Tài trợ cho chi trả tiền mặt đối với cổ đông các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE)
TÓM TẮT
Bài báo nhằm phân tích hoạt động tài trợ cho các khoản chi trả cổ đông của các công ty
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2006 –
2014, dựa trên khung phân tích của Farre-Mensa & các cộng sự (2015). Kết quả phân tích cho thấy
huy động vốn bên ngoài và chi trả tiền mặt cho cổ đông trong cùng năm là hiện tượng phổ biến. Xấp
xỉ 69% công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông thực hiện hoạt động huy động vốn trong cùng năm, 78%
số công ty huy động vốn đồng thời chi trả tiền mặt. Hơn một nửa số công ty chi trả không thể thực
hiện chi trả tiền mặt nếu không huy động vốn bên ngoài. Mỗi năm có 40,7% số tiền trả cho cổ đông
không thể đáp ứng bằng nguồn tiền được tạo ra từ bên trong, 24,9% tiền thu được từ phát hành cổ
phiếu dùng để chi trả lại cho cổ đông. Trong cả giai đoạn, 44,6% số tiền chi trả cho cổ đông được
tài trợ từ tiền huy động bên ngoài.
Từ khoá: chính sách cổ tức, huy động vốn, tài trợ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài trợ cho chi trả tiền mặt đối với cổ đông các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE)
81 Tài trợ cho chi trả . . . TÀI TRỢ CHO CHI TRẢ TIỀN MẶT ĐỐI VỚI CỔ ĐÔNG CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (HOSE) Tô Thị Thanh Trúc*, Trần Thanh Vũ** TÓM TẮT Bài báo nhằm phân tích hoạt động tài trợ cho các khoản chi trả cổ đông của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2006 – 2014, dựa trên khung phân tích của Farre-Mensa & các cộng sự (2015). Kết quả phân tích cho thấy huy động vốn bên ngoài và chi trả tiền mặt cho cổ đông trong cùng năm là hiện tượng phổ biến. Xấp xỉ 69% công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông thực hiện hoạt động huy động vốn trong cùng năm, 78% số công ty huy động vốn đồng thời chi trả tiền mặt. Hơn một nửa số công ty chi trả không thể thực hiện chi trả tiền mặt nếu không huy động vốn bên ngoài. Mỗi năm có 40,7% số tiền trả cho cổ đông không thể đáp ứng bằng nguồn tiền được tạo ra từ bên trong, 24,9% tiền thu được từ phát hành cổ phiếu dùng để chi trả lại cho cổ đông. Trong cả giai đoạn, 44,6% số tiền chi trả cho cổ đông được tài trợ từ tiền huy động bên ngoài. Từ khoá: chính sách cổ tức, huy động vốn, tài trợ FINANCING PAYOUTS OF COMPANIES LISTED ON HOSE ABSTRACT The paper aims at investigating financing payouts of companies listed on HOSE over the period of 2006-2014 based on the analysis framework of Farre-Mensa et al (2015). The results showthat raising capital and paying payouts simultaneously is an unexpectedly common phenomenon. Roughly 69% payout payers raise external capital in the same year, 78% issuers engage in payingcash dividends or repurchasing stocks. Over a half of paying firms are unable to pay without external financing. For a year, approximately 40,7% of aggregate payouts cannot be met by internally generated cash flows, 24,9 % of aggregate stock issue proceeds are simultaneously paid out by the same firms. Over the period, 44,6% of total payouts are financed with external sources. Key words: dividend policy, capital raising, financing * ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quố gia Tp. Hồ Chí Minh ** TS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương 82 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. GIỚI THIỆU Chi trả tiền mặt cho cổ đông của công ty cổ phần bao gồm chia cổ tức tiền mặt và mua lại cổ phiếu. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ của công ty tạo ra dòng tiền từ hoạt động, dòng tiền này sau khi sử dụng để tái đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, phần còn lại gọi là dòng tiền tự do. Dòng tiền tự do này công ty dùng để phân phối lại cho các nhà đầu tư. Đối với cổ đông, dòng tiền nhận được từ công ty bao gồm cổ tức tiền mặt và tiền từ bán lại cổ phiếu của chính công ty khi công ty mua lại.Theo Jensen (1986), công ty có dòng tiền tự do dồi dào có thể tăng cổ tức hoặc mua lại cổ phiếu nhằm chi trả tiền mặt cho cổ đông. Về mặt lý thuyết, công ty có thể tài trợ cho các khoản chi trả tiền mặt cho cổ đông bằng vốn huy động từ bên ngoài, thông qua vay nợ hoặc phát hành cổ phiếu, nhưng việc này có thể được xem là không kinh tế và không hiệu quả (Miller & Rock, 1985). Một số lý thuyết hỗ trợ việc công ty duy trì cổ tức và huy động tiền bên ngoài để tài trợ cho đầu tư mới với lập luận rằng việc này làm tăng giá trị công ty. Nghiên cứu gần đây của Farre-Mensa & các cộng sự (2015) thực hiện trên các công ty niêm yết Mỹ trong giai đoạn 1989-2011cho thấybình quân 32% tổng số tiền chi trả cho cổ đông được huy động từ thị trường tài chính, chủ yếu là từ nợ. Các công ty chi trả 39% số tiền vay nợ ròng và 19% số tiền thu được từ phát hành cổ phiếu. Hơn 42% công ty chi trả cổ tức tham gia vào việc tài trợ cho cổ tức và mua lại cổ phiếu như vậy. Tại Việt Nam, cổ tức thường được nhìn nhận như một bằng chứng về sự xác thực của các khoản lợi nhuận được báo cáo. Thông tin về các công ty niêm yết cho thấy hầu hết thực hiện chi trả cổ tức cho cổ đông khi có lợi nhuận. Thậm chí có những công ty đang rất cần vốn cho các dự án mới vẫn thực hiện trả cổ tức và cùng lúc đó phát hành cổ phiếu mới. Như vậy, vấn đề đáng lưu tâm là công ty niêm yết Việt Nam thường cố gắng chia cổ tức đều đặn bất chấp việc công ty có thể đang rất cần vốn cho các dự án mở rộng, và như vậy rất có thể các công ty đã dùng các nguồn tiền huy động bên ngoài để tài trợ cho các khoản chi trả này. Bài báo này nhằm đánh giá thực tế tài trợ các khoản chi trả tiền mặt cho cổ đông của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Những vần đề bài báo sẽ làm sáng tỏ gồm: Hoạt động chi trả cho cổ đông và huy động vốn bên ngoài của các công ty trên sàn HOSE trong giai đoạn 2006-2014; Mức độ cổ tức được tài trợ từ tiền huy động bên ngoài và tiền huy động từ bên ngoài dùng để tài trợ cho việc chi trả cổ tức; Liệu các công ty có thể thực hiện việc chi trả nếu không huy động tiền từ bên ngoài. 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM Thực hiện việc chi trả cho cổ đông thường được nhìn nhận là xuất phát từ mong muốn trả về dòng tiền tự do cho cổ đông của công ty (DeAngelo & các cộng sự, 2006). Miller & Modigliani (1961, MM) cho rằng trong một thị trường vốn hoàn hảo, chính sách chi trả của một công ty không ảnh hưởng đến giá trị của công ty đó, công ty có thể thực hiện bất cứ mức chi trả nào mà họ muốn với một thay đổi tương ứng ở số lượng cổ phiếu lưu hành. Nghĩa là công ty có thể phát hành chứng khoán mới để huy động tiền cho các dự án đầu tư mới và chi trả cổ tức cho cổ đông bằng toàn bộ lợi nhuận kiếm được hoặc dùng toàn bộ lợi nhuận kiếm được tài trợ cho các đầu 83 Tài trợ cho chi trả . . . tư mới và không chi trả cho cổ đông gì cả. Tuy nhiên, các giả định về thị trường hoàn hảo của MM không tồn tại trong thực tế nên chính sách chi trả của công ty có tác động đến giá trị cổ phiếu. Chi phí phát hành chứng khoán mới, làm cho việc tài trợ cho chi trả bằng tiền huy động từ bên ngoài trở nên tốn kém, một số tác giả cho rằng việc này là không hữu ích và không kinh tế (Miller & Rock, 1985). Lý thuyết trật tự phân hạng trong tài trợ cho rằng nguồn vốn từ phát hành cổ phần mới nên được sử dụng sau cùng, sau khi công ty đã sử dụng hết lợi nhuận giữ lại và khả năng vay mượn, công ty nên bắt đầu chia cổ tức khi tạo ra dòng tiền đủ để tài trợ cho các nhu cầu đầu tư hiện tại và tương lai, và khuyến cáo các nhà quản lý nên duy trì mức cổ tức thấp để tránh việc dùng nguồn tài trợ bên ngoài đắt đỏ trong tương lai (Ross, Westfield, Jaffe &Jordon, 2008). Lý thuyết phát tín hiệu, được phát triển bởi Bhattacharya (1979), Miller & Rock (1985)John & William (1985) và một số tác giả khác, dựa trên bất cân xứng thông tin giữa những người tham gia thị trường và giữa các nhà quản lý với các nhà đầu tư. Họ cho rằng nhà quản lý sử dụng thay đổi trong tỷ lệ chi trả cổ tức tiền mặt để truyền tải những thông tin và kỳ vọng về lợi nhuận và hoạt động của công ty đến thị trường nhằm giảm thiểu chênh lệch thông tin, nhờ đó tác động đến giá cổ phiếu. Nhà đầu tư sẽ dựa vào việc chi trả cổ tức để đánh giá tình hình tài chính hiện tại và triển vọng hoạt động tương lai của công ty. Công ty sẽ tăng cổ tức chi trả một khi tin tưởng rằng trong tương lai công ty có thể đạt được lợi nhuận và dòng tiền tốt hơn. Điều có thể rút ra về lý thuyết phát tín hiệu là các công ty sẽ duy trì cổ tức để tạo sự tin tưởng cho nhà đầu tư, khi cần vốn tài trợ cho các dự án mới công ty có thể vay nợ, một khi tin tưởng rằng các dự án tương lai mang lại kết quả tốt, công ty sẽ tăng cổ tức để phát đi thông điệp này đến nhà đầu tư. Lý thuyết đại diện, giả định rằng các nhà quản lý không phải luôn hành động theo lợi ích của cổ đông là tối đa hóa giá trị cổ phiếu, rất nhiều nhà quản lý tập trung vào việc đạt được các lợi ích cá nhân. Theo Jensen (1986), khi lợi nhuận giữ lại cao các nhà quản lý công ty có xu hướng đầu tư vào những dự án xấu. Cổ tức làm giảm dòng tiền tự do mà ban quản lý có thể tùy nghi sử dụng và do đó kiểm soát được vấn đề đầu tư quá mức không hiệu quả. Theo Easterbrook (1984), cổ tức được sử dụng để lấy dòng tiền tự do khỏi sự kiểm soát của ban quản lý và trả về cho cổ đông, công ty sẽ phải tiếp cận thị trường vốn để huy động vốn tài trợ cho các dự án mới. Điều này áp đặt kỷ luật cho ban quản lý, vì khi huy động vốn bên ngoài công ty phải chịu sự giám sát của thị trường, làm giảm chi phí đại diện và làm tăng giá trị của công ty. Lý thuyết chính sách cổ tức theo chu kỳ sống của doanh nghiệp, được trình bày trong nghiên cứu của DeAngelo& các cộng sự (2006) cho rằng những công ty trưởng thành ít có nhiều cơ hội tăng trưởng sẽ phân phối dòng tiền dư thừa cho cổ đông, trong khi các công ty trẻ đang tăng trưởng hạn chế chi trả cổ tức và không mua lại cổ phiếu. Như vậy, các lý thuyết trật tự phân hạng trong tài trợ, chính sách cổ tức theo vòng đời và chi phí giao dịch không ủng hộ và thừa nhận việc các công ty huy động tiền bên ngoài để tài trợ cho cổ tức trong khi đó theo lý thuyết phát tín hiệu và lý thuyết đại diện thì công ty có thể và nên huy động tiền bên ngoài trong trường hợp cần thiết để duy trì cổ tức cho cổ đông và áp đặt kỷ luật lên các nhà quản lý. 84 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 3. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Tp HCM (HOSE), số liệu được thu thập cho giai đoạn từ 2006 - 2014. Dữ liệu được thu thập từ bản cáo bạch và báo cáo thường niên của các công ty niêm yết, trên trang Web của HOSE và của các công ty. Khi thu thập thông tin của các công ty niêm yết, chúng tôi tập hợp cả những thông tin tài chính của hai năm trước khi công ty niêm yết, được công bố trong bản cáo bạch của công ty, do đó số công ty phân tích ở mỗi năm có thể nhiều hơn số công ty thực tế niêm yết trên HOSE trong năm đó. Các công ty tài chính (ngân hàng, bảo hiểm) được loại ra khỏi mẫu nghiên cứu vì bản chất hoạt động và các quy định quản lý của các công ty này khác biệt với các công ty sản xuất kinh doanh thông thường. Thông tin về chi trả tiền mặt cho cổ đông và huy động vốn được lấy từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Công ty được xem là có chia cổ tức và mua lại cổ phiếu nếu dòng tiền từ hai mục này âm.Công ty được xem là có phát hành cổ phiếu nếu dòng tiền thu được từ phát hành cổ phiếu dương, có huy động thêm vốn từ vay nợ trong kỳ nếu chênh lệch giữa tiền thu từ đi vay với tiền chi trả các khoản nợ gốc dương, chênh lệch này được gọi là vay nợ ròng. Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, số liệu được tổng hợp, thống kê, phân tích theo xu hướng và tỷ số. Do có nhiều nội dung phân tích khác nhau, cách tính toán các chỉ tiêu cần thiết để phân tích được giải thích chi tiết trong mỗi phần kết quả nghiên cứu. Bài báo này dựa trên khung phân tích về tài trợ cho chi trả của các công ty Mỹ, giai đoạn 1989-2011 của Farre-Mensa & các cộng sự (2015). 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Tình hình chi trả cho cổ đông Hình 1 thể hiện diễn biến số lượng công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP HCM (HOSE) được đưa vào phân tích và số công ty có chi trả tiền mặt cho cổ đông. Phân tích cho thấy bình quân 75% số công ty niêm yết chi trả tiền mặt cho cổ đông, chủ yếu là thông qua cổ tức tiền mặt với tỷ lệ 71,5%, bình quân chỉ có 17% công ty mua lại cổ phiếu. Hình 1: Thống kê số lượng công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông (công ty) Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE 85 Tài trợ cho chi trả . . . Hình 2: Tỷ lệ công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông (% của công ty phi tài chính niêm yết trên HOSE) Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE Hình 3: Tổng số tiền chi trả cho cổ đông (ngàn tỷ đồng) Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE Tổng số tiền các công ty chi trả cho cổ đông tăng lên đều đặn qua các năm, trong đó chủ yếu là cổ tức tiền mặt, bình quân chiếm 89,5% tổng số tiền chi trả. Mức chi trả cổ tức tiền mặt cao nhất vào năm 2014, đạt mức 30,4 ngàn tỷ đồng. Số tiền các công ty chi ra để mua lại cổ phiếu không đáng kể trong tổng tiền chi cho cổ đông, bình quân xấp xỉ hai ngàn tỷ đồng mỗi năm, năm cao nhất là năm 2013 đạt con số 6.618 tỷ đồng. Xét trong mối tương quan giữa số lượng công ty niêm yết và số tiền chi trả cổ tức thì dường như các 86 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật công ty ngày càng chia cổ tức tiền mặt nhiều hơn. Dù số lượng công ty niêm yết năm 2007 không thấp hơn đáng kể so với năm 2014 nhưng số tiền các công ty chi trả cổ tức tiền mặt chỉ đạt mức 4.000 tỷ đồng, thấp hơn rất nhiều so với 30.000 tỷ đồng của năm 2014. Năm 2008, thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng (VN Index cuối năm 2008 chỉ 315 điểm), cũng là năm mà hoạt động mua lại cổ phiếu khá ấn tượng với tổng số tiền chi mua lại cổ phiếu đạt 3.000 tỷ đồng. Cũng trong năm này, nhà đầu tư được bù đắp phần nào trong lỗ vốn do giá cổ phiếu giảm bằng tiền cổ tức nhận được với tổng giá trị xấp xỉ 11.000 tỷ đồng, gấp đôi mức năm 2007. Ngoại trừ năm 2009, tổng tiền trả cổ tức tăng lên đều đặn với tỷ lệ tăng bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2008-2014 là 23%. 4.2. Hoạt động huy động vốn A. Số lượng công ty B. Tổng số tiền huy động (tỷ đồng) Hình 4: Hoạt động huy động vốn của các công ty niêm yết trên HOSE giai đoạn 2006-2014 Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE Ghi chú: Tiền huy động từ phát hành nợ là tổng vay nợ ròng của các công ty trong năm, vay nợ ròng bằng chênh lệch dương giữa dòng tiền thu được từ đi vay với dòng tiền chi trả nợ vay, nếu chênh lệch âm công ty được xem là không vay thêm nợ. 87 Tài trợ cho chi trả . . . Hình 4 cho thấy diễn biến hoạt động huy động vốn của các công ty niêm yết trên sàn HOSE trong giai đoạn từ 2006-2014. Tổng huy động vốn của các công ty diễn biến theo chu kỳ kinh tế và diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam, đạt mức thấp và giảm mạnh trong các năm 2008 và 2012, trong khi đó tăng mạnh và đạt mức cao trong các năm 2007, 2014. Dữ liệu cho thấy bình quân 86% số công ty niêm yết huy động vốn bên ngoài mỗi năm, trong đó phát hành cổ phiếu 36,6% và vay nợ là 49,4%, hơn 66% tổng vốn huy động bên ngoài là từ nợ. Vay nợ ròng của các công ty đạt mức cao nhất vào năm 2009 với tổng số tiền huy động vượt 43.000 tỷ đồng, hơn 62% số công ty niêm yết thực hiện việc vay nợ. Tỷ lệ công ty phát hành cổ phiếu và số tiền thu được từ phát hành cổ phiếu đạt mức cao nhất vào năm 2007 với các con số tương tứng là gần 65% và 40.500 tỷ đồng. Tổng số tiền chi trả cho cổ đông trong suốt giai đoạn phân tích xấp xỉ một nửa tổng số t ... heo, chúng tôi tính theo từng năm các tỷ lệ: Trong đó: (1) RDP/SI t cho biết bao nhiêu phần trăm số tiền thu từ phát hành cổ phiếu dùng để trả cổ tức ngay trong năm đó của cùng một công ty, (2) RTP/SI t cho biết bao nhiêu phần trăm trong số tiền thu từ phát hành cổ phiếu dùng để chi trả cho cổ đông của cùng công ty trong cùng năm, (3) RTP/(SI+ND) t cho biết bao nhiêu phần trăm tổng số tiền huy động từ bên ngoài dùng để chi trả cho cổ đông của cùng công ty trong cùng năm, (4) RSI/TP t cho biết bao nhiêu phần trăm trong tổng tiền chi trả cho cổ đông được tài trợ từ tiền thu từ phát hành cổ phiếu của cùng một công ty trong cùng năm; (5) R(SI +ND)/TP t cho biết bao nhiêu phần trăm tổng số tiền chi trả cho cổ đông được tài trợ từ tiền huy động vốn bên ngoài của cùng một công ty trong cùng năm. Bảng 2: Tỷ lệ tiền trả cổ đông được tài trợ bên ngoài và tỷ lệ tiền huy động dùng trả cổ đông % tiền thu được từ phát hành cổ phiếu dùng trả cổ tức % tiền thu từ phát hành cổ phiếu dùng chi trả cho cổ đông % tiền huy động bên ngoài dùng để chi trả cho cổ đông % tiền chi trả cổ đông được tài trợ từ phát hành cổ phiếu % tiền chi trả cho cổ đông được tài trợ từ tiền huy động bên ngoài Năm Min {DP, SI} /SI Min{TP,SI}/ SI Min {TP, (SI +ND)}/(SI +ND) Min {TP, SI} /TP Min {TP, (SI +ND)}/TP (1) (2) (3) (4) (5) 2006 11,7% 13,4% 11,1% 24,0% 39,3% 2007 5,4% 7,7% 6,7% 64,7% 74,6% 2008 19,9% 28,4% 18,1% 23,8% 54,9% 2009 13,5% 17,5% 9,2% 17,1% 50,6% 2010 11,5% 16,1% 12,9% 23,6% 55,1% 2011 15,8% 16,9% 20,9% 10,0% 51,1% 2012 26,7% 45,1% 14,7% 9,5% 24,8% 2013 14,1% 53,2% 23,6% 31,3% 45,8% 2014 23,4% 25,8% 18,5% 17,3% 38,4% Tất cả các năm 13,4% 21,5% 15,5% 20,6% 44,6% Trung bình các năm 15,8% 24,9% 15,1% 24,6% 48,3% Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE 90 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Ghi chú: DP: Tiền chi trả cổ tức TP: Tổng tiền chi trả cho cổ đông = Tiền chi trả cổ tức + Tiền chi mua lại cổ phiếu SI: Tiền thu được từ phát hành cổ phiếu NP: Vay nợ ròng trong năm = max{(Tiền thu từ đi vay – Tiền chi trả nợ gốc các khoản vay),0} Bảng 2 cho thấy, trong cả giai đoạn, xấp xỉ 21,5% tiền thu từ phát hành cổ phiếu dùng để chi trả cho cổ đông, trong đó dùng để trả cổ tức gần 13,4%. Trong tổng tiền thu được từ huy động vốn bên ngoài thì 15,5% dùng để mua lại cổ phiếu và chia cổ tức. Bình quân 24,9% tiền thu được từ phát hành cổ phiếu mỗi năm dùng trả lại cho cổ đông, trong đó trả cổ tức 15,8%, và xấp xỉ 15,1% tiền thu được từ huy động vốn bên ngoài mỗi năm dùng trả lại cho cổ đông ngay trong năm đó. Trong cả giai đoạn phân tích, 44,6% tiền trả cho cổ đông được tài trợ từ vốn huy động bên ngoài, 20,6% được tài trợ từ phát hành cổ phiếu. Bình quân 48,3% tiền trả cho cổ đông mỗi năm là từ huy động vốn, trong đó từ phát hành cổ phiếu là 24,6%. Tỷ lệ tiền thu từ phát hành cổ phiếu dùng chi trả cho cổ đông cao nhất ở năm 2013, 53,2%, mặc dù phần trả cổ tức tiền mặt chỉ 14,1%, đây là năm mà hoạt động mua lại cổ phiếu diễn ra mạnh mẽ nhất với số tiền mua lại cổ phiếu đạt mức 7.000 tỷ đồng. Hoạt động huy động vốn và chi trả cho cổ đông của năm 2007 hoàn toàn tương phản với các hoạt động này của năm 2012. Năm 2007 hoạt động huy động vốn diễn ra mạnh mẽ so với chi trả cổ tức tiền mặt, tiền mặt trả cho cổ đông chiếm một tỷ lệ nhỏ (5,4%) trong tổng tiền huy động từ bên ngoài, thấp nhất giai đoạn và phần lớn được tài trợ từ tiền huy động bên ngoài (74,6%).Tình hình năm 2012 hoàn toàn ngược lại, 26,7% tiền huy động vốn dùng trả cho cổ đông và chỉ 24,8% tiền trả cổ đông được tài trợ từ vốn huy động bên ngoài. So với kết quả nghiên cứu năm 2015 của Joan Farre-Mensa và các cộng sự trên thị trường Mỹ giai đoạn từ 1989 đến 2011, thị trường Việt Nam có mức độ tài trợ cho chi trả cổ đông bằng vốn huy động bên ngoài cao hơn và tỷ lệ vốn huy động bên ngoài dùng trả cho cổ đông lại thấp hơn (trong nghiên cứu của Joan Farre-Mensa và Roni Michaely (2015), 32% tiền trả cho cổ đông được tài trợ từ huy động vốn bên ngoài và 39% tiền huy động bên ngoài dùng để trả cho cổ đông). 4.4. Chênh lệch giữa tiền chi cho cổ đông và dòng tiền tự do Để đánh giá xem các công ty có thể thực hiện chi trả nếu không huy động thêm vốn từ bên ngoài, trong phần này, chúng tôi phân tích chênh lệch giữa số tiền chi trả cho cổ đông và dòng tiền tự do của công ty, Payout gap, dựa theo cách phân tích của Joan Farre-Mensa & các cộng sự (2015). Payout gap được xác định theo công thức sau: Payout gap = Min (Total Payout, Max (Total payout – (FCF + Cash reserve, 0). Trong đó: - Total payout: tổng tiền chi trả cho cổ đông trong kỳ gồm tiền chi trả cổ tức tiền mặt và tiền chi mua lại cổ phiếu. Các số liệu này được lấy từ báo cáo lưu chuyển tiền. - FCF: Dòng tiền tự do, được tính bằng cách cộng dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh với dòng tiền ròng từ hoạt động đầu tư. Các số liệu này được lấy từ báo cáo lưu chuyển tiền. - Cash reserve: Trị tuyệt đối của dòng tiền ròng trong kỳ nếu dòng tiền này âm (hoặc chênh lệch âm số dư tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ), nếu dòng tiền ròng trong kỳ lớn hơn 91 Tài trợ cho chi trả . . . 0 (chênh lệch số dư tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ dương) thì Cash reserve bằng 0. Với ý nghĩa nguồn tiền chi trả cho cổ đông gồm dòng tiền tự do FCF, là phần còn lại của dòng tiền được tạo ra từ hoạt động kinh doanh sau khi sử dụng để tài trợ cho các đầu tư cần thiết trong kỳ, và tiền có sẵn đầu kỳ. Việc sử dụng tiền có sẵn ở đầu kỳ sẽ làm giảm dự trữ tiền mặt, giảm trong dự trữ tiền mặt thể hiện ở dòng tiền thuần trong kỳ trên báo cáo lưu chuyển tiền âm. Chênh lệch giữa Tổng tiền chi trả cho cổ đông (Total payout) với nguồn tiền để trả cho cổ đông là Payout gap. Trong công thức còn thêm các ràng buộc Max và Min vì các lý do sau: - Ràng buộc Max: Nếu tổng tiền chi trả (Total payout) nhỏ hơn tổng của dòng tiền tự do (FCF) và tiền mặt lấy từ tiền mặt sẵn có (Cash reserve), khi đó Total payout – (FCF + Cash reserve) <0, công ty không bị thiếu tiền chi trả nên Payout gap = 0. Nếu tổng dòng tiền tự do trong kỳ và tiền mặt lấy từ tiền mặt có sẵn nhỏ hơn tổng tiền chi trả cho cổ đông thì tiền từ bên trong không đủ chi trả, công ty phải tài trợ cho một phần chi trả bằng tiền từ bên ngoài, phần thiếu hụt chính là chênh lệch giữa tổng tiền chi ra và tổng nguồn có sẵn để chi (Total payout – [FCF + Cash reserve]). - Ràng buộc Min: Trong trường hợp FCF âm, dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh không đủ để chi cho hoạt động đầu tư, về mặt toán học có thể xảy ra tình huống (Total payout - (FCF + Cash reserve)) > Total payout. Nên cần có ràng buộc Min để Payout gap chỉ tối đa bằng Total payout. Bảng 3: Thống kê Payout gap Số công ty PG/TP PG/Tiền huy động từ bên ngoài Năm % công ty phân tích có PG >0 % công ty chi trả cho cổ đông có PG>0 % công ty chi trả cho cổ đông có PG=TP % công ty PG >0 có PG=TP Trung bình của PG/TP của các công ty có PG >0 Trung bình của PG/TP của các công ty có PG<TP Tổng PG/ Tổng TP Tổng PG/ Tổng tiền huy động vốn của các công ty Trung bình của PG/ Tổng tiền huy động vốn của các công ty có PG >0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 2006 35,3% 58,7% 45,2% 77,0% 92% 48,0% 29,5% 8,4% 24,6% 2007 44,7% 73,9% 70,6% 95,6% 97% 36,0% 72,4% 6,5% 14,6% 2008 48,9% 61,4% 45,5% 74,1% 88% 51,0% 49,6% 16,3% 33,9% 2009 44,5% 56,1% 47,5% 84,8% 91% 37,0% 42,6% 7,8% 26,4% 2010 57,4% 69,7% 61,5% 88,3% 95% 61,0% 52,1% 12,2% 22,8% 2011 46,9% 56,3% 42,9% 76,3% 87% 44,0% 26,8% 10,9% 34,7% 2012 33,3% 42,9% 29,2% 68,0% 83% 43,0% 19,2% 11,4% 40,5% 2013 36,1% 48,2% 36,7% 76,2% 88% 50,0% 41,5% 21,4% 39,4% 2014 31,9% 43,6% 30,3% 69,6% 84% 42,0% 33,0% 15,9% 45,2% Trung bình 42,1% 56,7% 45,5% 78,9% 89% 45,8% 40,7% 12,3% 31,3% Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE 92 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Ghi chú: PG (Payout gap) = Min{Total Payout, Max((Total payout - (FCF + Cash reserve)), 0)}. TP: Tổng tiền chi trả cho cổ đông = Tiền chi trả cổ tức + Tiền chi mua lại cổ phiếu Tổng tiền huy động từ bên ngoài = tiền thu được từ phát hành cổ phiếu + max{(tiền thu được từ các khoản đi vay – tiền chi trả nợ gốc các khoản vay),0} (1) Số công ty có PG>0/Số công ty phân tích (2) Số công ty có PG>0/Số công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông (3) Số công ty có PG=TP/Số công ty chi trả tiền mặt chi cổ đông (4) Số công ty có PG=TP/Số công ty có PG >0 (5) Trung bình của tỷ lệ PG/TP của các công ty có PG > 0 (6) Trung bình của tỷ lệ PG/TP của các công ty có PG < TP (7) Tổng số tiền Payout gap/Tổng tiền chi cho cổ đông (8) Tổng số tiền Payout gap/Tổng tiền thu từ huy động vốn (9) Trung bình của Payout gap/Tổng tiền huy động vốn của các công ty có Payout gap >0. Bảng 3 thể hiện tình hình số lượng công ty có Payout gap (dòng tiền tự do không đủ để chi trả cho cổ đông), cần tài trợ bên ngoài và mức độ tài trợ bên ngoài cần thiết. Cột 1 và cột 2 cho thấy, trung bình mỗi năm, 42,1% số công ty niêm yết, chiếm 56,7% số công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông cần tài trợ từ bên ngoài. Cột 3 cho thấy 45,5% số công ty chi trả cho cổ đông dựa hoàn toàn vào nguồn tài trợ bên ngoài, tính trong số các công ty cần nguồn tài trợ bên ngoài thì các công ty này chiếm 78,9%. Năm mà tỷ lệ công ty cần tài trợ bên ngoài trong số các công ty chi trả cho cổ đông cao nhất là năm 2007 với 73,9% công ty chi trả cần tài trợ, trong đó 70,6% cần tài trợ hoàn toàn cho khoản chi trả. Trung bình tỷ lệ PG it /TP it của các công ty có Payout gap là 89%, một con số khá cao, nghĩa là một khi các công ty thiếu hụt dòng tiền tự do để chi trả thì phần thiếu hụt này rất lớn. Tính trên tổng của các công ty ở từng năm, tỷ lệ ∑PG it /∑TP it cũng khá cao, trung bình 40,7%, năm có tỷ lệ này cao nhất là năm 2007 với tỷ lệ 72,4%. Trung bình hàng năm, tổng Payout gap cần tài trợ của các công ty bằng 12,3% vốn huy động của tất cả các công ty phân tích, và 31,3% số vốn huy động của các công ty có Payout gap. Năm có trung bình của tỷ lệ PG/Vốn huy động lớn nhất là năm 2012, 40,5% và năm có tỷ lệ này nhỏ nhất là năm 2007, 14,6%. 5. KẾT LUẬN Phân tích hoạt động tài trợ cùng với chi trả cho cổ đông của các công ty trên sàn HOSE trong giai đoạn từ 2006 – 2014 nổi lên những điểm nổi bật: Số lượng công ty thực hiện chi trả tiền mặt cho cổ đông hàng năm khá cao, xấp xỉ 75% số công ty phân tích; huy động vốn bên ngoài và chi trả tiền mặt cho cổ đông trong cùng năm là hiện tượng phổ biến, xấp xỉ 69% công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông thực hiện hoạt động huy động vốn trong cùng năm, trong đó phát hành cổ phiếu là 40%; 78% số công ty huy động vốn đồng thời chi trả tiền mặt,80% số công ty phát hành thêm cổ phiếu đồng thời thực hiện chi trả cổ tức.Hơn một nửa số công ty chi trả không thể thực hiện chi trả tiền mặt nếu không huy động vốn bên ngoài (56,7%), trong đó có 45,5% công ty tài trợ cho chi trả hoàn toàn từ nguồn vốn bên ngoài.Tính trong cả giai đoạn, tiền huy động bên ngoài tài trợ cho 44,6% số tiền chi trả cho cổ đông, trong đó tiền từ phát hành cổ phiếu là 20,6%. Mỗi năm có 40,7% số tiền trả cho cổ đông không thể đáp 93 Tài trợ cho chi trả . . . ứng bằng nguồn tiền được tạo ra từ bên trong, 24,9% tiền thu được từ phát hành cổ phiếu dùng để chi trả cho cổ đông. Có thể giải thích các kết quả này dựa trên đặc điểm của thị trường Việt Nam, đó là còn tồn tại bất cân xứng thông tin và vấn đề đại diện khá nghiêm trọng. Các cổ đông sẽ không tin tưởng lợi nhuận báo cáo nếu cổ tức không được chi trả. Cổ đông cũng nhận biết được khả năng đầu tư quá mức và lãng phí của công ty nếu ban quản lý có sẵn dòng tiền tự do dồi dào. Hơn nữa, nhà đầu tư cá nhân thường trông đợi cổ tức như là một khoản đền đáp cho việc đầu tư của họ. Tất cả những điều này làm buộc các công ty cố gắng chi trả cổ tức đều đặn cho cổ đông một khi có lợi nhuận dù đa phần các công ty niêm yết Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và rất cần vốn cho các đầu tư mới. Các công ty chấp nhận chi phí vốn cao của nguồn tài trợ bên ngoài để đổi lấy niềm tin và sự hài lòng của cổ đông. Lý thuyết chi phí giao dịch, trật tự phân hạng và vòng đời doanh nghiệp dường như không đúng ở thị trường Việt Nam. Bài báo đã cung cấp một bức tranh chi tiết về hoạt động chi trả tiền mặt cho cổ đông của các công ty niêm yết trên HOSE giai đoạn 2006-2014 và các nguồn tài trợ cũng như hoạt động tài trợ cho các khoản chi trả này, thông qua đó kiểm định các lý thuyết tài chính doanh nghiệp tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa làm rõ được những loại công ty nào thường xuyên thiếu hụt dòng tiền tự do để chi trả cho cổ đông do đó không thể trả cổ tức nếu không huy động vốn từ bên ngoài. Một hạn chế nữa là tuy bài báo đã có những phỏng đoán về lý do của hiện tượng vừa trả cổ tức vừa huy động vốn của các công ty, dựa vào đặc điểm của thị trường Việt Nam mà nhóm tác giả nhận thấy, nhưng chưa kiểm định được bằng dữ liệu tài chính động cơ thực sự của các công ty. Đây là những điểm hạn chế của bài báo và có thể là vấn đề cho những nghiên cứu tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bhattacharya, S. (1979). Imperfect information, dividend policy, and the ‘bird in the hand’ fallacy. Bell Journal of Economics and ManagementScience, 10, 259–270. [2]. DeAngelo, H., DeAngelo, L., & Stulz, R.M. (2006). Dividend policy and the earned/contributed capital mix: a test of the life-cycle theory. Journal of Financial Economics, 81, 227–254. [3]. Easterbrook, F.H. (1984). Two Agency-Cost Explanations of Dividends. The American Economic Review, 74 (4), 650-659. [4]. Farre-Mensa, J., Michaely, R. & Schmalz, M. (2015). Financing payouts. Harvard Business School working paper. [5]. Jensen, M. C. (1986). Agency Costs of Free Cash Flow, Corporate Finance, and Takeovers. American Economic Review, 76(2), 323-329. [6]. Miller, M.H. & Modigliani, F. (1961). Dividend policy, growth, and the valuation of Shares. The Journal of Business, 34 (4), 411- 433. [7]. Miller, M. H. & Rock, K. (1985). Dividend Policy under Asymmetric Information. The Journal of Finance, 40 (4), 1031-1051. [8]. Ross, S. A., Westerfield, R. W., Jaffe, J. F. & Jordon, B. D. (2008). Capital Structure: Limits to the use of debt. Mordern Financial Management (p.p 472 -474), eighth Edition, Mc Graw – Hill, 472 - 474. [9]. William, P. L., John, S. J. Jr. & Daniel, E. P. (1985). Agency Costs and Dividend Payout Ratios. Quarterly Journal of business and Economics, 24.3, 19-29.
File đính kèm:
- tai_tro_cho_chi_tra_tien_mat_doi_voi_co_dong_cac_cong_ty_nie.pdf