Tác động của hoạt động kinh doanh ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của hoạt động kinh doanh ngân hàng đối

với tăng trưởng kinh tế tại VN. Dữ liệu sử dụng được lấy từ Data

bank scope, World Development Indicators và báo cáo thường niên

của các ngân hàng thương mại (NHTM) VN giai đoạn từ năm 1999 – 2012.

Bài viết sử dụng mô hình hồi quy với dữ liệu bảng không cân bằng (unbalanced

panel data). Kết quả thực nghiệm cho thấy hoạt động kinh doanh ngân hàng

thông qua kênh tín dụng; hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng thông qua

các chỉ số ROA, ROE; dự phòng rủi ro tín dụng; tỷ lệ thu nhập từ lãi ròng trên

tổng tài sản và quy mô ngân hàng có ý nghĩa trong mối quan hệ với tăng trưởng

kinh tế. Ngoài ra, các biến số vĩ mô như tỷ lệ tổng vốn đầu tư nội địa, tỷ lệ xuất

khẩu hàng hoá, dịch vụ, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ học sinh trung học và chênh lệch lãi

suất tiền gửi và tiền vay cũng có mối quan hệ cùng chiều với tăng trưởng.

Từ khóa: Hoạt động kinh doanh ngân hàng, tăng trưởng kinh tế, dữ liệu

không cân bằng.

pdf 9 trang Bích Ngọc 06/01/2024 1000
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của hoạt động kinh doanh ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của hoạt động kinh doanh ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Tác động của hoạt động kinh doanh ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Số 19 (29) - Tháng 11-12/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
43
1. giới thiệu
Phân tích các nhân tố tác động 
đến tăng trưởng kinh tế nói chung 
và mối quan hệ giữa hiệu quả của 
khu vực tài chính với tăng trưởng 
kinh tế của mỗi quốc gia đã được 
thực hiện trong rất nhiều các nghiên 
cứu khác nhau trên thế giới. Đối 
với hệ thống tài chính của VN thì 
các ngân hàng thương mại chiếm 
giữ vị trí vô cùng quan trọng trong 
quá trình giúp nguồn vốn của nền 
kinh tế được lưu thông góp phần 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy 
nhiên, các nghiên cứu hiện nay của 
VN chỉ mới dừng ở các phân tích 
định tính về mối quan hệ giữa hoạt 
động kinh doanh ngân hàng với 
tăng trưởng kinh tế nên chưa có 
những bằng chứng định lượng đủ 
thuyết phục chứng minh vai trò của 
hệ thống ngân hàng với nền kinh 
tế. Chính vì lý do đó, nhóm nghiên 
cứu chọn đề tài “Phân tích tác động 
của hoạt động kinh doanh ngân 
hàng đến tăng trưởng kinh tế tại 
VN” nhằm giúp những nhà hoạch 
định chính sách cũng như các bên 
liên quan nhận thấy tầm quan trọng 
của hệ thống ngân hàng tại VN.
2. Cơ sở lý thuyết và phương 
pháp nghiên cứu
Cơ sở lý thuyết
Mối quan hệ giữa hoạt động 
của hệ thống tài chính và tăng 
trưởng kinh tế
Thị trường tài chính là khu vực 
trung gian trong nền kinh tế, góp 
phần vào quá trình tích lũy vốn và 
đổi mới công nghệ, có mối quan 
hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế 
(Hình 1). Vì thế, mối quan hệ giữa 
hệ thống tài chính và tăng trưởng 
kinh tế trở thành vấn đề được các 
nhà kinh tế học quan tâm từ cuối 
thế kỷ 19. Theo đó, vai trò của hệ 
thống tài chính đến quá trình tăng 
trưởng đặc biệt được nhấn mạnh. 
Thể hiện trong nghiên cứu của 
mình, Bagehot (1873) cho rằng 
hệ thống tài chính chiếm một vị 
trí quan trọng trong quá trình công 
nghiệp hóa tại Anh. Tương tự, 
Schumpeter (1912) kết luận rằng 
các ngân hàng hiện đại đã góp 
Tác động của hoạt động 
kinh doanh ngân hàng đến tăng trưởng 
kinh tế tại Việt Nam
nguyễn MInh Sáng & nguyễn ThIên KIM
Đại học Ngân hàng TP. HCM
Bài viết phân tích tác động của hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế tại VN. Dữ liệu sử dụng được lấy từ Data bank scope, World Development Indicators và báo cáo thường niên 
của các ngân hàng thương mại (NHTM) VN giai đoạn từ năm 1999 – 2012. 
Bài viết sử dụng mô hình hồi quy với dữ liệu bảng không cân bằng (unbalanced 
panel data). Kết quả thực nghiệm cho thấy hoạt động kinh doanh ngân hàng 
thông qua kênh tín dụng; hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng thông qua 
các chỉ số ROA, ROE; dự phòng rủi ro tín dụng; tỷ lệ thu nhập từ lãi ròng trên 
tổng tài sản và quy mô ngân hàng có ý nghĩa trong mối quan hệ với tăng trưởng 
kinh tế. Ngoài ra, các biến số vĩ mô như tỷ lệ tổng vốn đầu tư nội địa, tỷ lệ xuất 
khẩu hàng hoá, dịch vụ, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ học sinh trung học và chênh lệch lãi 
suất tiền gửi và tiền vay cũng có mối quan hệ cùng chiều với tăng trưởng. 
Từ khóa: Hoạt động kinh doanh ngân hàng, tăng trưởng kinh tế, dữ liệu 
không cân bằng.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 19 (29) - Tháng 11-12/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
44
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc phát triển 
hệ thống kỹ thuật tiên tiến để tìm và hỗ trợ những nhà khởi 
nghiệp, trao cho họ cơ hội quý giá để phát triển sản phẩm 
và quy trình sản xuất. Góp phần nhấn mạnh kết luận này, 
King và Levine (1993a) đưa ra kết luận trong nghiên cứu 
về mối quan hệ giữa khu vực tài chính và tăng trưởng, rằng 
Schumpeter có thể đúng bởi khi nghiên cứu thực nghiệm 
trên 80 quốc gia trong giai đoạn 1960 - 1989, ông đã chứng 
minh sự phát triển của thị trường tài chính có mối liên hệ 
chặt chẽ đến quá trình tăng trưởng GDP thực bình quân đầu 
người, tỷ lệ tích lũy vốn và cải thiện hiệu quả sử dụng vốn 
của nền kinh tế. Ngoài ra, các yếu tố cấu thành sự phát triển 
này cũng liên hệ mật thiết đến việc dự báo tỷ lệ tăng trưởng, 
tích lũy vốn và sử dụng vốn trong tương lai. 
Để giải thích cho mối quan hệ này, McKinnon (1973) 
cho rằng, tự do hóa tài chính đã khiến cho vai trò của các 
định chế tài chính được nâng lên, khuyến khích tiết kiệm và 
hạn chế tích lũy vốn, điều này khiến dòng vốn chuyển từ 
những ngành sản xuất kém hiểu quả sang những ngành sản 
xuất hiệu quả hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính góp 
phần làm đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro 
và cung cấp cho nhà đầu tư nhiều cơ hiệu để tăng lợi nhuận. 
Năng lực sản xuất của nền kinh tế được quyết định bởi số 
lượng cũng như chất lượng các khoản đầu tư. Việc nới lỏng 
tín dụng, đặc biệt là vốn lưu động, sẽ tác động làm tăng tính 
hiệu quả của quá trình phân bổ nguốn lực, làm giảm chênh 
lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế. 
Tuy nhiên, cũng có một số quan điểm trái chiều khi cho 
rằng mối quan hệ này không quan trọng, Robinson (1952) 
cho rằng các nhà kinh tế đã quá đề cao các nhân tố tài chính 
đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Một ví dụ điển hình 
để chứng minh các nhà kinh tế hiện đại gần như bỏ qua yếu 
tố này là việc 3 nhà kinh tế học đoạt giải Nobel là Meir và 
Seers (1984) và Stern (1989) đã không đề cập đến yếu tố tài 
chính khi nghiên cứu về sự phát triển kinh tế. Những quan 
điểm trái chiều càng chứng minh sự quan tâm sâu sắc của 
các nhà kinh tế học đến mối quan hệ này.
Mối quan hệ giữa hoạt động kinh doanh ngân hàng và 
tăng trưởng kinh tế
Khu vực ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với thị 
trường tài chính nói chung. Khu vực này là chủ thể chính 
cung cấp tín dụng cho cá nhân, doanh nghiệp và cả chính 
phủ. Vì thế, thể hiện trong các nghiên cứu về mối quan 
hệ giữa thị trường tài chính và tăng trưởng kinh tế, có khá 
nhiều biến liên quan đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. 
Ví dụ như tín dụng ngân hàng cho khu vực tư nhân King và 
Levine (1993a), tăng trưởng tín dụng (FitzGerald, V. ,2006) 
hay tổng tiền gửi (Anwar và Nguyen, 2009). Mối quan hệ 
giữa hoạt động kinh doanh ngân hàng và tăng 
trưởng kinh tế bắt đầu trở thành đề tài được các 
nhà kinh tế học quan tâm. Thật vậy, số lượng các 
nghiên cứu kiểm định mối quan hệ này ngày một 
nhiều hơn, rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. 
Steiner, et al (1963) khẳng định hoạt động 
của hệ thống ngân hàng tác động đến quá trình 
tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của khu vực này 
tác động đến cung tiền, ảnh hưởng trực tiếp đến 
quá trình sản xuất như loại hàng hóa, số lượng 
và nơi sản xuất. Kết luận tương tự được đưa ra 
bởi Ubom (2009) khi cho rằng bởi vì hệ thống 
ngân hàng đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế, hiệu 
quả hoạt động của hệ thống cũng tác động trực 
tiếp đến tăng trưởng. Hoạt động như một trung 
 Thị trường không hoàn hảo 
- Chi phí thông tin 
- Chi phí giao dịch 
Kênh tăng trưởng: 
- Tích lũy vốn 
- Đổi mới công nghệ 
Thị trường tài chính và các định chế tài chính 
Chức năng của thị trường tài chính: 
- Huy động vốn 
- Phân bổ vốn 
- Hỗ trợ kiểm soát doanh nghiệp 
- Hỗ trợ quản trị rủi ro 
- Giảm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, hợp 
đồng. 
TĂNG TRƯỞNG 
Hình 1. Mối quan hệ giữa thị trường tài chính và tăng 
trưởng kinh tế
Nguồn: Levine, R. (1997) 
Số 19 (29) - Tháng 11-12/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
45
3. Dữ liệu và phương pháp 
nghiên cứu
3.1. Dữ liệu
Các biến sử dụng trong mô hình 
được tổng hợp từ các nghiên cứu 
trên thế giới về mối quan hệ giữa 
hoạt động kinh doanh ngân hàng 
và tăng trưởng kinh tế. 
Hai biến tiết kiệm và tín dụng 
ngân hàng được sử dụng bởi 
Greenwoood và Jovanovic (1990) 
để chỉ ra rằng hoạt động này giúp 
ngân hàng đa dạng hoá và chia sẻ 
rủi ro, hoạt động kiểm tra và giám 
sát của ngân hàng giúp các dự án 
khả thi tiếp cận được nguồn vốn 
với chi phí thấp hơn. Về tổng thể, 
khi hệ thống ngân hàng hoạt động 
hiệu quả giúp việc phân bổ vốn 
của nền kinh tế hiệu quả hơn tạo 
động lực cải thiện năng suất toàn 
xã hội và kích thích tăng trưởng 
kinh tế. Các nghiên cứu của Allen 
và Ndikumama (1998), King và 
Levine (1993), Frankel và Romer 
(1999), Tsuru (2000), Levine và 
Loayza (1999), Dages và cộng sự 
(2000) cũng đồng ý với quan điểm 
này.
Các biến lợi nhuận ngân hàng, 
lãi suất, chi tiêu của chính phủ và 
vốn chủ sở hữu của ngân hàng 
được sử dụng bởi Khatib và cộng 
sự (1999) khi nghiên cứu mối quan 
hệ giữa hiệu quả hoạt động kinh 
doanh ngân hàng và phát triển 
kinh tế tại Quatar giai đoạn 1996 - 
1997. Samolyk (1992) nghiên cứu 
mối quan hệ giữa hoạt động kinh 
doanh ngân hàng và tăng trưởng 
kinh tế theo quy mô cấp tiểu bang 
tại Mỹ trong giai đoạn từ 1982 đến 
1990 đã chỉ ra tín dụng ngân hàng, 
hiệu quả hoạt động của ngân hàng, 
quy mô nợ xấu của ngân hàng tác 
động đến tăng trưởng kinh tế của 
mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu của 
Pantaleo J.Kessy (2007) cũng 
gian tài chính, ngân hàng chuyển 
vốn từ nhóm thặng dư sang nhóm 
thâm hụt vốn, quá trình này tạo nên 
sự tích lũy vốn, từ đó làm tăng sản 
lượng dẫn đến tăng trưởng (Azege, 
2009).
Tuy nhiên, cũng có một số kết 
quả thực nghiệm bác bỏ mối quan 
hệ giữa hoạt động kinh doanh ngân 
hàng và tăng trưởng kinh tế. Fadare 
(2010) phân tích thị trường Nigeria 
giai đoạn 1999-2009 và kết luận 
rằng không tồn tại mối quan hệ 
này. Tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ lạm phát 
trễ 1 năm, chênh lệch lãi suất, lợi 
tức trên thị trường tương đương 
(Parallel market premiums), tổng 
tín dụng ngân hàng cung cấp cho 
khu vực tư nhân, quy mô của hệ 
thống ngân hàng và tỷ lệ dự trữ tiền 
mặt được sử dụng như các biến đại 
diện trong nghiên cứu này. Dựa vào 
kết quả này, tác giả đưa ra kiến nghị 
là khu vực ngân hàng phải giảm tỷ 
lệ dự trữ tiền mặt để tăng lượng tiền 
đưa vào lưu thông. Kết quả tương 
tự được đưa ra bởi Ekpenyong, 
D. B. và Acha, I.A. (2011) đối với 
thị trường Nigeria giai đoạn 1980-
2008. Mô hình hồi quy được sử 
dụng bao gồm các biến như GDP, 
độ sâu tài chính (M2/GDP), tỷ lệ 
tiết kiệm (tổng tiết kiệm/ GDP), 
tỷ lệ tín dụng và tỷ lệ tiền tệ (tiền 
lưu thông ngoài ngân hàng/ M2). 
Nghiên cứu kết luận rằng những 
biến khác có tác động mạnh mẽ 
hơn đến tăng trưởng kinh tế ví dụ 
như nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, 
ổn định chính trị và kỹ thuật công 
nghệ. Những kết quả khác nhau 
này làm cho mối quan hệ giữa hoạt 
động kinh doanh ngân hàng và tăng 
trưởng kinh tế trở thành một vấn đề 
gây nhiều tranh cãi, đồng thời, cũng 
tạo ra khoảng trống cho các nghiên 
cứu tiếp theo.
khẳng định hiệu quả hoạt động kinh 
doanh ngân hàng có tác động lớn 
đến tăng trưởng kinh tế tại Tazania, 
Kenya và Uganda. Nghiên cứu 
của Karim (2000) cũng chỉ ra có 
mối quan hệ mật thiết giữa mức 
độ không hiệu quả của các ngân 
hàng với tăng trưởng kinh tế tại 
một số quốc gia ASEAN giai 
đoạn 1989 – 1996. Để đo lường 
quy mô của hoạt động kinh 
doanh ngân hàng tại VN nghiên 
cứu sử dụng thêm các biến như 
SIZ là logarit tự nhiên của tổng 
tài sản các ngân hàng hay SER là 
thu nhập ròng từ hoạt động dịch 
vụ của các NHTM VN.
Ngoài các yếu tố chủ quan 
từ bên trong các NHTM, tăng 
trưởng kinh tế còn chịu sự tác 
động của các yếu tố kinh tế vĩ mô 
của nền kinh tế. Theo nghiên cứu 
của Koivu (2002) các biến vĩ mô 
được sử dụng đó là tỷ lệ lạm phát, 
chênh lệch lãi suất tiền gửi và tiền 
vay, tỷ lệ tổng vốn đầu tư nội địa 
trên GDP và tỷ lệ xuất khẩu trên 
GDP được sử dụng để phân tích 
sự tác động đến tăng trưởng kinh 
tế. Nghiên cứu của Sajid Anwar và 
Lan Nguyen (2009) về mối quan 
hệ giữa sự phát triển của hệ thống 
tài chính với tăng trưởng kinh tế 
theo quy mô 61 tỉnh thành tại VN 
trong giai đoạn 1997 – 2006 cũng 
sử dụng các biến vĩ mô là tỷ lệ lạm 
phát, và tỷ lệ xuất khẩu trên GPP 
của từng tỉnh, thành. Mô Hình lý 
thuyết truyền thống của Keynes thì 
xuất khẩu có tác động thúc đẩy sự 
phát triển kinh tế. Các nghiên cứu 
thực nghiệm của Marin (1992) và 
Vohra (2001) cũng khẳng định mối 
quan hệ cùng chiều của xuất khẩu 
và tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh 
đó nghiên cứu cũng sử dụng biến 
tỷ lệ học sinh trung học và biến độ 
trễ 1 năm của GDP làm biến độc 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 19 (29) - Tháng 11-12/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
46
lập để phân tích sự tác động của 
các biến vĩ mô đến tăng trưởng 
kinh tế tại VN.
Sau quá trình tổng hợp các 
nghiên cứu có liên quan và phân 
tích tình hình thực trạng hoạt động 
kinh doanh của hệ thống ngân 
hàng tại VN. Để phân tích vai trò 
của hoạt động kinh doanh ngân 
hàng đối với tăng trưởng kinh tế tại 
VN, nghiên cứu sử dụng mô hình 
ở Bảng 1.
Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu 
được thu thập từ Data bank scope, 
World Development Indicators 
và báo cáo thường niên của các 
NHTM VN giai đoạn từ năm 1999 
– 2012.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích nghiên 
cứu sử dụng là hồi quy với dữ liệu 
bảng không cân bằng (unbalanced 
panel data). Phương pháp hồi quy 
với dữ liệu bảng đã được thực hiện 
trong rất nhiều nghiên cứu trước đó 
như nghiên cứu của King và Levine 
(1993), Koivu (2002), Pantaleo 
J.Kessy (2007), Sajid Anwar and 
Lan Nguyen (2011).
GDP
t
 = α+ β
1
BPC + β
2
SAV 
+ β
3
ROA + β
4
ROE+ β
5
QUA + 
β6NIM + β7SIZ+ β8SER+ β9INV 
+ β
10
OPE + β
11
INF+ β
12
EDU + 
β
13
IRS+ β
13
GDP
t-1
 + ε
it
 (1)
Trong đó GDP
t 
là biến phụ 
thuộc, các biến BPC, SAV, ROA, 
ROE, QUA, NIM, SIZE, SEV là 
biến độc lập chủ quan từ bên trong 
các NHTM VN. Các biến INV, 
OPE, INF, EDU, IRS là các biên 
độc lập khách quan từ các yếu tố vĩ 
mô của nền kinh tế, ε
it 
là nhiễu.
4. Kết quả nghiên cứu
Dựa vào dữ liệu thu thập được 
cùng với mô hình đề xuất, nghiên 
cứu tiến hành hồi quy dữ liệu bảng 
với hai tác động: tác động cố định 
STT Biến Ý nghĩa Dấu kỳ vọng
Biến phụ thuộc
1 GDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Biến độc lập: nhân tố chủ quan
1 BLP Tỷ lệ dư nợ tín dụng / tổng tài sản +
2 SAP Tỷ lệ tiền gửi của khách hàng/ tổng tài sản +
3 ROA Suất sinh lời trên tổng tài sản +
4 ROE Suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu +
5 QUA Dự phòng rủi ro tín dụng/ tổng dư nợ -
6 NIM Thu nhập từ lãi ròng/ tổng tài sản -
7 SIZ Logarit tự nhiên của tổng tài sản +
8 SEP Tỷ lệ thu nhập ròng từ dịch vụ/ tổng tài sản +
Biến độc lập: nhân tố khách quan
1 INV Tỷ lệ tích luỹ tài sản cố định gộp (% GDP)Tỷ lệ tổng vốn đầu tư nội địa (% GDP) +
2 OPE Tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ (% GDP) +
3 INF Tỷ lệ lạm phát -/+
4 EDU Tỷ lệ học sinh trung học +
5 IRS Chênh lệch lãi suất tiền gửi và tiền vay -
Bảng 1. Ý nghĩa và đấu kỳ vọng của các biến trong mô hình hồi quy
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Trung bình Độ lệnh chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
Số quan 
sát
Biến phụ thuộc
GDP 6.7946% 0.3260% 4.7736% 8.4563% 14
Biến độc lập
BLP 54.4048% 0.7775% 11.3919% 94.4217% 430
SAP 57.1803% 0.7918% 11.6519% 93.5403% 430
ROA 1.4010% 0.0569% 0.0300% 8.4300% 430
ROE 11.7697% 0.3454% 0.5400% 44.2500% 430
QUA 1.2357% 0.0680% 0.0100% 11.4400% 430
NIM 2.6537% 0.0616% ... 
VN, nghiên cứu đề xuất một số giải 
pháp với hệ thống các ngân hàng 
tại VN:
Thứ nhất là nhóm giải pháp 
nhằm nâng cao hiệu quả cung ứng 
vốn cho nền kinh tế thông qua kênh 
tín dụng ngân hàng. 
- Để nâng cao hiệu quả cung 
ứng vốn cho nền kinh tế các ngân 
hàng VN cần hoàn thiện công tác 
thẩm định dự án từ quy trình cũng 
Số 19 (29) - Tháng 11-12/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
49
như nguồn nhân lực thực hiện quy 
trình đó nhất là vấn đề về đạo đức 
của người thẩm định. 
- Cần loại bỏ bất cân xứng thông 
tin trong quá trình thẩm định giúp 
các ngân hàng có quyết định đúng 
đắn khi tiến hành cung ứng vốn 
cho các dự án tiềm năng góp phần 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 
- Nhằm giúp ngân hàng tập 
trung tối đa nguồn lực vào các hoạt 
động kinh doanh chính thì Đại hội 
đồng cổ đông nên có những hạn 
chế trong việc đầu tư ngoài ngành 
– những lĩnh vực không phải là thế 
mạnh của các ngân hàng làm phân 
tán nguồn lực của ngân hàng và 
giảm hiệu quả trong quá trình cung 
ứng vốn cho nền kinh tế.
- Để các chủ thể đi vay thực 
hiện đúng cam kết khi vay vốn các 
ngân hàng cần có cơ chế giám sát 
chặt chẽ hơn nữa về mục đích sử 
dụng vốn và có các biện pháp xử 
lý kịp thời khi khách hàng vi phạm 
hợp đồng nhằm đảm bảo nguồn 
vốn cung ứng được sử dụng đúng 
mục đích và có hiệu quả.
Thứ hai là nhóm giải pháp 
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động 
huy động vốn của các ngân hàng 
VN.
- Hiệu quả hoạt động huy động 
vốn của các ngân hàng VN được 
cải thiện khi ngân hàng cung ứng 
các gói sản phẩm linh hoạt và phù 
hợp với nhu cầu của từng đối tượng 
khách hàng.
- Các ngân hàng VN phải xây 
dựng những chương trình khuyến 
mãi và khung lãi suất hợp lý cho 
từng kỳ hạn tương ứng.
Thứ ba là nhóm giải pháp nâng 
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh 
của các ngân hàng thương mại 
VN. 
Để nâng cao hiệu quả sử dụng 
nguồn lực trong hoạt động của 
ngân hàng cần nhiều giải pháp 
đồng bộ tuy nhiên trong phạm vi 
nghiên cứu này đề xuất một số giải 
pháp cơ bản sau: 
- Nâng cao năng lực quản trị 
giúp các ngân hàng trên đảm bảo an 
toàn hoạt động, duy trì quy mô hợp 
lý từ đó phát triển theo đúng định 
hướng, chiến lược dài hạn giúp các 
ngân hàng nâng cao hiệu quả sử 
dụng nguồn lực. Để nâng cao năng 
lực quản trị cần phải thay đổi từ tư 
duy của những người làm quản trị, 
tổ chức đào tạo để nâng cao trình 
độ chuyên môn, hoàn thiện quy 
trình quản trị và cuối cùng là cần 
phát triển hệ thống thông tin hiện 
đại nhằm hỗ trợ cho quá trình ra 
quyết định trong quản trị 
- Kiểm soát chặt chẽ các chi phí 
đầu vào như chi phí lãi vay, chi phí 
nhân viên và chi phí tư bản. Bên 
cạnh đó, việc nâng cao năng lực 
cạnh tranh chính là động lực để các 
ngân hàng không ngừng sáng tạo, 
đổi mới và tự hoàn thiện. Để nâng 
cao năng lực cạnh tranh các ngân 
hàng cần nâng cao năng lực tài 
chính, hoàn thiện bộ máy tổ chức 
và phát triển hệ thống công thông 
tin hiện đại nhằm cung cấp sản 
phẩm, dịch vụ tốt nhất cho khách 
hàng.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 
mới, cần có định hướng chuyển từ 
ứng dụng công nghệ thông tin theo 
chiều rộng sang phát triển và ứng 
dụng theo chiều sâu. Các ngân 
hàng cần xây dựng chính sách phát 
triển công nghệ và có những đầu tư 
hợp lý vì công nghệ hiện đại chính 
là đòn bẩy giúp ngân hàng nâng 
cao hiệu quả sử dụng nguồn lực 
của ngân hàng.
- Mặc dù nghiên cứu không đề 
cập đến chất lượng nguồn nhân lực 
đến hiệu quả của ngân hàng nhưng 
phải khẳng định rằng chính nguồn 
nhân lực là yếu tố then chốt giúp 
các ngân hàng có thể nâng cao hiệu 
quả sử dụng nguồn lực. Do đó, các 
ngân hàng cần phải chú trọng xây 
dựng nguồn nhân lực có chất lượng 
cao, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ 
và đạo đức trung thực làm nền 
tảng để nâng cao hiệu quả sử dụng 
nguồn lực bền vững.
Thứ tư là nhóm giải pháp nâng 
cao chất lượng tài sản và quy mô 
hoạt động của hệ thống ngân hàng 
VN. 
- Để nâng cao chất lượng tài 
sản, các ngân hàng VN cần tập 
trung xử lý nợ xấu như tái cơ cấu 
nợ hay thực hiện bán nợ xấu cho 
Công ty quản lý tài sản của các tổ 
chức tín dụng (VAMC) nhằm khơi 
thông nguồn cung ứng vốn cho nền 
kinh tế.
- Thực tế hoạt động của các ngân 
hàng VN cho thấy khi quy mô hoạt 
động của các ngân hàng VN được 
mở rộng thì hiệu quả hoạt động của 
các ngân hàng không được cải thiện 
tương ứng làm giảm vai trò của các 
ngân hàng đối với tăng trưởng kinh 
tế. Chính vì thế, khi mở rộng quy 
mô hoạt động các ngân hàng VN 
cần chú ý nâng cao hiệu quả hoạt 
động tương ứng và tận dụng lợi thế 
kinh tế nhờ quy mô nhằm nâng cao 
vai trò của hoạt động kinh doanh 
ngân hàng với tăng trưởng kinh tế 
tại VN.
Thứ năm là nhóm giải pháp 
mở rộng và nâng cao chất lượng 
của hoạt động cung ứng dịch vụ và 
thanh toán tại các ngân hàng VN.
Để mở rộng hoạt động cung 
ứng dịch vụ và thanh toán các 
ngân hàng VN cần có chiến lược 
phát triển dịch vụ và cải thiện công 
nghệ thanh toán nhằm nâng cao tỷ 
trọng doanh thu từ hoạt động cung 
ứng dịch vụ và thanh toán. Khi 
hoạt động thanh toán và các dịch 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 19 (29) - Tháng 11-12/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
50
vụ được mở rộng thì dòng vốn của 
nền kinh tế lưu thông qua hệ thống 
ngân hàng ngày càng tăng lên làm 
gia tăng vai trò của hoạt động kinh 
doanh ngân hàng đến tăng trưởng 
kinh tế tại VN.
Kiến nghị chính sách nhằm 
nâng cao vai trò hoạt động kinh 
doanh ngân hàng góp phần thúc 
đẩy tăng trưởng kinh tế VN
Bên cạnh những giải pháp từ 
phía các ngân hàng thì NHNN với 
vai trò là cơ giám quản lý và giám 
sát hoạt động kinh doanh ngân 
hàng đóng vai trò quan trọng giúp 
nâng cao vai trò của hoạt động kinh 
doanh ngân hàng với tăng trưởng 
kinh tế ở VN thông qua một số giải 
pháp: (i) Hoàn thiện các quy định 
về quản lý an toàn hoạt động của 
hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo 
hệ thống hoạt động an toàn và hiệu 
quả góp phần thúc đẩy tăng trưởng 
kinh tế; (ii) Nâng cao hiệu quả hoạt 
động của Trung tâm thông tin tín 
dụng giúp các ngân hàng giảm bất 
cân xứng thông tin cũng như giám 
sát các chủ thể đi vay tốt hơn nhằm 
đảm bảo nguồn vốn cung ứng được 
sử dụng hiệu quả; (iii) Cải thiện và 
phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán 
làm nền tảng cho hệ thống ngân 
hàng mở rộng và nâng cao chất 
lượng hoạt động cung ứng các dịch 
vụ và thanh toán; và (iv) NHNN 
cần duy trì ổn định nền kinh tế vĩ 
mô với các yếu tố chính như: lãi 
suất, lạm phát, tỷ giá tạo điều 
kiện cho hệ thống ngân hàng hoạt 
động ổn định góp phần thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tếl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Allen, D. S. and Ndikumana, L. (1998), 
Financial Intermediation and Economic 
Growth in Southern Africa, Working 
Paper Series 1998-004, The Federal 
Reserve Bank of ST. Louis.
Anwar, S. And Nguyen, L.P. (2009), 
Financial Development And Economic 
Growth In Vietnam, Springer Science 
and Business Media, LLC.
Arestis, P. and Demetriades, P. (1997), 
“Financial Development And Economic 
Growth: Assessing The Evidence”, 
Economic Journal, Vol. 107 (442), pp. 
783-99.
Azege, M. (2009), The Impact of Financial 
Intermediation on Economic Growth: 
The Nigerian Perspective, Research 
Seminar Presented at the Lagos State 
University.
Bagehot, W. (1873), A Description Of Money 
Market, Lombard Street, Homewood, 
IL: Richard D. Irwin, 1962 edition.
Bureau van Dijk (2012), Bankscope data, 
Database.
Bussiness Monitor International (2013), 
“Vietnam Commercial Banking 
Report Q1 2013”, Business Monitor 
International.
Dages, B.G., Goldberg, L., Kinney, D. 
(2000), “Foreign and Domestic Bank 
Participation in Emerging Markets: 
Lessons from Mexico and Argentina”, 
Federal Reserve Bank of New York 
Economic Policy Review, September 
Issue, 17–36.
Ekpenyong, D. B. and Acha, I.A. (2011). 
“Banks and Economic Growth in 
Nigeria”, European Journal of Business 
and Management, Vol 3, No.4, pp. 155-
166.
Fadare, S. O. (2010), “Recent Banking 
Sector Reforms and Economic Growth 
in Nigeria”, Middle Eastern Finance 
and Economics.
FitzGerald, V. (2006), Financial Development 
And Economic Growth: A Critical View, 
Background paper for World Economic 
and Social Survey 2006, March 2006.
Frankel J. A. and Romer D. (1999), “Does 
Trade Cause Growth”, American 
Economic Review 89 pp 379-399.
Greenwoood, J., Jovanovic, B. (1990), 
“Financial Development, Growth, 
and the Distribution of Income”, The 
Journal of Political Economy.
GSO (2013), Indicators, Retrieved from 
Gurley, J., Shaw, E. (1967), “Financial 
Structure and Economic Development”, 
Economic Development and Cultural 
Change 34.
Karim, Mohd Zaini Abd (2000), 
Comparative Bank Efficiency Across 
Countries And Its Relation To Economic 
Growth: An Empirical Study Of Asean 
Countries, PhD dissertation University 
of Arkansas.
King, R.G., Levine, R. (1993a), “Finance 
and Growth: Schumpeter Might Be 
Right”, Quarterly Journal of Economics 
108.
King, R.G., Levine, R. (1993b), “Finance, 
Entrepreneurship and Growth: Theory 
and Evidence”, Journal of Monetary 
Economics 32.
Khatib et al. (1999), “Banking Performance 
and Economic Growth in Qatar: An 
Empirical Investigation”, Journal of 
Administrative Sciences and Economics, 
1999, Vol. 10, Pages 5-27.
Koivu, T. (2002), “Do Efficient Banking 
Sectors Accelerate Economic Growth 
In Transition Countries?” 20 Bofit 
Personnel.
KPMG Report (2013), Vietnam Banking 
Survey 2013.
Levine, R. (1997), “Financial Development 
and Economic growth: Views and 
Agenda”, Journal of Economic 
Literature, Vol. XXXV, pp. 688-726.
Levine, R. (1998), “The Legal Environment, 
Banks, and Long-Run Economic 
Growth”, Journal of Money, Credit and 
Banking 30.
Levine, R., Loayza, N. (1999), Financial 
Intermediation and Growth – Causality 
and Causes, World Bank Policies 
Research Working Paper No. 2059–
1999.
Marin, D. (1992), “Is the Export-Led Growth 
Valid for Developed Countries?”, 
Review of Economics and Statistics, 74, 
pp. 678-688.
McKinnon, R.I. (1973), Money and Capital in 
Economic Development, The Brookings 
Institution, Washington, DC.
Meier, G.M. and Seers, D. (1984), Pioneers 
in Development, New York: Oxford 
University Press for the World Bank.
Số 19 (29) - Tháng 11-12/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
51
Pantaleo J.Kessy (2007), Bank Efficiency 
And Economic Growth: An Empirical 
Analysis Of The Economies Of The East 
African Community (Eac) Countries, 
PhD dissertation Colorado State 
University.
Robinson, J. (1952), The Generalization of 
the General Theory, The Rate of Interest 
and Other Essays, London, Macmillan: 
67-146.
Sajid Anwar and Lan Nguyen (2011), 
“Financial Development And Economic 
Growth In Vietnam”, Journal of 
Economics and Finance, Springer, vol. 
35(3), pages 348-360.
Samolyk, K. A. (1992), “Banking Conditions 
and Regional Economic Performance: 
Evidence of a Regional Credit Channel”, 
Journal of Monetary Economics, Vol. 
34, No. 2, pp. 259-278.
Schumpeter, J. A. (1912), Theorie der 
Wirtschaftlichen Entwicklung, Leipzig: 
Dunker & Humblot, The Theory of 
Economic Development, translated by 
R. Opie. Cambridge, MA: Harvard 
University Press, 1934.
Stern, N. (1989), “The Economics Of 
Development: A Survey”, The Economic 
Journal 100, pp. 597-685.
Steiner, W. H., et al (1963), Money and 
Banking: An Introduction to the 
Financial System., New Delhi: Prentice 
Hall.
Tsuru, K. (2000), Finance and Growth: 
Some Theoretical Considerations and 
A Review of the Empirical Literature, 
Economic Department Working Paper 
228, Organization for Economic Co – 
operation and Development (OECD), 
Paris.
Ubom, U. B. (2009), “Economic Absorption 
And The Contributions Of Banks To 
Economic Development In Nigeria”, 
Journal of Business and Finance, Vol. 
2(1), pp. 229 – 241.
Vietcombank Securities (2011), Vietnam 
Banking Sector Report.
Vohra R (2001), “Export And Economic 
Growth: Further Time Series Evidence 
From Less-Developed Countries”, 
International Advances in Economic 
Research, 7, 345-350.
Lê Đạt Chí và Lê Tuấn Anh (2012), “Kết hợp phương pháp CVaR và mô hình Merton/
KMV để đo lường rủi ro vỡ nợ - Bằng chứng thực nghiệm ở VN”, Tạp chí Phát triển 
và Hội nhập, số 5 (15), tr 10-15.
Li (2010), “The Information Content of Forward-Looking Statements in Corporate 
Filings—A Naïve Bayesian Machine Learning Approach”, Journal of Accounting 
Research, Volume 48 (5), 1049–1102.
Li (2011), “Textual Analysis Of Corporate Disclosures: A Survey Of The Literature”, 
Journal of Accounting Literature, Vol. 29, 143-165.
Loughran, T. and McDonald, B. (2010), “When is a liability not a liability? Textual 
analysis, dictionaries and 10-Ks”, The Journal of Finance, Vol 66 (1), 35-65.
Lu, R., Yang-Cheng, L and Shu-Lien, C. (2009), “Corporate governance and quality of 
financial information on the prediction power of financial distress of listed companies 
in Taiwan”, International Research Journal of Finance and Economics, Vol 32, 114-
138.
Lu, Y, C., Shen, C, H. and Wei, Y, C. (2013), “Revisiting Early Warning Signals of 
Corporate Credit Default Using Linguistic Analysis”, Pacific-Basin Finance Journal, 
Vol. 24, issue C, 1-21.
Mitton, T. (2002), “A Cross-Firm Analysis of the Impact of Corporate Governance on the 
East Asian Financial Crisis”, Journal of Financial Economics, vol. 64, 215–241
Nguyễn Trà Ngọc Vy, Nguyễn Văn Công (2013), “Vận dụng mô hình Z-Score của 
GS.E.I.Altman để dự báo rủi ro phá sản của các công ty dược phẩm trên thị trường 
chứng khoán VN”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số Đặc biệt, tháng 10 năm 2013, 
tr 63-70.
Petersen, MA. (2004), Information: Hard and Soft, Kellogg School of Management, 
Northwestern University and NBER.
Shirata, C., Y. and Sakagami, M. (2009), “An Analysis Of The ‘Going-Concern 
Assumption’: Text Mining From Japanese Financial Reports”, Journal of Emerging 
Technologies in Accounting, Vol 6, 1–16.
Shumway, T. (2001), “Forecasting Bankruptcy More Accurately: A Simple Hazard 
Model”, The Journal of Business, Vol. 74, No. 1, 101-124.
Turner, D. (2013), Analytics: The Real-World Use Of Big Data In Financial Services, 
IBM Institute for Bussiness Value and Oxford University, địa chỉ truy cập www-935.
ibm.com/services/us/gbs/thoughtleadership/big-data-banking.
Vu, K.A., Tower, G.and Scully, G. (2011), “Corporate Communication For Vietnamese 
Listed Firms”, Asian Review of Accounting, Vol. 19, Issue 2, 125 – 146.
Wang, Z. and Deng. X. (2006), Corporate Governance And Financial Distress Evidence 
From Chinese Listed Companies, The Chinese Economy, Vol 39 (5), 5–27.
Woidtke, T., Yeh, Y. and Lee. T (2001), “Family Control and Corporate Governance: 
Evidence from Taiwan”, International Review of Finance, Vol 2 (18): 21-48.
(Tiếp theo trang 27)
Sự truyền tải thông điệp...

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_hoat_dong_kinh_doanh_ngan_hang_den_tang_truong.pdf