Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và hiệp định thương mại xuyên Thái Bình dương (TPP) - So sánh một số ảnh hưởng đối với ngành thủy sản Việt Nam

TÓM TẮT

Trên cơ sở giới thiệu về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình

Dương (TPP) cũng như những mục tiêu mà AEC và TPP đang hướng tới, bài viết so sánh một số ảnh

hưởng của AEC và TPP đối với ngành thủy sản Việt Nam về mức độ giảm thuế và những quy định đối

với vấn đề lao động. Ngoài ra, thông qua nguồn số liệu thứ cấp thu thập được từ Tổng cục Thống kê,

Tổng cục Hải quan, bài viết còn nêu lên thực trạng của ngành thủy sản trong những năm vừa qua trước

yêu cầu hội nhập của nền kinh tế.

Từ khóa: Cộng đồng kinh tế ASEAN, Hiệp định thương mại TPP, tác động, ngành thủy sản.

pdf 9 trang Bích Ngọc 05/01/2024 1320
Bạn đang xem tài liệu "Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và hiệp định thương mại xuyên Thái Bình dương (TPP) - So sánh một số ảnh hưởng đối với ngành thủy sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và hiệp định thương mại xuyên Thái Bình dương (TPP) - So sánh một số ảnh hưởng đối với ngành thủy sản Việt Nam

Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và hiệp định thương mại xuyên Thái Bình dương (TPP) - So sánh một số ảnh hưởng đối với ngành thủy sản Việt Nam
THAM GIA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) VÀ HIỆP ĐỊNH 
THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) – SO SÁNH 
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
Lê Thị Mai Hương1, Nguyễn Minh Đức2
1, 2Trường Đại học Văn Hiến
1Huongltm@vhu.edu.vn, 2Duc@vhu.edu.vn
Ngày nhận bài: 04/6/2016; Ngày duyệt đăng: 19/8/2016
1. Đặt vấn đề
Hòa cùng xu thế hội nhập của nền kinh tế thế 
giới, Việt Nam đã ký kết và kết thúc hàng loạt 
các hiệp định thương mại tự do (FTA) cả song 
phương và đa phương quan trọng. Trong đó việc 
ký kết tham gia Hiệp định thương mại xuyên 
Thái Bình Dương (TPP) và là thành viên chính 
thức của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào 
năm 2015 đã đánh dấu quá trình hội nhập sâu 
rộng của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam nói 
chung và ngành thủy sản nói riêng phải thực hiện 
nhiều cam kết trên nhiều lĩnh vực, trong đó phải 
kể đến lĩnh vực thương mại với các cam kết về 
lộ trình giảm mức thuế suất, đối với vấn đề lao 
động cam kết về tiêu chuẩn lao động. Việc tham 
gia cộng đồng ASEAN cũng như một số hiệp 
định thương mại tự do thế hệ mới như TPP bắt 
đầu có hiệu lực, điều này có những tác động tích 
cực đến ngành hàng thủy sản trong việc gia tăng 
đầu tư, mở rộng thị phần, thúc đẩy sản xuất trong 
nước, tăng hàm lượng chế biến và có nhiều cơ 
hội phát triển hơn. Tuy nhiên, cùng với cơ hội 
đó, TPP và AEC cũng đặt ngành thủy sản Việt 
Nam đối mặt với nhiều thách thức khi nhiều sản 
phẩm của ngành phải cạnh tranh gay gắt từ hàng 
hóa của các quốc gia thành viên, hay một yếu tố 
gây trở ngại với thủy sản, mặc dù chúng ta có lợi 
về thuế quan, nhưng đó sẽ là đối tượng để các thị 
trường áp dụng các rào cản phi thuế quan nhằm 
bảo hộ ngành sản xuất nội địa hoặc hạn chế nhập 
khẩu. Những rào cản như thuế chống bán phá 
giá, thuế chống trợ cấp, các quy định kiểm tra 
hóa chất, kháng sinh đang và sẽ được tăng 
cường áp dụng. Chẳng hạn, những quy định của 
TPP về quy tắc xuất xứ sẽ gây khó khăn cho một 
số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như 
TÓM TẮT
Trên cơ sở giới thiệu về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình 
Dương (TPP) cũng như những mục tiêu mà AEC và TPP đang hướng tới, bài viết so sánh một số ảnh 
hưởng của AEC và TPP đối với ngành thủy sản Việt Nam về mức độ giảm thuế và những quy định đối 
với vấn đề lao động. Ngoài ra, thông qua nguồn số liệu thứ cấp thu thập được từ Tổng cục Thống kê, 
Tổng cục Hải quan, bài viết còn nêu lên thực trạng của ngành thủy sản trong những năm vừa qua trước 
yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. 
Từ khóa: Cộng đồng kinh tế ASEAN, Hiệp định thương mại TPP, tác động, ngành thủy sản.
ABSTRACT
Vietnam’s accession to the Asean Economics Community (AEC) and the TPP agreement 
- the comparison of some influences on the aquaproduct industry in Vietnam
Based on the introduction of AEC and TPP, along with their targets, the article compares several 
influences on Vietnam’s aquaproduct inductry- such as the extent of tax cut and the regulations on la-
bour issues. Moreover, via secondary data collected from the general statistics office of Vietnam and the 
general Department of Vietnam customs, the article raises the real situation of Vietnam’s aquaproduct 
industry in the past few years upon the demand of economic integration.
Keywords: AEC, TPP, actions, aquaproduct.
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
5
thủy hải sản. Trên cơ sở sở đó, bài viết nhằm giới 
thiệu khái quát về Cộng đồng kinh tế ASEAN 
(AEC), Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình 
Dương (TPP) và so sánh một số ảnh hưởng đối 
với ngành thủy sản của Việt Nam khi tham gia 
vào AEC và TPP. 
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động sản xuất 
của ngành Thủy sản khi Việt Nam gia nhập TPP 
và AEC.
2.2. Nguồn số liệu và phương pháp nghiên 
cứu 
2.2.1. Nguồn số liệu
Bài viết chủ yếu sử dụng nguồn số liệu thứ 
cấp thu thập từ Tổng cục Thống kê, Tổng cục 
Hải quan, để sử dụng phân tích, đánh giá. Cụ thể 
nguồn dữ liệu về sản lượng và chỉ số phát triển 
sản lượng thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2000 
- 2014, năng lực sản xuất của các cơ sở chế biến 
thủy sản đông lạnh, kim ngạch xuất khẩu thủy 
sản của Việt Nam giai đoạn 2000-2014, mười 
mặt hàng nông nghiệp có giá trị xuất khẩu trên 
1 tỷ USD trong năm 2014; Kim ngạch xuất khẩu 
thủy sản Việt Nam sang 11 nước thành viên TPP; 
số liệu về mức độ giảm thuế của các nước đối 
với Việt Nam khi TPP và AEC có hiệu lực chính 
thức.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong 
nghiên cứu này là phương pháp thống kê mô tả, 
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp kết 
hợp với bảng biểu, đồ thị minh họa.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Cộng đồng kinh tế ASEAN và Hiệp 
định thương mại xuyên Thái Bình Dương 
Cộng đồng kinh tế ASEAN
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một 
khối kinh tế khu vực của 10 quốc gia thành viên 
ASEAN (Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, 
Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, 
Thái Lan, Việt Nam) chính thức được thành lập 
vào ngày 31/12/2015. Khi bản tuyên bố thành lập 
chính thức có hiệu lực, AEC sẽ bao gồm ba trụ 
cột: Cộng đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh 
tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa xã hội (ASCC). 
AEC là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng 
đồng ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề 
ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020. Với mục đích 
hợp nhất các quốc gia thành viên thành một cộng 
đồng kinh tế chung, AEC sẽ hướng tới thực hiện 
bốn trụ cột: một thị trường và cơ sở sản xuất 
thống nhất, một khu vực kinh tế cạnh tranh, phát 
triển kinh tế cân bằng và hội nhập đầy đủ vào 
nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, trong quá trình 
đó ASEAN vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức 
như chênh lệch về mức độ mở cửa thị trường, 
chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người, 
chênh lệch về cơ cấu kinh tế, về xuất khẩu, chỉ số 
phát triển nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng giao 
thông vận tải v.v. và đối với Việt Nam cũng sẽ 
gặp không ít những thách thức khi mà chúng ta 
gia nhập AEC vì sự chênh lệch và khoảng cách 
trên nhiều lĩnh vực còn khá lớn giữa Việt Nam và 
các nước trong khu vực. 
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình 
Dương 
Đàm phán Đối tác xuyên Thái Bình Dương 
(TPP) là một đàm phán thương mại tự do (FTA) 
nhiều bên, với mục tiêu thiết lập một khu vực 
thương mại tự do chung cho các nước thành viên. 
Bắt đầu từ cuối 2009 tới nay, TPP đã trải qua 
19 Vòng đàm phán chính thức, cùng rất nhiều 
các phiên đàm phán giữa kỳ. Đối với Việt Nam, 
đàm phán TPP hiện đang là một trong những 
đàm phán FTA quan trọng nhất. Lý do chủ yếu 
là vì trong TPP có Hoa Kỳ - thị trường xuất khẩu 
hàng đầu của Việt Nam. Về mức độ, TPP tham 
vọng sẽ là một FTA “thế hệ mới”, “tiêu chuẩn 
cao”, với mức độ tự do hóa sâu hơn WTO và các 
FTA trước đây. Về phạm vi, TPP được dự kiến 
sẽ bao gồm 21 Chương, bao trùm không chỉ các 
vấn đề thương mại truyền thống (như mở cửa thị 
trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ) 
mà còn cả những vấn đề thương mại mới (như 
doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công,) hoặc 
phi thương mại (lao động, môi trường). Ngày 
5/10/2015, Hội nghị Bộ trưởng Thương mại các 
nước thành viên Hiệp định Đối tác xuyên Thái 
Bình Dương (TPP) đã đạt được thỏa thuận cuối 
cùng và kết thúc đàm phán Hiệp định TPP của 12 
nước thành viên bao gồm New Zealand, Brunei, 
Chile, Singapore, Australia, Peru, Hoa Kỳ, Ma-
6
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
laysia, Việt Nam, Canada, Mexico và Nhật Bản 
với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu 
vực châu Á - Thái Bình Dương. Với chính sách 
tạo thuận lợi thương mại, cam kết xóa bỏ thuế 
quan và các biện pháp hàng rào phi thuế quan, 
các tiêu chuẩn cao về các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, 
an toàn lao động và an toàn thực phẩm, Hiệp 
định TPP được coi là Hiệp định của thế kỷ 21 dự 
báo sẽ mang lại nhiều cơ hội hơn cho ngành thủy 
sản Việt Nam. TPP sẽ cho phép ngành thủy sản 
Việt Nam tiếp cận thuế quan ưu đãi (0%), đặc 
biệt là Mỹ và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu 
chủ lực chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch xuất 
khẩu năm 2014 của ngành thủy sản Việt Nam.
Với mức độ và phạm vi cam kết như vậy, đối với 
ngành thủy sản, TPP có ảnh hưởng cả trực tiếp 
lẫn gián tiếp đến triển vọng sản xuất, xuất khẩu 
của ngành theo các cách thức khác nhau.
3.2. TPP, AEC - so sánh một số ảnh hưởng 
đối với ngành thủy sản Việt Nam
3.2.1. Về mức độ giảm thuế
Đối với TPP:
Các nước cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu 
dành cho hàng hóa của Việt Nam ngay khi Hiệp 
định có hiệu lực khoảng từ 78-95% số dòng thuế 
và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% dòng thuế. Việc 
ký kết và thực hiện TPP đồng nghĩa với việc các 
loại thuế quan áp dụng cho thủy sản nhập khẩu 
vào Việt Nam từ các quốc gia TPP sẽ được xóa 
bỏ. Với các mức thuế suất MFN hiện Việt Nam 
đang áp dụng tương đối cao (trung bình lên đến 
15% đối với thủy sản sống và 30% đối với thủy 
sản chế biến), việc thủy sản nhập khẩu từ các 
nước TPP vào Việt Nam không còn phải chịu 
mức thuế này.
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào 
thị trường TPP được hưởng thuế suất 0% ngay 
sau khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3-5 năm 
như nông sản, thủy sản. Từ góc độ xuất khẩu, 
TPP sẽ cho phép ngành thủy sản Việt Nam có 
thể tiếp cận với thuế quan ưu đãi (0%) khi xuất 
khẩu vào các quốc gia thành viên TPP, đặc biệt là 
Hoa Kỳ và Nhật Bản – hai thị trường xuất khẩu 
chủ lực, chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch xuất 
khẩu năm 2014 của ngành thủy sản Việt Nam. 
Đồng thời, thuế nhập khẩu đối với các thị trường 
nhỏ hơn như Australia, Singapore và Mexico 
cũng sẽ giảm xuống. Với tôm, mực, cá ngừ, hiện 
thuế xuất khẩu chỉ từ 1- 10%.
Đối với các doanh nghiệp thủy sản xuất khẩu 
sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước TPP 
sẽ không phải làm thủ tục hoàn thuế, cũng không 
bị đọng vốn nếu hiện đang phải nộp thuế nhập 
khẩu, và đây cũng có thể xem là một lợi ích, tuy 
rằng không lớn. Sau đây là cam kết cụ thể của 
một số nước thành viên TPP đối với ngành thủy 
sản: 
Cam kết của Hoa Kỳ: Xóa bỏ ngay vào năm 
thứ ba 100% số dòng thuế kể từ khi Hiệp định có 
hiệu lực (riêng cá ngừ chế biến xóa bỏ vào năm 
thứ 10). Cụ thể, có gần 74% xóa bỏ thuế quan 
ngay, đạt 92,68% kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ. 
Sau 3 năm sẽ có 76,17% dòng thuế về 0%, tương 
ứng 93% kim ngạch xuất khẩu. Sau 10 năm, 
100% sản phẩm được xóa bỏ thuế quan.
Cam kết của Nhật Bản: Nhật Bản cam kết xóa 
bỏ ngay thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng 
thuế (chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của 
Việt Nam sang Nhật Bản (tương đương 10,5 tỷ 
USD) và vào năm thứ 11 xóa bỏ đối với khoảng 
95,6% số dòng thuế. Nhiều mặt hàng ưu tiên của 
Việt Nam được rút ngắn đáng kể lộ trình so với 
cam kết tại Hiệp định FTA Việt Nam – Nhật Bản 
như đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của 
Việt Nam được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi 
Hiệp định có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ 
vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá 
tuyết, surimi, tôm, cua, ghẹ... Toàn bộ các dòng 
hàng thủy sản không cam kết xóa bỏ thuế trong 
FTA Việt Nam – Nhật Bản sẽ được xóa bỏ trong 
TPP với lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 6, năm thứ 
11 hoặc năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu 
lực. 
Cam kết của Mexico: Cá tra, cá basa được 
xóa bỏ thuế vào năm thứ 3 kể từ khi Hiệp định 
có hiệu lực; Tôm đông lạnh xóa bỏ vào năm thứ 
13; Tôm chế biến xóa bỏ vào năm thứ 12. Cá ngừ 
chế biến xóa bỏ thuế vào năm thứ 16, trong đó 
giữ nguyên mức thuế cơ sở trong 5 năm đầu tiên 
rồi giảm dần về 0%.
Cam kết của Canada: Canada cam kết xóa bỏ 
ngay 94,9% số dòng thuế, tương đương 77,9% 
kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam (0,88 tỷ USD) 
ngay khi Hiệp định có hiệu lực và tổng số dòng 
thuế được xóa bỏ lên tới 96,3% số dòng thuế, 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
7
tương đương với 93,4% kim ngạch nhập khẩu 
từ Việt Nam vào năm thứ 4. Nông sản của Việt 
Nam, trong đó có thủy sản được xóa bỏ phần 
lớn thuế quan ngay thời điểm bắt đầu triển khai 
cam kết.
Cam kết của Singapore: Singapore xóa bỏ 
hoàn toàn thuế quan đối với tất cả các mặt hàng 
ngay khi thực hiện Hiệp định có hiệu lực.
Đối với AEC: 
AEC cơ bản không có thuế quan, là một thị 
trường duy nhất và là cơ sở sản xuất thống nhất, 
trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, 
dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề, có 
sức cạnh tranh cao, phát triển đồng đều. AEC là 
kết quả liên kết ASEAN đạt được đến nay trên cơ 
sở mẫu số chung về lợi ích của các nước thành 
viên, có mức độ liên kết cao hơn một hiệp định,
Như vậy, trong số các Hiệp định Thương 
mại tự do (FTA), kể cả TPP, thì mức cắt giảm 
thuế quan trong AEC là cao nhất hiện nay. Cơ 
hội cho các doanh nghiệp thủy sản khi AEC hình 
thành đó là mở ra nhiều thị trường, tạo khí thế 
và động lực mới doanh nghiệp thủy sản sẽ có 
môi trường kinh doanh rộng lớn hơn, thuận lợi 
hơn, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn hơn, 
có điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh thông 
qua quy mô, năng suất và giảm chi phí sản xuất; 
thuận lợi hơn khi đầu tư ra các nước ASEAN 
khác
3.2.2.Về sự lưu chuyển về lao động
Đối với TPP:
Cũng như các FTA thế hệ mới khác, Hiệp 
định TPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao 
động mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao 
động được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của 
Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour 
Organization, viết tắt ILO) về những nguyên tắc 
và quyền cơ bản trong lao động mà tất cả các 
nước thành viên TPP đều có nghĩa vụ tôn trọng, 
thúc đẩy và thực thi với tư cách thành viên ILO. 
Hiệp định không đưa ra các tiêu chuẩn mới về 
lao động. Những tiêu chuẩn được đề cập trong 
Hiệp định TPP chính là các tiêu chuẩn lao động 
được nêu tại Tuyên bố năm 1998 của ILO, bao 
gồm:
+ Quyền tự do liên kết và thương lượng tập 
thể của người lao động và người sử dụng lao 
động (theo Công ước số 87 và số 98 của ILO); 
+ Xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt 
buộc (theo Công ước số 29 và số 105 của ILO); 
+ Cấm sử dụng lao động trẻ em, xóa bỏ các 
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (theo Công 
ước số 138 và Công ước số 182 của ILO); 
+ Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về 
việc làm và nghề nghiệp (theo Công ước số 100 
và số 111 của ILO). 
Việt Nam là thành viên của ILO từ năm 1992. 
Với tinh thần bảo đảm điều kiện lao động tốt 
nhất cho người lao động, Việt Nam đã chủ động 
phê chuẩn 5 Công ước cơ bản của ILO, bao gồm 
các Công ước số 29, 100, 111, 138 và 182. Với 3 
công ước cơ bản còn lại là các Công ước số 87, 
98 và 105, Việt Nam đã và đang tiến hành nghiên 
cứu và chuẩn bị để trình cơ quan có thẩm quyền 
phê chuẩn. Ngoài ra, việc đưa nội dung về lao 
động vào trong các FTA còn có mục đích nhằm 
bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa 
các bên trong quan hệ thương mại. Một nước 
duy trì tiêu chuẩn lao động thấp, tiền lương và 
các điều kiện lao động không được xác lập trên 
cơ sở thương lượng thường được cho là sẽ có chi 
phí sản xuất thấp hơn so với nước thực hiện các 
tiêu chuẩn cao hơn, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền 
lợi chính đáng của người lao động. Do đó, để 
tránh cạnh tranh không bình đẳng thông qua việc 
không bảo đảm điều kiện làm việc cơ bản cho 
người lao động, các nước tham gia Hiệp định 
TPP đưa ra những cam kết về lao động trong một 
chương riêng của hiệp định. 
Do đó, có thể thấy các yêu cầu về lao động 
trong TPP cũng chính là yêu cầu đặt ra đối với 
ngành thủy sản về vấn đề lao động. Ngành thủy 
sản đều có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và thực 
hiện bốn tiêu chuẩn lao động được đề cập trong 
các công ước của ILO. 
Vì thực trạng lao động ngành thủy sản không 
ổn định và ngành cần lượng lớn lao động nên 
các quy định chặt chẽ về lao động từ TPP sẽ tăng 
thêm thách thức cho doanh nghiệp chế biến thủy 
sản. Vấn đề an toàn lao động, tiền lương, giờ làm 
việc, vệ sinh lao động, cấm lao động cưỡng bức, 
cấm lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử 
trong lao động, đảm bảo điều kiện lao động cùng 
cơ chế giám sát và chế tài đặt ra trong hiệp định 
này sẽ tạo ra không ít thách thức đối với doanh 
nghiệp thủy sản khi tham gia vào các chuỗi cung 
8
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
ứng xuất khẩu, vì nếu vi phạm, có thể bị điều tra, 
bị kiện và bị phạt.
Đối với AEC: 
Mặc dù chưa có các tiêu chuẩn thống nhất 
trong tất cả các nước ASEAN về thị trường lao 
động nhưng chắc chắn đây phải là thị trường của 
những người có chứng chỉ nghề nghiệp hoặc 
bằng cấp được các nước ASEAN công nhận và 
thông qua bao gồm 8 ngành nghề là du lịch, kế 
toán, điều dưỡng, nha khoa, kiến trúc, kỹ sư, xây 
dựng và khảo sát. Mức độ lành nghề hay tính 
chuyên nghiệp sẽ được đặt lên hàng đầu và đây 
được xem là một trong những rào cản kỹ thuật 
lớn nhất đối với thị trường lao động ASEAN. 
Với mục tiêu tạo lập một thị trường thống nhất 
và một hệ thống sản xuất thống nhất. Lao động 
có kỹ năng được tự do di chuyển trong khu vực 
ASEAN.Với quy định này, trong thời gian tới 
ngành thủy sản gặp phải thách thức về lao động 
có trình độ tay nghề của ngành sẽ có xu hướng di 
chuyển sang các quốc gia khu vực để tìm kiếm 
cơ hội nâng cao thu nhập và lao động thiếu kỹ 
năng của ngành buộc phải thay đổi để đáp ứng 
yêu cầu về chất lượng của các doanh nghiệp.
Như vậy, thông qua việc so sánh về mức cắt 
giảm thuế quan và cam kết về vấn đề lao động 
của TPP và AEC đối với ngành thủy sản, chúng 
ta nhận thấy các nước không chỉ cắt giảm các 
hàng rào thuế quan mà còn ngày càng quan tâm 
hơn các vấn đề cắt giảm hàng rào phi thuế quan, 
như cắt giảm chi phí vận chuyển, thủ tục chờ 
đợi nhập khẩu Sau khi tham gia TPP và AEC, 
ngành thủy sản sẽ phải điều chỉnh cả những yếu 
tố thương mại, như những nội dung liên quan tới 
lao động, nhằm đáp ứng những yêu cầu đặt ra 
như đã cam kết.
3.3. Thực trạng phát triển của ngành thủy 
sản trong những năm vừa qua
Về sản lượng khai thác và nuôi trồng: 
Ngành thủy sản Việt Nam có một vai trò rất 
lớn trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp cho 
GDP khoảng 4%. Trong cơ cấu nông - lâm - ngư 
nghiệp, thủy sản chiếm 21% tỷ trọng. Trong 
những năm qua, ngành thủy sản đã đạt được 
những thành tựu đáng kể, tăng mạnh cả về sản 
lượng và giá trị. Theo số liệu của Tổng cục 
Thống kê, năm 2014 tổng sản lượng thủy sản 
đạt 6.332,5 nghìn tấn, tăng gấp 1,81 lần so với 
năm 2000 và so với năm 2010 sản lượng thủy 
sản tăng 1898,8 nghìn tấn, tức tăng 23,13%. Sản 
lượng thủy sản của Việt Nam chủ yếu từ nguồn 
khai thác và nuôi trồng. Trong năm 2014, sản 
lượng khai thác thủy sản đạt 2.919,2 nghìn tấn, 
tăng 115,4 nghìn tấn so với năm 2013, tức tăng 
4,1%. Và so với năm 2010, sản lượng khai thác 
thủy sản tăng 504,8 nghìn tấn tức tăng 20,9%. 
Cũng trong năm 2014, sản lượng nuôi trồng thủy 
sản 3.413,3 nghìn tấn, tăng 197,4 nghìn tấn so 
với năm 2013, tức tăng 6,13% và so với năm 
2010, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 685 
nghìn tấn, tức tăng 25,1%. 
Có thể nói giai đoạn 2000-2014 ngành thủy 
sản đạt tốc độ tăng trưởng cao trên tất cả các 
lĩnh vực khai thác thủy sản và nuôi trồng thủy 
sản. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng còn ở 
mức thấp. Cụ thể, trong 100% phần tăng lên 
của tổng sản lượng khai thác thủy sản có đến 
100% là do yếu tố tăng số lượng tàu thuyền tạo 
ra, trong 100% phần tăng lên của tổng sản lượng 
nuôi trồng thủy sản có đến 70% là do tăng năng 
suất, còn lại 30% là do tăng diện tích và nguyên 
nhân có thể kể đến là ngành thủy sản vẫn là một 
ngành khai thác tài nguyên tự nhiên theo kiểu 
tận thu, trước sức ép của các vấn đề kinh tế xã 
hội của một nước nghèo, chậm phát triển: gia 
tăng dân số nhanh, thiếu việc làm, đói nghèo 
và sự khốc liệt trong kiếm tìm kế mưu sinh của 
các cộng đồng dân cư ven biển. Bên cạnh đó, 
trong nhiều năm qua thủy sản lấy xuất khẩu làm 
mũi nhọn, tạo nguồn để nhập khẩu thiết bị công 
nghiệp hóa lĩnh vực chế biến thủy sản. Còn đối 
với các lĩnh vực sản xuất nguyên liệu, việc đẩy 
mạnh xuất khẩu chỉ kích thích tính tự phát sự gia 
tăng phát triển theo chiều rộng, tăng sản lượng 
lớn hơn tăng chất lượng. Do thiếu các cơ chế, 
chính sách, thiếu tầm nhìn xa, các thành quả từ 
xuất khẩu thủy sản đã không có tác động tích 
cực tới phát triển công nghiệp, phát triển nghề 
cá. Vì thế, trong lĩnh vực sản xuất nguyên liệu, 
nghề cá vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu 
của một nghề cá thủ công, các lĩnh vực thủy sản, 
khai thác hải sản, công nghiệp sản xuất thức ăn, 
chế phẩm sinh học trong NTTS... đều bị tụt hậu. 
Vì vậy chất lượng tăng trưởng vẫn ở mức thấp và 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
9
Năm Tổng số Khai thác Nuôi trồng
Sản lượng 
(Nghìn 
tấn )
Chỉ số phát 
triển (Năm 
trước = 100) 
- %
Sản lượng 
(Nghìn 
tấn)
Chỉ số phát 
triển (Năm 
trước = 100) 
- %
Sản lượng 
(Nghìn tấn)
Chỉ số phát 
triển (Năm 
trước = 100) 
- %
2000 2.250,9 112,1 1.660,9 108,8 590,0 122,6
2001 2.435,1 108,2 1.724,8 103,8 710,3 120,4
2002 2.647,9 108,7 1.802,6 104,5 845,3 119,0
2003 2.859,8 108,0 1.856,1 103,0 1.003,7 118,7
2004 3.143,2 109,9 1.940,0 104,5 1.203,2 119,9
2005 3.466,8 110,3 1.987,9 102,5 1.478,9 122,9
2006 3.721,6 107,3 2.026,6 101,9 1.695,0 114,6
2007 4.199,1 112,8 2.074,5 102,4 2.124,6 125,3
2008 4.602,0 109,6 2.136,4 103,0 2.465,6 116,1
2009 4.870,3 105,8 2.280,5 106,7 2.589,8 105,0
2010 5.142,7 105,6 2.414,4 105,9 2.728,3 105,3
2011 5.447,4 105,9 2.514,3 104,1 2.933,1 107,5
2012 5.820,7 106,9 2.705,4 107,6 3.115,3 106,2
2013 6.019,7 103,4 2.803,8 103,6 3.215,9 103,2
Sơ bộ 
2014
6.332,5 105,2 2.919,2 104,1 3.413,3 106,1
Bảng 1: Sản lượng và chỉ số phát triển sản lượng thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2000-2014 
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2000-2014
Về chế biến thủy sản: 
Trong những năm qua, hoạt động khai thác 
và nuôi trồng thuỷ sản đã có bước phát triển tích 
cực. Kéo theo đó, ngành chế biến thủy sản cũng 
đã có sự thay đổi, tạo nhiều việc làm và tăng 
thu nhập cho người dân. Theo thống kê của Cục 
Chế biến nông lâm thủy sản và Nghề muối, đến 
hết năm 2014 cả nước có 564 cơ sở chế biến 
thủy sản xuất khẩu hoặc làm vệ tinh cho doanh 
nghiệp xuất khẩu, trong đó có 91 cơ sở thuộc 
doanh nghiệp nhà nước, 159 doanh nghiệp thuộc 
công ty cổ phần, 292 cơ sở thuộc doanh nghiệp 
tư nhân, 9 cơ sở liên doanh và 13 cơ sở thuộc 
100% vốn nước ngoài. Các cơ sở chế biến thủy 
sản xuất khẩu chủ yếu tập trung ở vùng Bắc 
Trung Bộ và duyên hải miền Trung, Đông Nam 
Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, nơi có điều 
kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu từ khai thác. 
Chỉ tiêu 2002 2007 2012
Số cơ sở chế biến 211 320 429
Tổng công suất thiết bị cấp đông (tấn/ngày) 3.150 4.262 7.870
Số thiết bị cấp đông (chiếc) 836 1.318 1.378
Tủ đông tiếp xúc (chiếc) 517 681 694
Tủ đông gió (chiếc) 193 355 376
Tủ đông IQF (chiếc) 126 282 317
Bảng 2: Năng lực sản xuất của các cơ sở chế biến đông lạnh các năm 2002, 2007, 2012
Nguồn: Cục Chế biến NLTS và NM
10
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
Hiện nay, 11 nước thành viên tham gia TPP 
là: Mỹ, Nhật Bản, Canada, Australia, Singapore, 
Mexico, Malaysia, Newzealand, Chile, Peru và 
Brunei đều là những đối tác chiến lược của thủy 
sản Việt Nam. Tám tháng đầu năm 2015, tổng 
giá trị xuất khẩu thủy sản sang 11 thị trường này 
đạt gần 1,92 tỷ USD, chiếm 45,4% tổng giá trị 
xuất khẩu.
Hiện nay các cơ sở chế biến thủy sản đã đầu tư 
trang thiết bị, công nghệ hiện đại tiên tiến, quản 
lý theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng được các 
yêu cầu của các thị trường quốc tế. Tuy nhiên, 
bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì công 
nghiệp chế biến thủy sản vẫn đang tồn tại sự 
mất cân đối giữa trình độ công nghệ hiện đại 
với nhu cầu chất lượng sản phẩm. Các sản phẩm 
thủy sản chế biến bao gồm sản phẩm sơ chế và 
sản phẩm tinh chế, trong đó sản phẩm sơ chế 
chiếm tỷ trọng khá lớn khoảng 80% trong tổng 
sản lượng thủy sản xuất khẩu và nội địa nên giá 
trị gia tăng của sản phẩm chưa cao.
Về tình hình tiêu thụ sản phẩm: 
Việt Nam là một trong những nhà sản xuất 
thủy sản hàng đầu thế giới. Đặc biệt hơn 10 năm 
trở lại đây, ngành thủy sản đã có bước phát triển 
nhanh và ổn định, góp phần quan trọng vào sự 
tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Giá trị 
xuất khẩu thủy sản luôn đứng đầu trong khối 
nông, lâm, ngư nghiệp (25%) và đứng thứ tư thế 
giới về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Sản 
phẩm thủy sản Việt Nam đã có mặt và đứng 
vững tại 164 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế 
giới. Xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã chiếm 
lĩnh, đứng vững trên trường quốc tế và hiện 
đang là một trong 10 nước có giá trị xuất khẩu 
thủy sản hàng đầu thế giới, là nước có tốc độ 
tăng trưởng xuất khẩu thủy sản nhanh nhất. 
Theo Hiệp hội Chế biến xuất khẩu thủy 
sản Việt Nam (VASEP), năm 2014 tổng kim 
ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 7.836 triệu USD, 
tăng 16,74% so với năm 2013, bình quân tăng 
14,27%/năm (1995 - 2014). Năm 2014 kim 
ngạch xuất khẩu thủy sản chiếm 25,39% tổng 
kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp 
và 2,65% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc. 
Trong đó, tôm và cá tra vẫn là hai mặt hàng 
xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam 
(xuất khẩu tôm đạt 3.952 triệu USD chiếm 
50,43% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành 
thủy sản, cá tra đạt khoảng 1.768 triệu USD 
chiếm 22,56% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn 
ngành thủy sản.
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2000-2014 (tỷ USD)
(Năm)
(Tỷ USD)
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
11
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam 
sang 11 nước thành viên TPP năm 2013, 2014 và 8 tháng đầu năm 2015 
Hình 2: Mười mặt hàng nông nghiệp có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD trong năm 2014 
 STT Thị trường 2013 2014 2015*
1 Mỹ 1.518.398.568 1.744.451.909 808.192.035
2 Nhật Bản 1.152.444.791 1.211.058.560 660.387.925
3 Canada 185.352.852 268.056.365 124.108.185
4 Australia 206.401.481 239.158.357 114.943.731
5 Singapore 101.816.153 108.903.892 69.330.371
6 Mexico 108.268.112 125.171.430 62.247.484
7 Malaysia 63.140.311 70.965.653 50.789.584
8 New Zealand 19.051.247 22.487.223 13.297.906
9 Chile 5.628.955 12.806.448 7.744.522
10 Peru 7.454.965 7.522.953 3.394.957
11 Brunei 1.354.104 1.382.295 955.012
Tổng cộng 3.369.311.539 3.811.965.085 1.915.391.714
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nguồn: Cục Chế biến NLTS và NM
Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nghập khẩu Việt Nam 
năm 2011-2014, Tổng cục Hải quan
Năm 2011 2012 2013 2014
KNXK (triệu USD) 307,26 334 380 447
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang ASEAN năm 2011-2014
*8 tháng đầu năm 2015 
12
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
Như vậy, thông qua kim ngạch xuất khẩu 
thủy sản sang thị trường TPP và AEC cho thấy 
TPP là thị trường xuất khẩu chủ yếu, chiếm tỷ 
trọng lớn trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu 
của ngành thủy sản. Do đó, những cam kết của 
Việt Nam đối với TPP sẽ tác động mạnh mẽ 
tới ngành thủy sản Việt Nam. Trong khi đó, thị 
trường AEC cũng có tác động tới ngành thủy sản 
nhưng không nhiều như TPP.
4. Kết luận
Việc tham gia vào TPP và AEC sẽ có nhiều 
tác động tới ngành thủy sản Việt Nam. Đối với 
ngành thủy sản, khi Việt Nam gia nhập TPP sẽ 
làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa vào 
các thị trường rộng lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, 
Canada, đối với AEC, ngành thủy sản sẽ được 
tự do lưu chuyển hàng hóa với mức thuế suất 
cơ bản bằng không. Cả TPP và AEC sẽ đem lại 
nhiều cơ hội cho xuất khẩu thủy sản của Việt 
Nam, mở rộng các hoạt động dịch vụ, tạo tiền 
đề cho phát triển sản xuất nông nghiệp trong 
nước tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. 
Tuy nhiên, cùng với lợi ích mà TPP và AEC có 
thể đem lại, ngành thủy sản cũng phải đối mặt 
với không ít thách thức. Do đó, để tận dụng cơ 
hội và giảm thiểu tác động từ TPP và AEC mang 
lại, ngành thủy sản cần tiếp tục nâng cao năng 
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và các mặt 
hàng thủy sản; tăng cường nhân lực, nâng cao 
năng suất lao động, phát triển lực lượng lao động 
tiên tiến phục vụ cho ngành. Khẩn trương hoàn 
thiện môi trường chính sách; nâng cao năng lực 
thực thi pháp luật, phân tích, dự báo thị trường 
và khả năng vận dụng cam kết, các biện pháp 
được áp dụng trong các Hiệp định thương mại tự 
do. Tăng cường năng lực cho các Hiệp hội ngành 
hàng và doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh 
hội nhập kinh tế. Bên cạnh đó, ngành cần đẩy 
nhanh tiến trình tái cơ cấu ngành thủy sản, phát 
huy cao hơn những lợi thế của ngành. Đồng thời, 
kết hợp với việc ứng dụng khoa học công nghệ, 
tổ chức lại sản xuất để các sản phẩm thủy sản của 
nước ta có khả năng cạnh tranh cao hơn, chiếm 
lĩnh được thị trường đã được các nước cam kết 
mở cửa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trung tâm Thông tin tư liệu, 2013. Kinh tế nông thôn Việt Nam – Vai trò và định hướng phát 
triển trong thời gian tới, Hà Nội.
[2] Trung tâm Thông tin tư liệu, 2014. Tái cơ cấu trong nông nghiệp, Hà Nội.
[3] Thủ tướng Chính phủ, 2013. Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến năm 
2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội, Thủ tướng CP-QĐ1445.
[4] Hồ Văn Hội, 2015. Tham gia TPP - Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam, 
Tạp chí khoa học ĐHQG Hà Hội: Kinh tế và kinh doanh, Tập 31, số 1(2015), tr.1-10.
[5] Đoàn Thị Phượng, 2016. Hiệp định TPP và một số lưu ý đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông 
thôn TP.HCM, Trung tâm tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp TP.HCM.
[6] Nguyễn Đức Thành, 2015. Tác động của TPP và AEC lên nền kinh tế Việt Nam: khía cạnh kinh 
tế vĩ mô và trường hợp ngành chăn nuôi Việt Nam, Hội thảo Khoa học Quốc tế tại Hà Nội.
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
13

File đính kèm:

  • pdftham_gia_cong_dong_kinh_te_asean_aec_va_hiep_dinh_thuong_mai.pdf