Tiềm năng chế phẩm vi sinh Bacillus và Streptomyces kiểm soát Vibrio Parahaemolyticus gây bệnh AHPND trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus Vannamei)

TÓM TẮT

Hiện nay ứng dụng men vi sinh giúp cải thiện chất lượng nước, kiểm soát một số bệnh truyền nhiễm trên

tôm đã góp phần giảm thiểu bùng phát dịch bệnh. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định khả năng ức chế của

Bacillus (B1, S5) và Streptomyces X285 với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh ở tôm thẻ chân trắng

(Litopenaeus vannamei). Kết quả ghi nhận, bổ sung 105 CFU/mL Bacillus và Streptomyces định kỳ 2 lần/tuần

dẫn đến tỷ lệ sống của tôm cao hơn so với nhóm đối chứng và tỷ lệ bao hộ (RPS) là trên 70% sau 10 ngày gây

nhiễm V. parahaemolyticus trong điều kiện in vivo. Hơn nữa, nghiên cứu tương tự đã được ứng dụng ở quy

mô ao (600-700 m²), tôm được nuôi và theo dõi trong 120 ngày tại tỉnh Sóc Trăng. Bổ sung chế phẩm sinh

học bao gồm Bacillus và Streptomyces 2 lần/tuần, có thể kiểm soát V. parahaemolyticus. Hơn nữa, các chỉ

số môi trường nitrit, amonia đều tăng nhưng trong khoảng cho phép nuôi tôm nước lợ QCVN 02-19: 2014 /

BNNPTNT. Mặt khác, ao đối chứng khi sử dụng chế phẩm vi sinh thương mại đã không mang lại hiệu quả và

được thu hoạch sớm vào 45 ngày nuôi vì AHPND.

Từ khóa: Bacillus, Streptomyces, AHPND, tỷ lệ chết bảo hộ RPS (%)

pdf 9 trang Bích Ngọc 05/01/2024 1800
Bạn đang xem tài liệu "Tiềm năng chế phẩm vi sinh Bacillus và Streptomyces kiểm soát Vibrio Parahaemolyticus gây bệnh AHPND trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus Vannamei)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiềm năng chế phẩm vi sinh Bacillus và Streptomyces kiểm soát Vibrio Parahaemolyticus gây bệnh AHPND trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus Vannamei)

Tiềm năng chế phẩm vi sinh Bacillus và Streptomyces kiểm soát Vibrio Parahaemolyticus gây bệnh AHPND trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus Vannamei)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 97
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
TIỀM NĂNG CHẾ PHẨM VI SINH Bacillus VÀ Streptomyces KIỂM SOÁT 
Vibrio parahaemolyticus GÂY BỆNH AHPND TRÊN
TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei)
PROBIOTIC POTENTIAL OF Bacillus AND Streptomyces STRAINS IN CONTROL OF
Vibrio parahaemolyticus CAUSING AHPND IN WHITE SHRIMP (Litopenaeus vannamei)
Võ Hồng Phượng¹*, Phạm Thị Huyền Diệu², Lê Hồng Phước¹,
 Cao Vĩnh Nguyên³, Chu Quang Trọng¹, Nguyễn Công Thành4,
 Thái Thanh Trung4, Đặng Ngọc Thùy¹
Ngày nhận bài: 01/08/2019; Ngày phản biện thông qua: 10/11/2019; Ngày duyệt đăng: 15/12/2019
TÓM TẮT
Hiện nay ứng dụng men vi sinh giúp cải thiện chất lượng nước, kiểm soát một số bệnh truyền nhiễm trên 
tôm đã góp phần giảm thiểu bùng phát dịch bệnh. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định khả năng ức chế của 
Bacillus (B1, S5) và Streptomyces X285 với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh ở tôm thẻ chân trắng 
(Litopenaeus vannamei). Kết quả ghi nhận, bổ sung 105 CFU/mL Bacillus và Streptomyces định kỳ 2 lần/tuần 
dẫn đến tỷ lệ sống của tôm cao hơn so với nhóm đối chứng và tỷ lệ bao hộ (RPS) là trên 70% sau 10 ngày gây 
nhiễm V. parahaemolyticus trong điều kiện in vivo. Hơn nữa, nghiên cứu tương tự đã được ứng dụng ở quy 
mô ao (600-700 m²), tôm được nuôi và theo dõi trong 120 ngày tại tỉnh Sóc Trăng. Bổ sung chế phẩm sinh 
học bao gồm Bacillus và Streptomyces 2 lần/tuần, có thể kiểm soát V. parahaemolyticus. Hơn nữa, các chỉ 
số môi trường nitrit, amonia đều tăng nhưng trong khoảng cho phép nuôi tôm nước lợ QCVN 02-19: 2014 / 
BNNPTNT. Mặt khác, ao đối chứng khi sử dụng chế phẩm vi sinh thương mại đã không mang lại hiệu quả và 
được thu hoạch sớm vào 45 ngày nuôi vì AHPND. 
Từ khóa: Bacillus, Streptomyces, AHPND, tỷ lệ chết bảo hộ RPS (%)
ABSTRACT
Application of probiotics in improving water quality and controlling certain bacterial infection in shrimp 
are potentially less disease outbreaks. The present study was conducted to determine the inhibitory effects of 
Bacillus and Streptomyces on pathogenic Vibrio parahaemolyticus infection in white shrimp (Litopenaeus 
vannamei). It was found that addition of 105 CFU/mL of Bacillus and Streptomyces twice per week resulted in 
higher shrimp survival compared to that of positive control and relative percentage survival (RPS) was above 
70% after 10 days of challenging shrimp with V. parahaemolyticus in vivo test. Moreover, the same study was 
applied in larger scale at farm level (600-700 m²) where white-leg shrimp were cultured for 100 days in pond 
in Soc Trang province. Adding probiotic formulations include Bacillus and Streptomyces twice per week could 
control V. parahaemolyticus. Furthermore, concentration of nitrite, ammonia slightly improve during 100 days 
in all experimental groups but those parameters were under permitted code QCVN 02-19:2014/BNNPTNT. 
On the other hand, the control pond with commercial probiotic was early harvested at 45 cultured days after 
stocking because of AHPND. 
Key word: Bacillus, Streptomyces, AHPND, RPS (%)
¹ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I
² Trường Đại học Sư phạm, Tp. Hồ Chí Minh
³ Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
4 Trung tâm tập huấn và Chuyển gia công nghệ nông nghiệp phía Nam
98 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (Acute 
hepatopancreatic necrosis syndrome- AHPND) 
gây thiệt hại nặng cho ngành nuôi tôm của Việt 
Nam cũng như khu vực Đông Nam Á. Bệnh 
ảnh hưởng trên cả tôm sú (Penaeus monodon) 
và tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) 
có cùng biểu hiện bệnh tích trên cơ quan gan tụy 
(Panakorn, 2012). Tác nhân gây ra bệnh hoại tử 
gan tụy cấp là vi khuẩn V. parahaemolyticus 
xâm nhập vào hệ thống mô gan tụy và gây ảnh 
hưởng đến chức năng gan tụy tôm (Tran và 
ctv., 2013). Các biện pháp thông thường được 
sử dụng để kiểm soát dịch bệnh như hóa chất 
tổng hợp và kháng sinh. Tuy nhiên, bên cạnh 
những tác động tích cực mang lại chúng còn 
có những tác động tiêu cực như hiện tượng 
kháng thuốc đối với các chủng vi sinh vật, ảnh 
hưởng sức khỏe người tiêu dùng và cũng là rào 
cản thương mại xuất khẩu. Trong khi đó, chế 
phẩm vi sinh được chứng minh có khả năng 
loại trừ các vi sinh vật gây bệnh thông qua cạnh 
tranh bám dính trong đường ruột, cạnh tranh 
dinh dưỡng, sản xuất các hợp chất ức chế, tăng 
cường hệ miễn dịch và cải thiện chất lượng 
nước (Sahu và ctv., 2008). 
Bacillus là nhóm vi khuẩn được sử dụng 
phổ biến bởi các đặc tính có lợi của chúng 
đồng thời bởi vì giá thành thấp, dễ pha 
trộn, chịu được tác động nhiệt tốt trong quá 
trình sản xuất, dễ bảo quản, hạn sử dụng 
dài (Barbosa và ctv., 2005). Nghiên cứu của 
Nguyễn Văn Phúc và Phan Thị Phương Trang 
(2014) đã phân lập các hai chủng B. subtilis 
có khả năng ức chế V. parahaemolyticus gây 
AHPND. Ngoài ra, Võ Hồng Phượng và ctv. 
(2018) cũng đã phân lập vi khuẩn Bacillus 
licheniformis (B1) nồng độ ban đầu 105 CFU/
mL, 106 CFU/mL, 107 CFU/mL có khả năng 
ức chế V. parahaemolytics (AHPND) nồng độ 
104, 105, 106, 107 CFU/mL sau thời gian chín 
giờ bằng phương pháp đồng nuôi cấy. 
Các chủng Streptomyces có lợi có thể 
được coi là probiotic tiềm năng trong nuôi 
trồng thủy sản với khả năng sinh tổng hợp 
kháng sinh, các chất kháng khuẩn, tạo ra một 
số emzym ngoại bào, hỗ trợ sinh trưởng của 
các vi sinh vật và đảm bảo chất lượng nước 
(Tan và ctv., 2016). You và ctv. (2007) cũng 
đã chứng minh Streptomyces albus có khả 
năng sản xuất các hợp chất ức chế và các chất 
chuyển hóa liên quan đến sự hình thành màng 
sinh học của các tác nhân gây bệnh như V. 
harveyi, V. vulnifi cus, và V. anguillarum. Các 
nhóm Streptomyces RL8 và BMix-StrepMix 
cho tỷ lệ sống trên tôm gần 95% khi cảm nhiễm 
với vi khuẩn V. parahaemolyticus CAIM 170 
(Bentley và ctv., 2002). Đặc tính đối kháng 
của các chủng vi sinh vật có lợi đối với V. 
parahaemolyticus (AHPND) trong sản phẩm 
probiotic nghiên cứu còn hạn chế. Vì vậy, 
nghiên cứu hiệu quả kết hợp các chủng 
Bacillus và Streptomyces trong phòng trị 
AHPND quy mô phòng thí nghiệm và quy 
mô thử nghiệm trong ao nuôi diện tích 
600-700 m² bằng phương pháp xử lý nước là 
cần thiết nhằm góp phần đa dạng hóa chủng 
giống cung cấp cho sản xuất chế phẩm vi sinh 
và góp phần hạn chế AHPND.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu nghiên cứu
Chế phẩm sinh học chứa vi khuẩn có lợi 
Bacillus licheniformis B1, B. subtilis S5; chế 
phẩm sinh học Streptomyces X285; vi khuẩn 
gây AHPND V. parahaemolyticus thuộc phạm 
vi đề tài “Nghiên cứu tạo chế phẩm vi sinh đối 
kháng Vibrio spp. gây bệnh hoại tử gan tụy cấp 
trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng”
2. Phương pháp tăng sinh các chủng vi sinh 
vật trong chế phẩm sinh học Bacillus B1, S5 
và Streptomyces X285
Chế phẩm Bacillus B1 và Bacillus S5 có 
mật độ Bacillus ban đầu khoảng 2x109 CFU/g; 
chế phẩm Streptomyces X285 mật độ ban đầu 
108 CFU/mL trước khi sử dụng được hoạt hóa 
và tăng sinh theo công thức sau: bột đậu nành 
(2g/L), mật rỉ đường (7g/L), cao nấm men 
(0,5g/L), chế phẩm Bacillus (1ppm), chế phẩm 
Streptomyces X285 (1ppm). Hai nhóm vi sinh 
vật này được lên men từng mẻ trong đó sản 
phẩm Bacillus được tăng sinh thời gian 18-24 
giờ; nhóm Streptomyces được tăng sinh thời 
gian 60-72 giờ sục khí liên tục trước khi xử lý 
nước định kỳ trong các thí nghiệm. 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 99
3. Phương pháp khảo sát tần suất sử dụng 
chế phẩm Bacillus kết hợp Streptomyces 
trong điều kiện phòng thí nghiệm
Tôm thẻ khỏe trọng lượng trung bình 1,5-2 
g/con được bố trí 100 cá thể vào bể composite 
tròn (500 lít) chứa 350 lít nước biển 15 ‰, có 
sục khí liên tục. Chế độ cho ăn mỗi ngày 3 lần. 
Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Định kỳ xử 
lý vi sinh và duy trì mật độ Bacillus tương ứng 
105 CFU/mL và Streptomyces X285 104 CFU/
mL trong các nghiệm thức thí nghiệm. Tất cả 
các nghiệm thức được gây cảm nhiễm bằng 
phương pháp ngâm với V. parahaemolyticus 
106 CFU/mL sau khi kết thúc xử lý vi sinh một 
ngày ở các nghiệm thức (Bảng 1). 
Bảng 1. Bố trí thí nghiệm tần suất sử dụng Bacillus (B1, S5) và Streptomyces X285
Nghiệm thức
Chủng vi khuẩn
 sử dụng xử lý nước
Tần suất xử lý nước
NT1 (B-S-X-1)
Bacillus (B1, S5) + Streptomyces 
X285
1 lần/ tuần
NT2 (B-S-X-2) 2 lần/ tuần
NT3 (B-S-X-3) 3 lần/ tuần
NT4 (B-S-1)
Bacillus B1 + Bacillus S5
1 lần/tuần
NT5 (B-S-2) 2 lần/ tuần
NT6 (B-S-3) 3 lần/ tuần
NT7 (B-X-1)
Bacillus B1 + Streptomyces X285
1 lần/tuần
NT8 (B-X-2) 2 lần/ tuần
NT9 (B-X-3) 3 lần/ tuần
NT10 (S-X-1)
Bacillus S5 + Streptomyces X285
1 tuần/ lần
NT11 (S-X-2) 2 lần/ tuần
NT12 (S-X-3) 3 lần/ tuần
Đối chứng dương (ĐC) Không sử dụng vi sinh
4. Phương pháp thử nghiệm hiệu quả sử dụng 
chế phẩm Bacillus kết hợp Streptomyces mô 
hình ao nuôi thương phẩm 600-700 m²
Hiệu quả xử lý nước 2 lần/tuần kết hợp giữa 
hai chủng Bacillus (B1, S5) và Streptomyces 
X285 phòng AHPND trong phòng thí nghiệm 
được xây dựng dự thảo quy trình ao nuôi thử 
nghiệm (600 - 700 m²). Tôm thẻ PL10 khỏe 
được thả nuôi với mật độ 100-120 con/m², ao 
được bố trí hệ thống sục khí liên tục. Địa điểm 
bố trí thí nghiệm tại ấp Nopoul, xã Vĩnh Tân, 
thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Bố trí thử 
nghiệm các ao thể hiện Bảng 2.
Bảng 2. Bố trí thử nghiệm hiệu quả sử dụng Bacillus (B1, S5) và 
Streptomyces X285 mô hình ao nuôi thương phẩm
Ao thí nghiệm Chủng vi sinh sử dụng
Tần suất 
sử dụng
Liều và cách sử dụng chế phẩm vi 
sinh
Ao 1 (TN1) Hỗn hợp Bacillus (B1, S5) và 
Streptomyces X285
2 lần/ 
tuần 
Lên men sản phẩm trước khi xử lý ao 
trên bể nhựa (1 m3). Liều dùng 1g sản 
phẩm/m3 
Ao 2 (TN2)
Ao 3 (ĐC1)
Sử dụng chế phẩm vi sinh 
thương mại (Bacillus sp.)
2 lần/
tuần
Ao 4 (ĐC2)
Sử dụng chế phẩm vi sinh 
thương mại (Bacillus sp.)
1 lần/5 
ngày
Xử lý trực tiếp sản phẩm liều 0,5-1 g/
m3
Ghi chú: Công thức nhân sinh khối theo mục 2.2
100 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
Trong quá trình nuôi, mật độ Vibrio tổng số 
và V. parahaemolyticus mẫu nước được theo 
dõi định kỳ 7 ngày/1 lần bằng phương pháp 
trãi đĩa đếm khuẩn lạc trên môi trường TCBS 
(Thiosulphate citrate bile sucrose agar) và 
Chromagar vibrio. Bên cạnh đó, gen độc PirB 
trong nước ao nuôi được xác định sau khi mẫu 
nước các ao thử nghiệm được làm giàu trong 
môi trường dinh dưỡng nutrient broth (NB) 
(Han và ctv., 2015). Ngoài ra, yếu tố môi trường 
nhiệt độ, pH, độ mặn được theo dõi hằng ngày 
tại hiện trường; nitrite, tổng đạm amon (NH3/
NH
4
+) được phân tích theo phương pháp tiêu 
chuẩn (Toan, 2017).
5. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được tính toán giá trị trung 
bình, độ lệch chuẩn, so sánh sự khác biệt giữa 
các nghiệm thức theo phương pháp phân tích 
One Way ANOVA tại mức 5% khác biệt với 
phép thử Turkey thông qua phần mềm SPSS.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN
1. Tần suất sử dụng chế phẩm Bacillus (B1, 
S5) kết hợp Streptomyces X285 trong điều 
kiện phòng thí nghiệm
Tỷ lệ tôm chết cộng dồn ở các nghiệm thức 
trong 10 ngày theo dõi được thể hiện ở Hình 1. 
Các nghiệm thức xử lý định kỳ các chủng vi sinh 
2 lần/tuần và 3 lần/tuần có hiệu quả bảo vệ tôm 
cao hơn khi xử lý nước 1 lần/tuần với tỷ lệ chết 
cộng dồn dưới 30% trong 10 ngày thử nghiệm. 
Kết quả tỷ lệ tôm chết cộng dồn ở các nghiệm 
thức cho thấy đối với nghiệm thức sử dụng cả ba 
chủng vi sinh có lợi Bacillus B1, Bacillus S5 và 
Streptomyces X285 định kỳ 3 lần/tuần có tỷ lệ 
chết thấp nhất, có ý nghĩa thống kê so với nhóm 
đối chứng (p<0,05) và RPS=82,33%. Tương tự, 
khi kết hợp Bacillus B1 và Streptomyces X285 
xử lý nước định kỳ 2 lần/tuần và 3 lần/tuần cũng 
có hiệu quả bảo vệ với tỷ lệ bảo hộ RPS= 80,58- 
81,97%, theo thứ tự trên. Trong khi đó, khi xử lý 
các chủng vi sinh có lợi với tần suất 1 lần/tuần 
thì tỷ lệ chết của tôm tăng so với nhóm xử lý 2 
lần/ tuần trở đi nhưng tỷ lệ chết của các nhóm xử 
lý vi sinh 1 lần/tuần thấp hơn so với nhóm đối 
chứng (p<0,05. Trái lại, khi kết hợp Bacillus S5 
và Steptomyces X285 hiệu quả bảo vệ tôm đối 
với AHPND tương đối thấp, tỷ lệ chết dao động 
48-51% theo tần suất xử lý nước. 
Mặt khác, sau 10 ngày gây cảm nhiễm V. 
parahaemolyticus ở các nghiệm thức cho thấy 
xử lý 2 lần/tuần và 3 lần/tuần không có sự khác 
biệt đáng kể về tỷ lệ chết tôm (p>0,05) nhưng 
tỷ lệ chết tôm khác biệt hoàn toàn giữa nghiệm 
thức xứ lý 1 lần/tuần với 2 lần/tuần trở đi. Từ kết 
quả này cho thấy để ứng dụng hiệu quả phòng 
AHPND quy mô trang trại nên kết hợp Bacillus 
và Steptomyces và xử lý định kỳ 2 lần/tuần.
Hình 1. Tỷ lệ chết cộng dồn tôm thẻ chân trắng sau 10 ngày gây cảm nhiễm V. parahaemolyticus.
Verschuere và ctv. (2000) cho rằng probiotic 
đơn chủng thông thường sử dụng ít hiệu quả 
hơn hỗn hợp nhiều chủng. Đa chủng vi sinh vật 
hay đa loài trong probiotic đều tăng cường hiệu 
quả bảo vệ kháng lại các tác nhân truyền nhiễm 
gây bệnh (Kesarcodi-Watson và ctv., 2012) bởi 
vì tính đa dạng trong cơ chế ức chế giữa các 
chủng trong probiotic giúp tăng hiệu quả sử 
dụng (Chapman và ctv., 2012)
Ngoài ra, liều lượng và thời gian sử dụng 
probiotic ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối 
với vật nuôi. Sử dụng quá liều có khả năng gây 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 101
nên ức chế miễn dịch không đặc hiệu của vật 
nuôi (Sakai, 1999). Mật độ probiotic 107 CFU/
mL mang lại hiệu quả kích thích miễn dịch 
mạnh từ đó tăng cường các chỉ số miễn dịch 
tế bào (Salinas và ctv., 2006). Mật độ duy trì 
thông thường 105 CFU/mL (Hai và ctv., 2010). 
Bên cạnh đó, thời gian sử dụng probiotic nên 
duy trì ít nhất sáu ngày (Jöborn và ctv., 1997) 
và nhiều hơn năm tháng (Aubin và ctv., 2005) 
hoặc ngay cả tám tháng (Aly và ctv., 2008).
Bên cạnh đó, Pinoargote và ctv. (2018) thử 
nghiệm sản phẩm probiotic thương mại EM 
(Effective Microorganisms EMRO Inc., Tucson, 
AZ) liều cao từ 108- 109CFU/mL trong 7 ngày, 
sau đó gây cảm nhiễm V. parahaemolyticus. 
Đồng thời, kết hợp trộn thức ăn và xử lý nước 
106 CFU/mL vào mỗi 2 lần/ngày liên tục trong 
14 ngày trước khi gây nhiễm V. parahaemolyticus. 
Kết quả cho thấy trong 48 giờ theo dõi, tôm 
nghiệm thức EM không chết cấp tính đến 26 giờ 
sau khi gây nhiễm, tỷ lệ chết chỉ đạt 26,7% sau 32 
giờ. Trong khi đó, nhóm đối chứng dương bắt 
đầu xuất hiện tôm chết sau tám giờ gây nhiễm 
và đạt tỷ lệ chết 100% sau 12 giờ. Bên cạnh 
đó, khi sử dụng Streptomyces N8 (108 CFU/g 
thức ăn) liên tục 30 ngày trước khi gây nhiễm 
V. parahaemolyticus thì tỷ lệ sống tôm thẻ đạt 
84,44 % (Garcia và ctv., 2016).
2. Hiệu quả sử dụng chế phẩm Bacillus kết 
hợp Streptomyces mô hình ao nuôi thương 
phẩm
2.1 Mật độ Vibrio tổng số trong nước ao nuôi
Tổng số Vibrio ở ao TN1 trong sáu tuần 
đầu ở mức 3,3 log
10
 CFU/mL, từ tuần thứ 
Hình 2. Diễn biến Vibrio tổng số trong nước của các ao nuôi thử nghiệm.
chín, 10 và 12 mật độ Vibrio trong nước tăng 
đáng kể từ 3,69 – 3,78 log
10
 CFU/mL. Tương 
tự ở TN2, từ tuần thứ tám, chín và 12 mật độ 
Vibrio tăng cao và đạt mức cao nhất khoảng 
5,3 log
10
 CFU/mL. Điều này cho thấy Vibrio 
thường xuyên có mặt trong ao nuôi và phát 
triển tùy theo lượng dinh dưỡng và các điều 
kiện thủy lý thủy hóa trong ao. 
Trong môi trường nước ao nuôi ĐC1, Vibrio 
tổng số luôn tồn tại ở mức khá cao suốt vụ nuôi. 
Trong bốn tuần đầu tiên, mật độ Vibrio tổng số 
ở mức 2,61 – 2,98 log
10
 CFU/mL. Đến tuần thứ 
năm trở đi, mật độ của nhóm vi khuẩn này đã 
tăng lên gấp hai lần so với bốn tuần trước đó. 
Tương tự, ao ĐC2, mật độ Vibrio có xu hướng 
tăng theo thời gian nuôi và tăng cao hơn rất 
nhiều so với nhóm ao thí nghiệm. Ở tuần thứ 
năm, mật độ Vibrio đạt mức cao nhất 5,87 log
10
CFU/mL và tỷ lệ Vibiro khuẩn lạc xanh cao 
gấp10 lần so với Vibrio khuẩn lạc vàng. Điều 
này cho thấy không có sự hiệu quả trong việc 
kiểm soát nhóm Vibrio khuẩn lạc xanh trong 
ao nuôi ĐC2. 
2.2. Mật độ Vibrio parahaemolyticus trong các 
ao nuôi 
Các ao thử nghiệm đều phát hiện V. 
parahaemolyticus. Tuy nhiên, ao TN1 chỉ xuất 
hiện V. parahaemolyticus ở tuần thứ tám với 
mật độ thấp (10,0 CFU/mL) và âm tính với V. 
parahaemolyticus gây AHPND. Tương tự ở 
ao TN2, chỉ phát hiện ở tuần thứ tư, năm, tám 
và chín ở mức 1 – 1,7 log
10
 CFU/mL và cũng 
âm tính với V. parahaemolyticus gây AHPND. 
Trong khi đó, mật độ V. parahaemolyticus ở ao 
ĐC2 cao hơn so với nhóm ao thử nghiệm, đạt 
mức cao nhất ở tuần thứ năm (5,8 log
10 
CFU/ml) 
đồng thời dương tính với V. parahaemolyticus 
gây AHPND và tôm nuôi có biểu hiện bất 
thường như bỏ ăn chết rải rác, và thu hoạch 
ngày thứ 42. Tương tự, ao ĐC1, từ tuần nuôi 
thứ năm và sáu thì mật độ V. parahaemolyticus 
tăng cao và đạt mức 4,7 log
10
 CFU/mL và 
102 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
cũng dương tính với V. parahaemolyticus gây 
AHPND. Tại thời điểm này, ao ĐC1 được xứ lý 
diệt khuẩn bởi glutaraldehyde (10-15%), đồng 
thời kết hợp xi phông thay nước hằng ngày loại 
bỏ tôm chết. Bên cạnh đó, thức ăn cũng được 
kiểm soát và cắt giảm trong thời gian này. Đến 
tuần thứ bảy trở đi, mật độ V. parahaemolyticus 
giảm đáng kể và duy trì trong khoảng 2,95 
log
10
 CFU/mL. Mức độ kiểm soát Vibrio sp. 
và V. parahaemolyticus ở ao TN1 và TN2 cao 
hơn ao ĐC1 và ĐC2 cho thấy hiệu quả khi 
kết hợp ba chủng vi sinh Bacillus (B1, S5) và 
Streptomyces trong xử lý nước định kỳ 2 lần/
tuần trong suốt vụ nuôi tốt hơn khi so sánh với 
các chủng vi khuẩn thương mại khác. Kết quả 
nghiên cứu của Aftabuddin và ctv. (2013) cho 
thấy kết hợp hai chủng Bacillus megaterium và 
Streptomyces fradiae trong nuôi tôm sú giống 
giúp duy trì tổng vi khuẩn Vibrio ở mật độ thấp 
hơn so với nhóm không sử dụng vi sinh này. 
Moriarty (1998) đã nhận định rằng bổ sung 
Bacillus có thể kiểm soát được Vibrio, tăng 
tỷ lệ sống của tôm, hạn chế mầm bệnh do vi 
khuẩn Vibrio trong nước. Theo nghiên cứu của 
Timmerman và ctv. (2004) tác dụng đồng thời 
của sự kết hợp Streptomyces và Bacillus mang 
lại hiệu quả hơn so với men vi sinh đơn dòng, 
bởi vì hoạt động sinh học đáng chú ý của nhóm 
Bac-Strep là khả năng sản xuất một số enzyme 
và kháng sinh ngoại bào. 
 2.3. Các chỉ tiêu môi trường 
Nhiệt độ, pH và độ mặn 
Thời gian bố trí nuôi thử nghiệm từ tháng 
02/2019 đến 06/2019, thời điểm nắng nóng 
kéo dài do đó nhiệt độ trong các ao nuôi thử 
nghiệm khá cao và dao động ngày đêm từ 28oC 
– 32oC. Theo Christopher (2008) giớ i hạ n nhiệ t 
độ cho sự sinh trư ở ng củ a tô m thẻ châ n trắ ng 
từ 14,5 - 35,0°C. Trần Viết Mỹ (2009) cho rằng 
nhiệ t độ trong khoả ng 26 - 32°C không gây 
ả nh hư ở ng đế n sự sinh trư ở ng và phát triể n củ a 
tôm nuôi. Giá trị pH khá ổn định, pH sáng dao 
động trong khoảng 7,7-8,0, pH chiều 7,8-8,2. 
Chỉ số pH dao động từ 7,5 đến 8,5 nằm trong 
khoảng thích hợp cho tôm nuôi (Whetstone và 
ctv., 2002). Như vậy, theo quy chuẩn QCVN 
02-19:2014/BNNPTNT thì các khoảng dao 
động của nhiệt độ, pH đều thích hợp cho tôm 
nuôi nước lợ. 
Tổng đạm amon (TAN) (NH
3
/NH4
+)
Hàm lượng TAN diễn biến khá phức tạp 
trong thời gian nuôi, diễn biến theo quy luật 
Ghi chú: (-): âm tính với V. parahaemolyticus gây AHPND; (+): dương tính với V. parahaemolyticus gây AHPND
Hình 3. Diễn biến Vibrio parahaemolyticus trong nước các ao nuôi thử nghiệm.
Hình 4. Diễn biến tổng đạm amon trong các ao nuôi thử nghiệm.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 103
hình sin nhưng đều không vượt quá 2 mg/L. 
Các ao nuôi thử nghiệm có tổng đạm amon cao 
nhất sẽ có nồng độ NH3 dao động 0,2 mg/L. 
Theo Boyd (1998) tổng đạm amon thích hợp 
cho ao nuôi thủy sản là 0,2-2 mg/L và khí NH3 
là 0,1 mg/L. Mặt khác NH3 là khí dễ bị thoát ra 
ngoài môi trường dưới tác động của quạt nước 
và sục khí mạnh (Chanratchakool, 2003).
Hàm lượng Nitrite
Hàm lượng nitrite trong nước của các ao 
Hình 5. Diễn biến nitrite trong các ao nuôi thử nghiệm.
nuôi tôm thử nghiệm ổn định trong sáu tuần 
đầu nuôi, đạt giá trị thấp hơn 0,01 mg/L. Tuy 
nhiên, từ tuần thứ bảy trở đi, giá trị NO2
- có 
xu hướng tăng nhẹ và đạt giá trị nitrit cao nhất 
(5,1 mg/L) vào tuần thứ 11 đối với ao TN2, và 
9,8 mg/L đối với ao ĐC1. Trong khi đó ao TN1 
luôn được duy trì ở mức thấp dưới 0,07 mg/L 
đến tuần thứ 11 và tăng 3,3 mg/L vào tuần thứ 
12. Hàm lượng NO2
-
 ở tất cả các ao nuôi đều cao 
hơn mức thích hợp vào thời điểm cuối vụ nuôi, 
tuy nhiên tôm khá ổn định. Điều này cũng có 
thể được lý giải như sau: tôm được nuôi trong 
môi trường nước lợ có hàm lượng Ca2+ , Cl- và 
sục khí liên tục (oxy hoa tan trong các ao nuôi 
thử nghiệm dao động trên 5,0 mg/L) do đó làm 
giảm tính độc của NO2
- (Boyd, 1998).
IV. KẾT LUẬN
Chế phẩm vi sinh bao gồm chủng Bacilllus 
licheniformis (B1), chủng B. subtilis (S5) 
và chủng Streptomyces X285 sử dụng kết 
hợp với liều lượng 1g/m3, xử lý định kỳ 2 
lần/tuần có khả năng nâng cao tỷ lệ sống 
của tôm với tỷ lệ bảo hộ RPS trên 80% sau 
khi gây nhiễm V. parahaemolyticus trong 
điều kiện phòng thí nghiệm. Ngoài ra, khi 
ứng dụng các chủng vi khuẩn có lợi này quy 
mô ao nuôi thử nghiệm 600-700 m2 cũng 
đem lại hiệu quả giám sát sự phát triển của 
V. parahaemolyticus gây AHPND. Bên cạnh 
đó, các yếu tố môi trường dao động trong 
khoảng giới hạn phát triển của tôm. 
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm ơn chương trình 
Công nghê sinh học - Bộ Nông Nghiêp và Phát 
Triển Nông Thôn; Trung Tâm Quan Trắc và 
Bệnh Thủy Sản khu vực Nam Bộ (Viện Nghiên 
Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 2) đã tạo điều kiện 
thật tốt để chúng tôi có thể thực hiện được các 
nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trần Viết Mỹ, 2009. Cẩm nang nuôi tôm chân trắng thâm canh (Penaeus vannamei). Sở Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Khuyến nông.
2. Nguyễn Văn Phúc và Phan Thị Phương Trang, 2014. Phân lập định danh và xác định các đặc tính có lợi của 
104 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
chủng Bacillus spp. từ ao nuôi tôm ở các tỉnh Bến Tre. Tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM, 64: 94-102.
3. Võ Hồng Phượng, Võ Thị Hậu, Nguyễn Thái Hồng Ngọc, Lê Hồng Phước, Nguyễn Hoàng Tuấn, Nguyễn 
Hồng Lộc và Lê Thị Bích Thủy, 2018. Khảo sát đặc tính đối kháng của Bacillus licheniformis (B1) đối với 
Vibrio parahaemolyticus gây bệnh teo gan tụy cấp tính trên tôm (AHPND) trong điều kiện thí nghiệm. Tạp chí 
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 54 (Số chuyên đề: Thủy Sản) (2): 91-100.
Tiếng Anh
4. Aftabuddin, S., Abul Kashem, M., Abdul Kader, M., Sikder, M. and Abdul Hakim, M., 2013. Use of 
Streptomyces fradiae and Bacillus megaterium as probiotics in the experimental culture of tiger shrimp Penaeus 
monodon (Crustacea, Penaeidae). Aquaculture, Aquarium, Conservation & Legislation, 6(3): 253-267.
5. Aly, S. M., Mohamed, M. F. and John, G., 2008. Effect of probiotics on the survival, growth and challenge 
infection in Tilapia nilotica (Oreochromis niloticus). Aquaculture Research, 39(6): 647-656.
6. Aubin, J., Gatesoupe, F.-J., Labbé, L. and Lebrun, L., 2005. Trial of probiotics to prevent the vertebral 
column compression syndrome in rainbow trout (Oncorhynchus mykiss Walbaum). Aquaculture Research, 
36(8): 758-767.
7. Barbosa, T. M., Serra, C. R., La Ragione, R. M., Woodward, M. J. and Henriques, A. O., 2005. Screening for 
bacillus isolates in the broiler gastrointestinal tract. Applied and environmental microbiology, 71(2): 968-978.
8. Bentley, S. D., Chater, K. F., Cerdeno-Tarraga, A. M. and Challis, G. L., 2002. Complete genome sequence 
of the model actinomycete Streptomyces coelicolor A3(2). Nature, 417(6885): 141-7.
9. Boyd, C. E., 1998. Water quaity in pond for aquaculture, Department of fi sheries and applied aquaculture, 
Auburn University.
10. Chanratchakool, P., 2003. Problem in Penaeus monodon culture in low salinity areas. Aquaculture Aisa, 8: 
54-55.
11. Chapman, C. M. C., Gibson, G. R. and Rowland, I., 2012. In vitro evaluation of single- and multi-strain 
probiotics: Inter-species inhibition between probiotic strains, and inhibition of pathogens. Anaerobe, 18(4): 
405-413.
12. Christopher, E. M., 2008. Evaluation of group water from the Lajas Valley for low salinity culture of the 
Pacifi c white shrimp Litopenaeus vannamei. University of Puerto Rico Mayaguez Campus.
13. Garcia, M., Medina, R., Isidro Campa-Córdova, Á. and Mazón-Suástegui, J. M., 2016. Probiotic effect of 
Streptomyces strains alone or in combination with Bacillus and Lactobacillus in juveniles of the white shrimp 
Litopenaeus vannamei. Aquaculture International, 25(2): 927-939.
14. Hai, N. V., Buller, N. and Fotedar, R., 2010. Effect of customized probiotics on the physiological and 
immunological responses of juvenile western king prawns (Penaeus latisulcatus Kishinouye, 1896) challenged 
with Vibrio harveyi. Journal of Applied Aquaculture, 22(4): 321-336.
15. Han, J. E., Tang, K. F. J., Pantoja, C. R., White, B. L. and Lightner, D. V., 2015. qPCR assay for detecting 
and quantifying a virulence plasmid in acute hepatopancreatic necrosis disease (AHPND) due to pathogenic 
Vibrio parahaemolyticus. Aquaculture, 442(12-15.
16. Jöborn, A., Olsson, J. C., Westerdahl, A., Conway, P. L. and Kjelleberg, S., 1997. Colonization in the fi sh 
intestinal tract and production of inhibitory substances in intestinal mucus and faecal extracts by Carnobacterium 
sp. strain K1. Journal of Fish Diseases, 20(5): 383-392.
17. Kesarcodi-Watson, A., Kaspar, H., Lategan, M. J. and Gibson, L., 2012. Performance of single and multi-
strain probiotics during hatchery production of Greenshell™ mussel larvae, Perna canaliculus. Aquaculture, 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 105
354: 56-63.
18. Moriarty, D. J. W., 1998. Control of luminous Vibrio species in penaeid aquaculture ponds, Aquaculture, 
164(1-4): 351–358.
19. Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early mortality syndrome in the shrimp. Aquaculture Asia 
Pacifi c, 8(1): 8-10.
20. Pinoargote, G., Flores, G., Cooper, K. and Ravishankar, S., 2018. Effects on survival and bacterial community 
composition of the aquaculture water and gastrointestinal tract of shrimp (Litopenaeus vannamei) exposed 
to probiotic treatments after an induced infection of acute hepatopancreatic necrosis disease. Aquaculture 
Research, 49: 3270-3288.
21. Sahu, M. K., Swarnakumar, N. S., Sivakumar, K., Thangaradjou, T. and Kannan, L., 2008. Probiotics in 
aquaculture: importance and future perspectives. Indian journal of microbiology, 48(3): 299-308.
22. Sakai, M., 1999. Current research status of fi sh immunostimulants. Aquaculture, 172(1): 63-92.
23. Salinas, I., Diaz-Rosales, P., Cuesta, A., Meseguer, J., Chabrillon, M., Morinigo, M. A. and Esteban, M. 
A., 2006. Effect of heat-inactivated fi sh and non-fi sh derived probiotics on the innate immune parameters of a 
teleost fi sh (Sparus aurata L.). Vet Immunol Immunopathol, 111(3-4): 279-86.
24. Tan, L. T., Chan, K. G., Lee, L. H. and Goh, B. H., 2016. Streptomyces bacteria as potential probiotics in 
aquaculture. Frontiers in Microbiology, 7: 79.
25. Timmerman, H. M., Koning, C. J., Mulder, L., Rombouts, F. M. and Beynen, A. C., 2004. Monostrain, 
multistrain and multispecies probiotics - A comparison of functionality and effi cacy. International Jouranal of 
Food Microbiology, 96(3): 219-33.
26. Toan, T., 2017. Standard methods for the examination of water and wastewater, 23nd edition. 
27. Tran, L., Nunan, L., Redman, R. M., Mohney, L. L., Pantoja, C. R., Fitzsimmons, K. and Lightner, D. 
V., 2013. Determination of the infectious nature of the agent of acute hepatopancreatic necrosis syndrome 
affecting penaeid shrimp. Diseases of Aquatic Organisms, 105(1): 45-55.
28. Verschuere, L., Rombaut, G., Sorgeloos, P. and Verstraete, W., 2000. Probiotic bacteria as biological control 
agents in aquaculture. Microbiology and Molecular Biology Reviews, 64(4): 655-71.
29. Whetstone, J. M., Treece, G., D.,, Browdy, C. L. and Stokes, A. D., 2002. Opportunities and contrains in 
marine shrimp farming. Southern Regional Aquaculture Center (SRAC) publication No. 2600 USDA.
30. You, J., Xue, X., Cao, L., Lu, X., Wang, J., Zhang, L. and Zhou, S., 2007. Inhibition of vibrio biofi lm 
formation by a marine actinomycete strain A66. Applied Microbiology and Biotechnology, 76(5): 1137-44.

File đính kèm:

  • pdftiem_nang_che_pham_vi_sinh_bacillus_va_streptomyces_kiem_soa.pdf