Sơ bộ đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường của việc nuôi lồng cá mú chấm đen, Epinephelus malabaricus, bằng cá tươi và thức ăn viên
Tóm tắt
Thí nghiệm nuôi lồng trong 16 tuần được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và
môi trường của việc nuôi cá mú chấm đen bằng thức ăn cá tươi và thức ăn viên. Trong đó, thức ăn
viên được tổng hợp trên cơ sở các kết quả nghiên cứu trước đây của chính tác giả. Cá giống có khối
lượng trung bình (±SD) ban đầu là 57,4 ± 0,96 g được cho ăn hai lần mỗi ngày đến no với 3 lần lặp
cho mỗi nghiệm thức. Các lồng (1,5 x 1 x 1,5 m) được bố trí ở vùng Cửa Bé, thuộc vịnh Nha Trang với
nhiệt độ nước 27-30oC, độ mặn 26-30 ppt. Tỷ lệ sống của cá mú là 75-76,7%. Kết quả nghiên cứu cho
thấy tốc độ sinh trưởng của cá mú chấm đen được cho ăn thức ăn viên và thức ăn là cá tươi sai khác
không có ý nghĩa (P>0,05). Hệ số chuyển hóa thức ăn tính theo chất khô của cá được nuôi bằng thức
ăn viên là 2,08 và bằng thức ăn cá tươi là 2,17 (P>0,05). Thức ăn viên có chỉ số NPU khá cao
(58,94%) so với thức ăn là cá tươi (47,09%) (P<0,05). cá="" được="" cho="" ăn="" thức="" ăn="" viên="" có="" thành="" phần="" độ="">0,05).>
ẩm, protein và tro không sai khác so với cá được cho ăn bằng cá tươi (P>0,05). Tuy nhiên, thành
phần lipid của chúng thấp hơn (6,31%) so với cá được cho ăn cá tươi (6,67%) (P<0,05). hàm="" lượng="">0,05).>
Ni-tơ phóng thích vào môi trường do nuôi cá mú bằng thức ăn viên giảm nhiều (167,59 g/kg cá) so với
nuôi bằng thức ăn cá tươi (210,21 g/kg cá) (P<0,05). chi="" phí="" thức="" ăn="" để="" nuôi="" lồng="" một="" con="" cá="" mú="">0,05).>
chấm đen từ 57g đến 150 g là 2642 VND với thức ăn viên và 3225 VND với thức ăn là cá tươi
(P<0,05). cần="" có="" chương="" trình="" nghiên="" cứu="" và="" triển="" khai="" để="" đưa="" thức="" ăn="" viên="" vào="" thực="" tế="" nuôi="" cá.="">0,05).>
Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật, kinh tế, môi trường; cá mú chấm đen; thức ăn viên; cá tươi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sơ bộ đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường của việc nuôi lồng cá mú chấm đen, Epinephelus malabaricus, bằng cá tươi và thức ăn viên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 3 SƠ BỘ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT, KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆC NUÔI LỒNG CÁ MÚ CHẤM ĐEN, EPINEPHELUS MALABARICUS, BẰNG CÁ TƯƠI VÀ THỨC ĂN VIÊN PRELIMINARY ASESSMENT OF TECHNICAL, ECONOMIC AND ENVIRONMENTAL EFFICIENCY OF SEACAGE FARMING MALABAR GROUPPER EPINEPHELUS MALABARICUS, USING FRESH FISH AND PELLET DIETS Lê Anh Tuấn Khoa Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang Tóm tắt Thí nghiệm nuôi lồng trong 16 tuần được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường của việc nuôi cá mú chấm đen bằng thức ăn cá tươi và thức ăn viên. Trong đó, thức ăn viên được tổng hợp trên cơ sở các kết quả nghiên cứu trước đây của chính tác giả. Cá giống có khối lượng trung bình (±SD) ban đầu là 57,4 ± 0,96 g được cho ăn hai lần mỗi ngày đến no với 3 lần lặp cho mỗi nghiệm thức. Các lồng (1,5 x 1 x 1,5 m) được bố trí ở vùng Cửa Bé, thuộc vịnh Nha Trang với nhiệt độ nước 27-30oC, độ mặn 26-30 ppt. Tỷ lệ sống của cá mú là 75-76,7%. Kết quả nghiên cứu cho thấy tốc độ sinh trưởng của cá mú chấm đen được cho ăn thức ăn viên và thức ăn là cá tươi sai khác không có ý nghĩa (P>0,05). Hệ số chuyển hóa thức ăn tính theo chất khô của cá được nuôi bằng thức ăn viên là 2,08 và bằng thức ăn cá tươi là 2,17 (P>0,05). Thức ăn viên có chỉ số NPU khá cao (58,94%) so với thức ăn là cá tươi (47,09%) (P<0,05). Cá được cho ăn thức ăn viên có thành phần độ ẩm, protein và tro không sai khác so với cá được cho ăn bằng cá tươi (P>0,05). Tuy nhiên, thành phần lipid của chúng thấp hơn (6,31%) so với cá được cho ăn cá tươi (6,67%) (P<0,05). Hàm lượng Ni-tơ phóng thích vào môi trường do nuôi cá mú bằng thức ăn viên giảm nhiều (167,59 g/kg cá) so với nuôi bằng thức ăn cá tươi (210,21 g/kg cá) (P<0,05). Chi phí thức ăn để nuôi lồng một con cá mú chấm đen từ 57g đến 150 g là 2642 VND với thức ăn viên và 3225 VND với thức ăn là cá tươi (P<0,05). Cần có chương trình nghiên cứu và triển khai để đưa thức ăn viên vào thực tế nuôi cá. Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật, kinh tế, môi trường; cá mú chấm đen; thức ăn viên; cá tươi. Abstract A 16-week seacage experiment was carried out to compare technical, economic and environmental efficiencies of farming malabar groupers fed fresh tilapia diet and pelleted diet which was developed based on research outputs previously by the author. Fingerlings of mean (±SD) starting weight of 57.4 ± 0.96 g were fed twice daily to satiety with three cage replicates. Cages (1.5 x 1 x 1.5 m) were situated at Cua Be, in the Nha Trang Bay with the temperature between 27-30oC, the salinity between 26-30 ppt during the trial. Fish survival was 75-76.7%. The results showed that growth rates of groupers fed pellet and fresh fish diets were not significant different (P>0,05). Dry matter-based FCRs of groupers fed pellet and fresh fish were 2.08 and 2.17 (P>0.05), respectively. While pelleted diet-based NPU was higher (58.94%) that that (47.09%) of fresh fish diet (P<0,05). The body chemical composition of groupers fed pellet was not significant different from that of groupers fed fresh fish except for lipid which was a little bit lower (6.31% versus 6.67%) (P<0.05). The waste Nitrogen from groupers fed pellet was lower (167.59 g/kg grouper) than that (210.21 g/kg grouper) of groupers fed fresh fish (P<0.05). The feed costs to raise a grouper from 57 g to 150 g were VND2642 and VND3225 with pellet and fresh fish diets, respectively (P<0.05). Further research need is an R&D program to apply pelleted feed into practice. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 4 I. MỞ ĐẦU Ở nước ta, cá mú chấm đen hiện được nuôi chủ yếu bằng thức ăn là các loại cá tươi. Nguồn thức ăn cá tươi này luôn biến động trong năm, đặc biệt vào các tháng mùa mưa và dịp lễ tết (từ tháng 10 đến tháng 2) [1; 8].Việc cho ăn cá tươi đã làm cho môi trường nuôi bị ảnh hưởng do thức ăn có tính ổn định thấp và thức ăn thừa gây ra [2; 14]. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thu được trong điều kiện phòng thí nghiệm, chúng tôi tiến hành thử nghiệm nuôi cá mú chấm đen trong lồng, đồng thời sơ bộ đánh giá hiệu quả kỹ thuật (sinh học), kinh tế và môi trường của việc sử dụng thức ăn viên so với thức ăn là cá tươi. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Cá thí nghiệm Đối tượng nghiên cứu là cá mú chấm đen Epinephelus malabaricus ở giai đoạn giống có khối lượng cá thể trung bình 57,4 ± 0,96 g. 2.2. Thức ăn thí nghiệm Cá được cho ăn thức ăn viên có công thức được trình bày trong Bảng 1 và thức ăn là cá rô phi. Các công đoạn sản xuất thức ăn viên được tiến hành như sau: Các nguyên liệu được nghiền mịn trong máy nghiền búa và được rây qua rây inox cỡ 0,5 mm trước khi chuẩn bị thức ăn. Các nguyên liệu được cân theo đúng liều lượng trên cân kỹ thuật có độ chính xác 0,01 g và trộn bằng máy Mixer 20QT theo thứ tự các nguyên liệu khô, các thành phần vi lượng (vitamin, khoáng), rồi đến dầu và nước (300-400 g/kg thức ăn). Sau khoảng 30 phút trộn, hỗn hợp được tạo sợi cũng qua máy Mixer 20QT với đường kính lỗ khuôn là 6 mm. Thức ăn dạng sợi sau đó được cho vào khay đặt vào máy hấp ở 60oC trong 5 phút, rồi chuyển ngay vào tủ sấy (Model OM 100 ME, sản xuất tại Australia) ở 40oC trong 15 giờ. Sau khi sấy, các sợi thức ăn được cho vào máy cắt để cắt viên. Các viên thức ăn sau khi cắt được rây để loại bỏ phần thức ăn bị vụn nát. Bảng 1. Thành phần nguyên liệu của thức ăn viên trong thí nghiệm đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường Thành phần nguyên liệu (%) Thức ăn viên Bột cá 65 35 Bột tôm lân 5 Gluten bột mì 10,5 Casein 18 Bột sắn 16 Dầu cá 5,5 Dầu đậu nành 2 Bột diatomit 6,45 Hỗn hợp vitamin1 1 Hỗn hợp khoáng2 0,5 Carophyll pink3 0,05 1 Sản phẩm của Rabar Nutrition, Beaudesert, Australia có thành phần (mg/kg): Retinol (A), 1,8; ascorbic acid (C), 100; cholecalciferol (D3), 0,03; menadione (K3), 10,0; d/l α-tocopherol (E), 200; choline, 500; inositol, 100; thiamine (B1), 15; riboflavin (B2), 20; pyridoxine (B6), 15; d-pantothenic acid (B5), 50; nicotinic acid, 75; biotin, 0,5; cyanocobalamin (B12), 0,05; folic acid, 5; and ethoxyquin, 150. 2 Sản phẩm của Rabar Nutrition, Beaudesert, Australia có thành phần (mg/kg): Co (as CoCl2.6H2O), 0,5; Cu (as CuSO4.5H2O), 5; Fe (as FeSO4.7H2O), 40; I (as KI), 4; Cr (as KCr.2SO4), 0,5; Mg (as MsSO4.7H2O), 150; Mn (as MnSO4.H2O), 25; Se (as NaSeO3), 0,1; and Zn (as ZnSO4.7H2O),100. 3 Sản phẩm của F. Hoffmann-La Roche Ltd, Basel, Switzerland, chứa 8% astaxanthin. Thức ăn viên được sản xuất đủ lượng cho toàn đợt thí nghiệm, đóng túi và bảo quản ở - 20oC cho đến khi cần dùng. Lượng thức ăn được ước tính để cho ăn từng đợt trong khoảng thời gian hai tuần, tương ứng với những lần cân cá để việc ước tính được tốt hơn. Cá tươi dùng Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 5 làm thức ăn trong thí nghiệm này là cá rô phi (Oreochromis mossambicus) được thả trong một đìa 1,5 ha gần lồng nuôi. Việc sử dụng cá rô phi làm thức ăn nuôi cá mú trong các tháng khan hiếm (các tháng mùa mưa cho đến Tết) của cơ sở nuôi này là điều bình thường và cũng từng được đề cập trong một báo cáo trước đây [8]. Mỗi sáng sớm cá rô phi được đánh lưới và lưu trong giai để cho cá mú ăn trong ngày. 2.3. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí với 2 nghiệm thức thức ăn và 3 lần lặp. Thí nghiệm kéo dài trong 16 tuần lễ. Từ 200 con cá ban đầu, sau hai tuần thuần dưỡng, chọn 120 con khỏe mạnh phân bổ đều vào 6 ô lồng có kích cỡ mỗi lồng là 1,5 x 1 x 1,5 m. 2.4. Chăm sóc và quản lý Hai lồng lưu tạm (4 x 4 x 4 m) được dùng để thuần dưỡng đàn cá. Cá được cho ăn hàng ngày với thức ăn chung là thức ăn viên có hàm lượng protein 50% và hàm lượng lipid 12%. Thức ăn được sản xuất tại phòng thí nghiệm, có đường kính viên là 4 mm. Cá được cho ăn với mức 5% tổng khối lượng đàn cá. Cá thí nghiệm được cho ăn hai lần trong ngày vào lúc 7g30 và 15g30 đến mức chúng không ăn nữa thì dừng lại. Cá được theo dõi hàng ngày để thu các chỉ tiêu đánh giá như được đề ra ở mục dưới đây. 2.5. Các chỉ tiêu đánh giá Để đánh giá hiệu quả kỹ thuật, các chỉ tiêu [7; 10] sau đây được áp dụng: Mức tăng khối lượng tương đối (Weight Gain): WG (%) = 100 x [(We – Ws)/Ws] Tốc độ sinh trưởng hàng ngày (Daily Growth Rate): DGR (g/ngày) = (We – Ws)/d Chỉ số sinh trưởng hàng ngày (Daily Growth Index): DGI (%/ngày) = (We1/3 – Ws1/3)x100/d Lượng thức ăn cá ăn vào tính theo chất khô (Feed Intake): FI (g thức ăn/cá thể cá) = (1/n) x [FIaf x DM – (L105/DM x WS)] Lượng thức ăn cá ăn vào tính theo chất tươi (Wet matter based Feed Intake): FIwm (g thức ăn/cá thể cá) = FI/DM Hệ số chuyển hoá thức ăn (Feed Conversion Ratio): FCR = FI/(We – Ws) Hệ số chuyển hoá thức ăn tính theo chất tươi (Wet matter based FCR): FCRwm = FIwm /(We – Ws). Chỉ số sử dụng protein thực [7]: NPU (%) = (Pef - Psf) x 100 / PI Hệ số chuyển đổi: % Protein thô = % N x 6,25 Trong đó: Ws - khối lượng cá khi bắt đầu thí nghiệm; We - khối lượng cá khi kết thúc thí nghiệm; d – thời gian thí nghiệm tính theo ngày; n – số lượng cá trong bể thí nghiệm; FIaf – lượng thức ăn cho cá ăn trong suốt đợt thí nghiệm; L105 – lượng thức ăn thừa khi cho cá ăn trong suốt đợt thí nghiệm đã được sấy khô ở 105oC (g); DM – hàm lượng chất khô của thức ăn dưới dạng số thập phân; WS – tính ổn định trong nước của thức ăn trong 60 phút, được tính như sau: WS = (Fe-105/DM)/(Fs x DM), trong đó Fe-105– khối lượng thức ăn được sấy khô ở 105oC sau khi ngâm trong bồn lắc (shaking bath) 60 phút (g); Fs – khối lượng thức ăn trước khi đưa vào bồn lắc (g). PI - lượng protein cá ăn vào (g); Pef - Protein cơ thể cá khi kết thúc thí nghiệm (g); Psf - Protein cơ thể cá khi bắt đầu thí nghiệm (g); Ngoài ra, để đánh giá tác động môi trường của hoạt động nuôi cá mú, lượng chất thải (cụ thể là Ni-tơ (N)) phóng thích vào môi trường được ước tính dựa theo cách được Beveridge [1] nêu ra, đó là: Nthức ăn = Ntích luỹ + Nthải Để đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế liên quan đến thức ăn, chỉ có chỉ tiêu chi phí thức ăn (VNĐ/con cá và VNĐ/kg cá) được xem xét dựa trên giá mua thức ăn. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 6 2.6. Phương pháp phân tích 2.6.1. Kiểm tra chất lượng nước Các lồng thí nghiệm được kiểm tra nhiệt độ nước hàng ngày vào lúc 7g30 và 15g30 bằng nhiệt kế thủy ngân và độ mặn được kiểm tra hàng tuần bằng khúc xạ kế. 2.6.2. Phân tích hoá học Việc phân tích được tiến hành tại Viện Công nghệ Sinh học và Môi trường, Trường Đại học Nha Trang và Phòng thí nghiệm hóa học thuộc Viện Nghiên cứu biển Cleveland của CSIRO, Australia. Các mẫu nguyên liệu thức ăn, thức ăn và cá mú chủ yếu được phân tích theo Hệ thống phân tích thô (Proximate Analysis System) [12]. Hàm lượng Ni-tơ được xác định theo Phương pháp Kjeldhl có ký hiệu AOAC 988.05 [1]. Phương pháp phân tích lipid tổng số được sử dụng là Phương pháp Folch [9]. 2.6.3. Phân tích thống kê Số liệu được xử lý thống kê trên các phần mềm SPSS (phiên bản 15.0) và Excel 2003. Các thông số WG, DGR, DGI, FI, FCR, FCRwm, NPU và Tỷ lệ sống (SR) được phân tích bằng ANOVA với phép kiểm định Duncan để kiểm tra sự sai khác giữa các trung bình nghiệm thức. Các sai khác được đánh giá có ý nghĩa ở mức P<0,05. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Cá tươi làm thức ăn trong thí nghiệm là cá rô phi sống trước khi bị cắt thành từng khúc thả vào lồng nuôi. Thức ăn viên tổng hợp với các thành phần nguyên liệu như được trình bày trong Bảng 1. Kết quả phân tích hai loại thức ăn này từ Bảng 2 cho thấy thức ăn là cá rô phi có hàm lượng protein, lipid và tro đều cao hơn so với thức ăn viên. Bảng 2. Thành phần phân tích của hai loại thức ăn thí nghiệm Thành phần (%) Thức ăn viên Cá tươi Độ ẩm 6,40 81,33 Tro 14,73 22,43 Protein 54,40 61,25 Lipid thô 12,20 13,68 Trong suốt thời gian thí nghiệm, nhiệt độ nước dao động trong khoảng 27-30oC, độ mặn dao động trong khoảng 26-30 ppt. Các thông số này được xem là thích hợp cho sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá mú chấm đen. Tỷ lệ sống trong nghiên cứu này nằm trong khoảng 75- 76,7% (Bảng 3). Tỷ lệ sống này là chấp nhận được do cá mú là loài khá mẫn cảm, dễ bị “stress” như đã được đề cập trong một nghiên cứu của Shiau (1999) trước đây [16]. Cá mú chấm đen dễ bị tổn thương do thường vùng vẫy khi bị bắt giữ hoặc khi vệ sinh lồng. Chúng thỉnh thoảng tấn công nhau gây ra thương tích và có thể dẫn đến tử vong. Bảng 3. Sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống của cá mú chấm đen Thông số đánh giá Thức ăn viên Thức ăn là cá rô phi ± SEM Khối lượng ban đầu (g) 57,33A 57,55 A 0,152 Khối lượng sau cùng (g) 148,75 A 150,33 A 1,026 WG (%) 159,31 A 161,10 A 1,792 DGR (g/ngày) 0,81 A 0,83 A 0,010 DGI (%/ngày) 1,29 A 1,30 A 0,010 FIdm (g khô/con cá) 190,25 A 200,78 A 4,066 FIwm (g/con cá) 203,26 A 1075,39 B 26,352 FCRdm 2,08 A 2,17 A 0,031 NPU (%) 58,94 A 47,09 A 0,799 Tỷ lệ sống (%) 75,0 A 76,7 A 1,18 A,B,C - Trong mỗi hàng, các giá trị trung bình có ký tự viết lên trên khác nhau thì sai khác có ý nghĩa (P < 0,05). SEM - sai số chuẩn Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 7 Nhìn chung, cá được cho ăn thức ăn là cá rô phi tươi có tốc độ sinh trưởng (thể hiện qua khối lượng cá sau thí nghiệm, WG, DGR, DGI) dường như vẫn tốt hơn so với cá được cho ăn bằng thức ăn viên. Tuy nhiên, sự sai khác này không có ý nghĩa (P>0,05). Lượng thức ăn tính theo chất khô mà cá mú ăn vào (FIdm) là 190,25 g/con đối với thức ăn viên và 200,78 g/con đối với thức ăn cá rô phi, sự sai khác này không có ý nghĩa (P>0,05). Tuy nhiên, lượng thức ăn khi tính cả độ ẩm cho thức ăn viên và thức ăn cá rô phi (FIwm, Bảng 3) lần lượt sẽ là 203,26 g và 1075,39 g. Sự sai khác này có ý nghĩa (P<0,05). Điều này có thể do thức ăn cá tươi rất hấp dẫn cá mú chấm đen nên chúng ăn được nhiều. Tuy nhiên, đây cũng có thể do cá ăn để thoả mãn nhu cầu năng lượng của chúng. Dựa vào các hệ số chuyển hóa năng lượng 23,4; 39,2 và 17,2 theo thứ tự cho protein, lipid và carbohydrate [6], giá trị mật độ năng lượng của hai loại thức ăn này được rút ra là 1919,7 và 376,2 KJ/100 g cho thức ăn viên và thức ăn là cá rô phi, theo thứ tự tương ứng. Như vậy, để thu nhận cùng mức năng lượng thí cá mú chấm đen trong thí nghiệm này cần lượng thức ăn là cá rô phi phải lớn gấp 5 lần lượng thức ăn là thức ăn viên vì mật độ năng lượng của hai loại thức ăn này chênh nhau đến 5,1 lần. Điều này dễ được chấp nhận vì lượng thức ăn cá ăn vào được cho là bị điều chỉnh bởi hàm lượng năng lượng tiêu hóa [11; 15] và các mức thấp của năng lượng chứa trong thức ăn có thể được bù trừ thông qua mức tiêu thụ thức ăn cao hơn như được phát hiện ở cá hồi cầu vồng [5] và cá hanh đầu vàng [13]. Kết quả từ Bảng 3 cũng cho thấy cá mú chuyển hóa các chất dinh dưỡng (thể hiện qua FIdm) trong thức ăn tươi cho sinh trưởng không có sai khác so với thức ăn viên (P>0,05). Tuy nhiên, khi xét hiệu quả sử dụng protein thông qua chỉ số sử dụng protein thực (NPU) ta thấy thức ăn viên có chỉ số NPU khá cao (58,94%), trong khi chỉ số đó với thức ăn là cá rô phi là 47,09% và sự sai khác này có ý nghĩa (P<0,05). Điều này thêm một lần nữa khẳng định thức ăn là cá tươi không phải lúc nào cũng thích hợp về mặt dinh dưỡng đối với cá mú chấm đen. Bảng 4. Thành phần hoá học của cơ thể cá mú chấm đen trước và sau thí nghiệm Thành phần cơ thể (%) Cá trước khi thí nghiệm Cá được cho ăn thức ăn viên Cá được cho ăn cá rô phi tươi ± SEM Độ ẩm 72,64 A 70,91 B 71,01 B 0,265 Protein 17,07 A 19,36 B 19,45 B 0,129 Lipid 5,47 A 6,31 B 6,67 C 0,060 Tro 4,41 A 4,43 A 4,51 A 0,097 A,B,C - Trong cùng một hàng, các giá trị trung bình có ký tự viết lên trên khác nhau thì sai khác có ý nghĩa (P < 0,05). SEM - sai số chuẩn. Chất lượng thịt cá nuôi bị chi phối bởi tỷ lệ tương đối của độ ẩm, protein, lipid và tro. Vì lý do này, người ta thường kiểm tra chất lượng cơ thể cá lúc kết thúc thí nghiệm cho ăn bằng cách đánh giá thành phần cơ thể [7]. Kết quả từ Bảng 4 cho thấy cá sau khi thí nghiệm có sự sai khác về độ ẩm, protein và lipid so với cá trước lúc thí nghiệm (P<0,05). Đây có thể là do sự sai khác về giai đoạn phát triển khác nhau. Cơ thể cá nhỏ thường chứa nhiều nước hơn và ít chất dinh dưỡng hơn. Cá được cho ăn thức ăn viên có thành phần độ ẩm, protein và tro không sai khác đáng kể so với cá được cho ăn bằng cá rô phi (P>0,05). Tuy nhiên, thành phần lipid của chúng thấp hơn (6,31%) so với cá được cho ăn cá rô phi (6,67%) (P<0,05). Điều này có lẽ do cá rô phi chứa hàm lượng chất béo khá cao (13,68%) so với nhu cầu của cá mú chấm đen (không vượt quá 12% [17]) nên chúng tích lũy được nhiều chất béo. Có nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng các mức protein, carbohydrate, xơ và Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 8 lipid trong thức ăn có ảnh hưởng đến thành phần cơ thể sau cùng và do đó ảnh hưởng đến chất lượng thịt của cá thành phẩm như được De Silva và Anderson tổng kết [7]. Điều này có thể cũng đúng với trường hợp cá mú chấm đen khi được nuôi bằng cá rô phi tươi. Bảng 5. Hàm lượng Ni-tơ tổng số phóng thích vào môi trường khi nuôi lồng cá mú chấm đen bằng thức ăn viên và thức ăn là cá rô phi Chỉ tiêu Thức ăn viên Thức ăn cá rô phi tươi ± SEM Hàm lượng Ni-tơ trong thức ăn tính theo chất khô (g/kg) 81,4 98,0 Hệ số chuyển hóa thức ăn tính theo chất khô (FIdm) 2,08 A 2,17 A 0,031 Hàm lượng Ni-tơ trong cơ thể cá mú trước khi thí nghiệm (g/kg) 7,46 7,46 Hàm lượng Ni-tơ trong cơ thể cá mú sau khi thí nghiệm (g/kg) 9,00 9,01 Hàm lượng Ni-tơ phóng thích vào môi trường do nuôi cá mú (g/kg cá) 167,59 A 210,21B 2,877 A,B - Trong cùng một hàng, các giá trị trung bình có ký tự viết lên trên khác nhau thì sai khác có ý nghĩa (P < 0.05). SEM - sai số chuẩn Về khía cạnh môi trường, mặc dù hệ số chuyển hóa thức ăn tính theo chất khô của hai loại thức ăn không có sự sai khác nhưng do hàm lượng Ni-tơ trong thức ăn tính theo chất khô (g/kg) có sự sai khác (P<0,05) (Bảng 5) nên hàm lượng Ni-tơ phóng thích vào môi trường do nuôi cá mú bằng thức ăn viên giảm đi rất nhiều (167,59 g/kg cá) so với nuôi bằng thức ăn cá rô phi (210,21 g/kg cá) và sự sai khác này có ý nghĩa (P<0,05). Tuy nhiên, mức độ gây ô nhiễm của loại thức ăn viên của thí nghiệm này vẫn còn cao so với một số loại thức ăn dùng cho nuôi cá hồi ở châu Âu. Theo Iwama (1999) [7], hàm lượng Ni-tơ tổng số thải ra từ hoạt động nuôi cá hồi Oncorhynchus mykiss ước nằm trong khoảng 45-77 g/kg cá. Rõ ràng để giảm thiểu việc gây ô nhiễm môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản nói chung, trong nuôi lồng cá mú nói riêng chúng ta cần phải có những nghiên cứu cải tiến công nghệ sản xuất thức ăn cũng như cải tiến quản lý việc cho ăn. Bảng 6. So sánh hiệu quả kinh tế của việc sử dụng hai loại thức ăn khác nhau trong nuôi cá mú chấm đen: thức ăn viên tổng hợp và thức ăn là cá rô phi Chỉ tiêu Thức ăn viên Thức ăn là cá rô phi tươi ± SEM Mức tăng khối lượng tuyệt đối (g/con cá) 91,4 A 92,8 A 0,99 Lượng thức ăn đã dùng1 (g/con cá) 203,3A 1075,4B 26,36 Chi phí thức ăn2 I (VND/con cá) 2642,3A 3226,0 B 51,47 Chi phí thức ăn II (VND/kg cá) 28888,7 A 34778,0 B 478,49 A,B - Trong cùng một hàng, các giá trị trung bình có ký tự viết lên trên khác nhau thì sai khác có ý nghĩa (P < 0,05). SEM - sai số chuẩn 1 Lượng thức ăn cho cá ăn trong thực tế bao gồm cả độ ẩm, lượng thức ăn thừa và lượng thất thoát (g). 2 Đơn giá của thức ăn viên được ước tính là 13.000 VND/kg trên cơ sở giá thành khoảng 10.000 VND/kg. Đơn giá của thức ăn cá tươi là 3000 VND/kg. Về vấn đề hiệu quả kinh tế, kết quả từ Bảng 6 cho thấy mức tăng khối lượng tuyệt đối của cá khi được cho ăn thức ăn viên và thức ăn là cá rô phi không có sai khác có ý nghĩa Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 9 (P>0,05). Trong khi đó lượng thức ăn đã dùng cho cá ăn bao gồm cả độ ẩm, lượng thất thoát và lượng dư thừa đã có sự sai khác đáng kể (P<0,05). Trong thí nghiệm này, mặc dù giá cá tươi rẻ hơn rất nhiều so với giá thức ăn viên, nhưng chi phí thức ăn khi nuôi cá mú chấm đen bằng cá rô phi khá cao. Chi phí thức ăn tính cho một con cá trong quá trình thí nghiệm là khoảng 2600 VND với thức ăn viên và khoảng 3200 VND với thức ăn là cá rô phi (P<0,05). Như vậy, nuôi cá mú bằng thức ăn viên trong trường hợp này đã tiết kiệm được 18,09% chi phí thức ăn cho một con cá. IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 4.1. Kết luận: 1. Tốc độ sinh trưởng của cá mú chấm đen được cho ăn thức ăn viên và thức ăn là cá tươi sai khác không có ý nghĩa (P>0,05). Hệ số chuyển hóa thức ăn tính theo chất khô của cá được nuôi bằng thức ăn viên là 2,08 và bằng thức ăn cá tươi là 2,17 (P>0,05). Thức ăn viên có chỉ số NPU khá cao (58,94%) so với thức ăn là cá tươi (47,09%) và sự sai khác này có ý nghĩa (P<0,05). Cá được cho ăn thức ăn viên có thành phần độ ẩm, protein và tro không sai khác đáng kể so với cá được cho ăn bằng cá tươi (P>0,05). Tuy nhiên, thành phần lipid của chúng thấp hơn (6,31%) so với cá được cho ăn cá tươi (6,67%) (P<0,05). 2. Hàm lượng Ni-tơ phóng thích vào môi trường do nuôi cá mú bằng thức ăn viên giảm đi rất nhiều (167,59 g/kg cá) so với nuôi bằng thức ăn cá tươi (210,21 g/kg cá) (P<0,05). 3. Chi phí thức ăn để nuôi lồng một con cá mú chấm đen từ 57g đến 150 g là 2642 VND với thức ăn viên và 3225 VND với thức ăn là cá tươi (P<0,05). Nuôi cá mú bằng thức ăn viên trong thí nghiệm này đã tiết kiệm được 18,09% chi phí thức ăn so với nuôi bằng cá tươi. 4.2. Khuyến nghị: nên có dự án nghiên cứu và triển khai quy trình sản xuất thức ăn viên phục vụ nuôi thương phẩm cá mú chấm đen trên diện rộng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Lê Anh Tuấn (2005a), “Nguồn lợi “cá tạp” ở biển Việt Nam: thành phần, sản lượng, các hướng sử dụng chính và tính bền vững khi làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản”, trong Kỷ yếu Hội thảo toàn quốc về Bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản ngày14-15/1/2005 tại Hải Phòng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 379-387. 2. Lê Anh Tuấn (2005b), “Các nguồn dinh dưỡng và vấn đề môi trường liên quan đến hoạt động nuôi tôm hùm lồng ở Xuân Tự, Vạn Ninh, Khánh Hòa”, trong Tuyển tập Hội thảo toàn quốc về nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ trong nuôi trồng thủy sản 22-23/12/2004 tại Vũng Tàu, tr. 643-653. Tiếng Anh 3. AOAC International (1999), Official methods of analysis, 16th edn. Association of Official Analytical Chemists International, Maryland, USA. 4. Beveridge, M.C.M. (1996), Cage Aquaculture, 2nd edn., Fishing News Books, Oxford. 352p. 5. Bromley, P.J., Adkins, T.C., (1984), “The influence of cellulose filler on feeding, growth and utilizationof protein and energy in rainbow trout, Salmon gairdnerii Richardson”, J. Fish Biol., 24, pp235-244. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 10 6. Cho, C.Y., Slinger, S.J. and Bayley, M.S. (1982), “Bioenergertics of salmonid fishes: energy intake, expenditure and productivity”, Com. Biochem. Physiol. 73B, pp 25-41. 7. De Silva S.S. and Anderson, T.A. (1995), Fish nutrition in aquaculture. Chapman and Hall, 91p. 8. Edwards, P., Tuan, L.A., Allan, J. (2004), A survey of marine trash fish and fish meal as aquaculture feed ingredients in Vietnam, ACIAR working paper No. 57, Canbera, Australia. 9. Folch, J., Lees, M., Sloane-Stanley, G.H. (1957), “ A simple method for the isolation and purification of total lipids from animal tissues”, J. Bio. Chem. 226, pp 497-509. 10. Guillaume, J., Kaushik, S., Bergot, P., & MÐtailler, R. (2001), Nutrition and feeding of fish and crustaceans, Praxis Publishing, Chichester, UK. 11. Kentouri, M., Divanach, P., Geurden, I., Anthouard, M. (1995), “Evidence of adaptive behavior in gilthead seabream (Sparus aurata L.) in relation to diet composition, in a self-feeding condition”, Ichtyophysiol. Acta 18, pp 125-143. 12. Lazo, J.P., Davis, D.A. (2000), “Ingredient and Feed evaluation” in Encyclopedia of Aqauculture, Ed Stickney, R.R., New York, USA. 13. Lupatsch, I., Kissil, G. WM., Sklan, D., Pfeffer, E. (2001), “Effects of varying dietary protein and energy supply on growth, body composition and protein utilization in glt-head sea bream (Sparus aurata L)”, Aquaclt. Nutr. 7, pp 71-80. 14. New, M.B. (1996), “Responsible use of aquaculture feeds”, Aquaculture Asia, 1, pp 3-15. 15. Paspatis, M., Boujard, T. (1996), “A comparative study of automatic feeding and self-feeding in juvenile Atlantic salmon (Salmon salar) fed diets of different energy levels”, Aquaculture 145, pp 245-257. 16. Shiau, S.Y. and Lan, C.W. (1996), “Optimum dietary protein level and protein to energy ratio for growth of grouper (Epinephelus malabaricus)”, Aquaculture, 145, pp 259-266. 17. Tuan, L.A. and Williams, K.C. (2007), “Optimum dietary protein and lipid specifications for juveniles malabar grouper (Epinephelus malabaricus)”, Aquaculture 267, pp129-138.
File đính kèm:
- so_bo_danh_gia_hieu_qua_ky_thuat_kinh_te_va_moi_truong_cua_v.pdf