữ gìn và phát huy sân khấu Dù kê 3.1. Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer, từng bước hoàn chỉnh hệ thống các giáo trình, sách tham khảo cho ngành học nghệ thuật sân khấu Dù kê dân tộc Khmer để nâng cao chất lượng sân khấu Dù kê có hiệu quả. + Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Đây là một nhiệm vụ mang tính chiến lược, nó quyết định cho sự tồn tại của loại hình nghệ thuật sân khấu. Được xem là một việc làm cấp thiết đối với đơn vị nghệ thuật sân khấu dân tộc Khmer trong tình hình hiện nay. Hồ Chí Minh quan niệm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Vì vậy, đào tạo nguồn lực chính là yếu tố con người có tài năng, có khả năng tham gia vào lĩnh vực nghệ thuật dân tộc và các mặt hoạt động xã hội. Các đơn vị sự nghiệp nghệ thuật được nhận chỉ tiêu đào tạo tại các Trường Đại học văn hóa, Cao đẳng hay Trung cấp, có chính sách đào tạo lại cán bộ quản lý nghệ thuật, đạo diễn, âm nhạc, biên đạo múa để có điều kiện trẻ hóa đội ngũ, khắc phục tình trạng dôi thừa trong đơn vị nghệ thuật. + Xây dựng hoàn chỉnh về giáo trình, sách tham khảo cho ngành học Nghệ thuật Sân khấu Dù kê của dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh. Đây là giải pháp đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ, phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể địa phương mà Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan trực tiếp thực hiện hướng dẫn để tiến hành khảo sát sơ bộ cho loại hình sân khấu Dù kê, cụ thể hơn là xây dựng dự án cho từng bộ môn (cả lý thuyết lẫn thực hành) về các loại nhạc cụ Dù kê Basắc, những bài hát Dù kê Basắc, múa sử dụng cho loại hình sân khấu, hoạt động hình thể, vũ đạo hay phong cách biểu diễn cho từng nhân vật. Đây là hình thức trải nghiệm cho công tác đào tạo và vừa là mục đích truyền đạt cho thế hệ trẻ am hiểu và gần gũi với sân khấu Dù kê. 3.2. Văn hóa truyền thống có sự biến đổi là một quá trình tất yếu khách quan, bởi xã hội đô thị trong điều kiện công nghiệp hóa tiến lên công nghiệp hiện đại, là yếu tố duy nhất làm động lực cho kinh tế đô thị phát triển. Sự chuyển biến từ một xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội đô thị công nghiệp làm cho nét đẹp văn hóa truyền thống bị mờ nhạt và ngày càng bị mai một, phá vỡ tính cộng đồng xóm giềng, sự thông cảm chia sẻ trong mối quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, cộng đồng bị hạn chế. Chính vì điều này, Đảng và Nhà nước cần quan tâm và trao quyền tự chủ rộng rãi, tăng ngân sách hoạt động cho các chính quyền địa phương, cá nhân, tập thể hay nhân dân trong công tác quản lý để xây dựng các phong trào văn hóa văn nghệ nhằm tạo ra một cơ chế riêng đặc thù cho từng loại hình nghệ thuật, giúp thế hệ sau tiếp nhận nghệ thuật cũng chính là nền giáo dục trong văn hóa dân gian mà người xưa cố gắng tích lũy, lưu truyền lại; đồng thời, khuyến khích hỗ trợ và mở các lớp tập huấn, khảo sát thực tế cho các nghệ nhân, nghệ sĩ, các tác giả nhằm phát huy sáng tạo những tác phẩm có giá trị văn hóa. Tài liệu tham khảo Báo cáo kỷ niệm 40 năm thành lập Đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh ngày 14/4/1963 – 14/4/2003 (năm 2003). Ngô Đức Thịnh. Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc. Xem Nhiều tác giả.1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Tp.HCM. Pich Tum Kravel. 1997. Dì kê và sân khấu Basắc. Trường Đại học nghệ thuật Hoàng gia xuất bản Viện Văn hóa. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa-Thông tin xuất bản. Viện Văn hóa. 1993. Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc. Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” Soá 13, thaùng 3/201492 Soá 13, thaùng 3/2014 93 tình”, Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - “Sất- Thy-Vong”,... Cũng xuất phát từ lòng nhân đạo sâu sắc ấy mà nhân dân đã để cho cô Tấm thảo hiền, xinh đẹp qua nhiều biến hoá thăng trầm, cuối cùng trở về làm hoàng hậu, sống cuộc đời hạnh phúc bên nhà vua; Trần Minh thoát khỏi cái nghèo khổ và cũng tận hưởng hạnh phúc; Truyện Người con gái Nam Xương vừa có giá trị tố cáo hiện thực của xã hội phong kiến và mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, càng thấy rõ giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong một xã hội tốt đẹp hơn, vươn lên làm chủ cuộc đời được hạnh phúc và bình đẳng; Lục Vân Tiên thể hiện tính cách của người Nam Bộ, tính anh hùng nghĩa hiệp, giúp người hoạn nạn;... Những kết thúc của truyện cổ tích, truyện dân gian đều “gỡ nút” bằng triết lí nhân dân: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. 2.4. Sân khấu Dù kê mang lại giá trị thẩm mỹ Sự đóng góp cho loại hình nghệ thuật sân khấu là sự thành công của một tác phẩm, kịch bản đến vai trò của người đạo diễn dựng tính kịch, mỹ thuật, hóa trang, sáng tác âm nhạc,, tất cả cho diễn viên được tôn lên trở thành nhân vật trọng tâm của sân khấu. Nhưng giá trị thẩm mỹ được hội tụ trên sân khấu không chỉ dừng lại ở mỹ thuật, hóa trang, phục trang, ánh sáng,... mà còn bộc lộ các giá trị khác như chân, thiện,... nó mang tính phổ quát trong một tác phẩm, giá trị của tác phẩm cũng chính là giá trị thẩm mỹ và chỉ khi đạt giá trị thẩm mỹ mới trở thành hình tượng nghệ thuật, khi đạt đến hình tượng nghệ thuật thì đó mới chính là chất lượng của một tác phẩm nghệ thuật sân khấu. Giá trị thẩm mỹ được bộc lộ ở nhân vật của từng nội dung truyện, có thể tìm thấy được về giá trị đạo đức, giá trị nhận thức, tư tưởng, giáo lý của các vị thần NeakTa, của Đức Phật Thích Ca, đạo sĩ Âyxây tu hành khổ luyện, hay một nhân vật thông minh nào đó, để thể hiện nhất quán quan điểm trong việc giáo dục con người. Mặc dù rơi vào phép thuật hay thần thánh bí ẩn nhưng người xưa vẫn biết sử dụng hư cấu để điều chỉnh hành vi con người, điều chỉnh mối quan hệ xã hội, loại trừ cái phi đạo đức, đẩy lùi cái hiện tượng xấu xa, không thể có cái phi chân, thiện, mỹ. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đã xuất hiện văn học viết, những kịch bản mới với những đề tài hiện đại, đánh dấu sự biến đổi văn học Khmer. Tác phẩm ra đời: “Nghĩa tình trong giông tố” của tác giả Thạch Voi; “Giữ đền Vêhia” của tác giả Thạch Chân đã thúc đẩy cho lực lượng đông đảo nghệ sĩ kiểu mới của cách mạng Việt Nam, có kiến thức khoa học về sân khấu tiên tiến, luôn hướng về công cuộc đấu tranh cho Tổ quốc quê hương, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp. Vừa mới chấm dứt tiếng súng chống Mỹ thì chiến tranh bảo vệ tổ quốc chống chế độ diệt chủng Pôl-Pốt Iêng Sary, tình hình mới đặt ra trước nghệ thuật sân khấu những yêu cầu mới, kịch bản “Mối tình BôPha RạngXây” của tác giả Thạch Chân đã ra đời và đáp ứng nhu cầu thưởng thức của nhân dân trong nước và nước bạn Campuchia, có tác dụng cực kỳ to lớn trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ của người Khmer, đã trở thành công cụ cho cuộc vận động cách mạng và tình đoàn kết dân tộc, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ - văn học dưới ánh sáng của thế giới quan vô sản. 3. Giải pháp giữ gìn và phát huy sân khấu Dù kê 3.1. Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer, từng bước hoàn chỉnh hệ thống các giáo trình, sách tham khảo cho ngành học nghệ thuật sân khấu Dù kê dân tộc Khmer để nâng cao chất lượng sân khấu Dù kê có hiệu quả. + Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Đây là một nhiệm vụ mang tính chiến lược, nó quyết định cho sự tồn tại của loại hình nghệ thuật sân khấu. Được xem là một việc làm cấp thiết đối với đơn vị nghệ thuật sân khấu dân tộc Khmer trong tình hình hiện nay. Hồ Chí Minh quan niệm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Vì vậy, đào tạo nguồn lực chính là yếu tố con người có tài năng, có khả năng tham gia vào lĩnh vực nghệ thuật dân tộc và các mặt hoạt động xã hội. Các đơn vị sự nghiệp nghệ thuật được nhận chỉ tiêu đào tạo tại các Trường Đại học văn hóa, Cao đẳng hay Trung cấp, có chính sách đào tạo lại cán bộ quản lý nghệ thuật, đạo diễn, âm nhạc, biên đạo múa để có điều kiện trẻ hóa đội ngũ, khắc phục tình trạng dôi thừa trong đơn vị nghệ thuật. + Xây dựng hoàn chỉnh về giáo trình, sách tham khảo cho ngành học Nghệ thuật Sân khấu Dù kê của dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh. Đây là giải pháp đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ, phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể địa phương mà Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan trực tiếp thực hiện hướng dẫn để tiến hành khảo sát sơ bộ cho loại hình sân khấu Dù kê, cụ thể hơn là xây dựng dự án cho từng bộ môn (cả lý thuyết lẫn thực hành) về các loại nhạc cụ Dù kê Basắc, những bài hát Dù kê Basắc, múa sử dụng cho loại hình sân khấu, hoạt động hình thể, vũ đạo hay phong cách biểu diễn cho từng nhân vật. Đây là hình thức trải nghiệm cho công tác đào tạo và vừa là mục đích truyền đạt cho thế hệ trẻ am hiểu và gần gũi với sân khấu Dù kê. 3.2. Văn hóa truyền thống có sự biến đổi là một quá trình tất yếu khách quan, bởi xã hội đô thị trong điều kiện công nghiệp hóa tiến lên công nghiệp hiện đại, là yếu tố duy nhất làm động lực cho kinh tế đô thị phát triển. Sự chuyển biến từ một xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội đô thị công nghiệp làm cho nét đẹp văn hóa truyền thống bị mờ nhạt và ngày càng bị mai một, phá vỡ tính cộng đồng xóm giềng, sự thông cảm chia sẻ trong mối quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, cộng đồng bị hạn chế. Chính vì điều này, Đảng và Nhà nước cần quan tâm và trao quyền tự chủ rộng rãi, tăng ngân sách hoạt động cho các chính quyền địa phương, cá nhân, tập thể hay nhân dân trong công tác quản lý để xây dựng các phong trào văn hóa văn nghệ nhằm tạo ra một cơ chế riêng đặc thù cho từng loại hình nghệ thuật, giúp thế hệ sau tiếp nhận nghệ thuật cũng chính là nền giáo dục trong văn hóa dân gian mà người xưa cố gắng tích lũy, lưu truyền lại; đồng thời, khuyến khích hỗ trợ và mở các lớp tập huấn, khảo sát thực tế cho các nghệ nhân, nghệ sĩ, các tác giả nhằm phát huy sáng tạo những tác phẩm có giá trị văn hóa. Tài liệu tham khảo Báo cáo kỷ niệm 40 năm thành lập Đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh ngày 14/4/1963 – 14/4/2003 (năm 2003). Ngô Đức Thịnh. Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc. Xem Nhiều tác giả.1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Tp.HCM. Pich Tum Kravel. 1997. Dì kê và sân khấu Basắc. Trường Đại học nghệ thuật Hoàng gia xuất bản Viện Văn hóa. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa-Thông tin xuất bản. Viện Văn hóa. 1993. Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc.
File đính kèm:
- san_khau_du_ke_goc_nhin_tu_van_hoa_dan_gian.pdf