Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: “Tháng 3 năm Nguyên Hòa

thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây Dương tên I Ne Khu đến truyền

đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ,

huyện Giao Thủy”.(1) Đây là một trong những cứ liệu sớm nhất cho thấy sự hiện

diện của tín đồ Cơ Đốc trên đất nước ta. Song, thời kỳ này chưa thể xuất hiện âm

nhạc nhà thờ cùng với những nhà truyền giáo hoạt động trên địa bàn tự do. Chưa

kể, từ năm 1630, việc truyền bá Phúc âm bị coi là vi phạm pháp luật. Theo nghiên

cứu của các tác giả Tô Vũ, Thụy Loan, Chí Vũ: “khi những người truyền đạo vào

Việt Nam cho tới lúc thực dân Pháp gây hấn ở bán đảo Sơn Trà (Đã Nẵng), tôn

giáo cũng như âm nhạc vẫn chưa thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước ta”.(2) Còn

theo tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn, từ cuối thế kỷ XIX, “âm nhạc

phương Tây chỉ phổ biến trong các nhà thờ”.(3) Trương Đình Cử trong bài “Bàn về

sự phát triển của nền Tân nhạc Việt Nam” cũng viết: “Tân nhạc Việt Nam thực sự

ra đời vào khoảng 1928 - 1929 Trước đó, các giáo sĩ cũng đã phổ biến Tân nhạc

qua các nhà thờ”.(4) Như vậy, âm nhạc Công giáo chỉ thực sự du nhập vào nước ta

sau khi có sự hậu thuẫn của một thiết chế tôn giáo quan trọng đi kèm, đó chính là

nhà thờ.(5)

pdf 9 trang Bích Ngọc 05/01/2024 2180
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ

Tiếp biến văn hóa công giáo nhìn từ góc độ âm nhạc nhà thờ
65Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
TIẾP BIẾN VĂN HÓA CÔNG GIÁO
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ ÂM NHẠC NHÀ THỜ
 Lê Hải Đăng*
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: “Tháng 3 năm Nguyên Hòa 
thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây Dương tên I Ne Khu đến truyền 
đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, 
huyện Giao Thủy”.(1) Đây là một trong những cứ liệu sớm nhất cho thấy sự hiện 
diện của tín đồ Cơ Đốc trên đất nước ta. Song, thời kỳ này chưa thể xuất hiện âm 
nhạc nhà thờ cùng với những nhà truyền giáo hoạt động trên địa bàn tự do. Chưa 
kể, từ năm 1630, việc truyền bá Phúc âm bị coi là vi phạm pháp luật. Theo nghiên 
cứu của các tác giả Tô Vũ, Thụy Loan, Chí Vũ: “khi những người truyền đạo vào 
Việt Nam cho tới lúc thực dân Pháp gây hấn ở bán đảo Sơn Trà (Đã Nẵng), tôn 
giáo cũng như âm nhạc vẫn chưa thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước ta”.(2) Còn 
theo tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn, từ cuối thế kỷ XIX, “âm nhạc 
phương Tây chỉ phổ biến trong các nhà thờ”.(3) Trương Đình Cử trong bài “Bàn về 
sự phát triển của nền Tân nhạc Việt Nam” cũng viết: “Tân nhạc Việt Nam thực sự 
ra đời vào khoảng 1928 - 1929 Trước đó, các giáo sĩ cũng đã phổ biến Tân nhạc 
qua các nhà thờ”.(4) Như vậy, âm nhạc Công giáo chỉ thực sự du nhập vào nước ta 
sau khi có sự hậu thuẫn của một thiết chế tôn giáo quan trọng đi kèm, đó chính là 
nhà thờ.(5) 
1. Nhà thờ - Vùng văn hóa âm nhạc Công giáo 
Nhà thờ là một trong những thiết chế văn hóa đóng vai trò trung tâm trong 
đời sống văn hóa Công giáo. Đây không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động nghi lễ 
(Phụng vụ Thánh lễ), sinh hoạt tôn giáo, mà còn cung cấp cơ sở vật chất cho nhiều 
hoạt động liên quan tới âm nhạc. Trong nhà thờ, “Âm nhạc gắn liền với toàn bộ 
Phụng vụ. Nó hợp nhất những người hội họp nhau để thờ phượng Chúa, nâng đỡ 
tiếng hát của cộng đoàn, làm nổi bật những phần quan trọng của hành động Phụng 
vụ và giúp giữ cung giọng cho mỗi phần cử hành.”(6) Âm nhạc không chỉ xuất hiện 
trong Phụng vụ, mà còn tồn tại ngoài Phụng vụ, hiểu là vẫn diễn ra trong không 
gian nhà thờ, nhưng ngoài lúc cử hành nghi thức, như các giờ cầu nguyện hay biểu 
diễn nghệ thuật.
Trước khi truyền bá vào Việt Nam, sớm nhất từ thế kỷ XVI và sự xuất hiện 
thiết chế tôn giáo nhà thờ có quy mô vào thế kỷ XVII,(7) âm nhạc nhà thờ, hiểu là 
* Thành phố Hồ Chí Minh.
66 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
Thánh nhạc đã đạt tới đỉnh cao ở khu vực châu Âu, nơi tập trung đông đảo tín đồ 
Công giáo. Nhờ sự hậu thuẫn của giới quý tộc phương Tây cùng với sự tham gia 
tích cực của nhiều nhà hoạt động âm nhạc lỗi lạc, âm nhạc nhà thờ tập trung, kết 
tinh tinh hoa văn hóa châu Âu, hội tụ nhiều tác phẩm nghệ thuật ưu tú, xuất sắc. 
Ngay từ thời kỳ Phục hưng (XIV - XVI), âm nhạc nhà thờ đã tạo ra thế phân lập, 
đối trọng với âm nhạc dân gian. Từ đó, âm nhạc nhà thờ không chỉ giới hạn trong 
phạm vi một vài thể loại tiêu biểu mà còn bao gồm cả một vùng văn hóa (âm nhạc).
Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Nhâm Tuất năm 1862 nhường ba 
tỉnh miền Đông Nam Bộ cho thực dân Pháp, Hiệp ước Giáp Tuất năm 1874 công 
nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ và Hiệp ước Giáp Thân năm 1884 chấp nhận 
sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam, hàng loạt cơ sở tín ngưỡng Công giáo 
có quy mô lớn lần lượt ra đời, như: Nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn năm 1880, Nhà thờ 
Bùi Chu, Nam Định năm 1884, Nhà thờ Lớn Hà Nội 1887, Nhà thờ Phát Diệm, 
Ninh Bình năm 1898, Nhà thờ Sapa năm 1895 trên cơ sở phân chia thành các 
giáo phận, miền Bắc có Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Hóa, Phát Diệm, Vinh, Bùi Chu, 
Lạng Sơn, miền Nam có Sài Gòn, Quy Nhơn, Huế. Cấu trúc này kế thừa từ năm 
1883, khi Tòa Thánh tách các giáo phận ra thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ở 
Đàng Ngoài có Tây Đàng Ngoài là Hà Nội, Đông Đàng Ngoài là Hải Phòng, Nam 
Đàng Ngoài có Vinh, Trung Đàng Ngoài là Bùi Chu và Bắc Đàng Ngoài là Bắc 
Ninh. Đàng Trong có Tây Đàng Trong là Sài Gòn, Đông Đàng Trong là Quy Nhơn, 
Bắc Đàng Trong có Huế và Nam Đàng Trong là Nam Vang (Cần Thơ). Điều này 
góp phần củng cố thêm điều kiện cho nhiều tỉnh thành cách xa trung tâm, thủ đô có 
đời sống âm nhạc hết sức phát triển. Chúng như những “vệ tinh” quay xung quanh 
trung tâm, chẳng hạn miền Bắc có Hải Phòng, Nam Định bên cạnh Hà Nội; miền 
Trung có Đà Nẵng, Quy Nhơn cạnh Huế và miền Nam có Mỹ Tho, Cần Thơ cạnh 
Sài Gòn(8)
Năm 1927, trường nhạc đầu tiên xuất hiện trên đất nước ta là Nhạc viện Viễn 
Đông do Toàn quyền Đông Dương đứng ra thành lập. Sau 3 năm hoạt động, ngôi 
trường này đã đóng cửa. Mãi tới năm 1956, cơ sở đào tạo âm nhạc quan phương 
đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ở hai miền đất nước. 
Ở Hà Nội có Trường Âm nhạc Việt Nam (sau đổi tên thành Nhạc viện Hà Nội và 
hiện là Trường Quốc gia Âm nhạc Việt Nam); ở Sài Gòn có Trường Quốc gia Âm 
nhạc (sau đổi tên thành Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ, nay là Nhạc viện 
Thành phố Hồ Chí Minh). Như vậy, trong khoảng thời gian từ 1927 trở về trước 
và từ 1930 trở về sau, đến năm 1956, khi hai miền Nam - Bắc thiết lập cơ sở đào 
tạo âm nhạc chính quy, nơi đóng vai trò truyền bá, giáo dục âm nhạc theo mô hình 
phương Tây chủ yếu dựa vào nhà thờ, cơ sở giáo dục tư gia, câu lạc bộ, Hội Ái 
hữu, bên cạnh những ảnh hưởng từ quân đội, điện ảnh, đĩa hát và hoạt động giao 
lưu văn hóa. Nhà thờ không chỉ đóng vai trò bồi dưỡng kiến thức, trình độ âm nhạc 
67Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
cho bộ phận tín đồ mà còn bao trùm lên tầng lớp đại chúng. Vì, truyền cảm hứng 
cho nghệ thuật và đem nghệ thuật đến phụng vụ Hội Thánh chính là sứ mệnh của 
nhà thờ. Theo Hiến chế về phụng vụ thành số 127: Công đồng Vatican II quy cho 
nghệ thuật tầm quan trọng đặc biệt: “Trước khi dự kiến một cuộc hiển linh mới cho 
nghệ thuật thánh chúng ta phải dồn tâm trí vào việc đào tạo nghệ sĩ. Như thường 
lệ, chúng ta phải khởi sự bằng việc giáo dục con người”.(9)
Thông qua nhà thờ, chúng ta đã tiếp xúc với nhiều dạng thức văn hóa, hình 
thái nghệ thuật và loại hình âm nhạc mới. Một khái niệm có thể bao trùm lên trên 
phạm vi rộng lớn của âm nhạc nhà thờ đó chính là Thánh nhạc hay “Nhạc trong 
Phụng vụ”. Thánh nhạc gồm hai bộ phận nhạc đàn và nhạc hát (thánh ca). Về nhạc 
đàn, tập trung chủ yếu vào những sáng tác viết cho đàn Pipe organ - Church organ, 
sau này thay thế bằng đàn Piano, Electric keyboard. Bên cạnh đó, nhiều nhạc cụ 
phổ dụng khác như Violon, Cello, Guitar, Flute, trống cũng từng bước du nhập 
thông qua cách thức “quá cảnh” nhà thờ vốn đóng vai trò đệm cho ca đoàn, cộng 
đoàn nhằm mục đích phụng vụ Hội Thánh. Bộ phận nhạc hát - Thánh nhạc - đóng 
vai trò chủ đạo trong thánh lễ, các giờ kinh và bí tích, gồm nhiều thể loại, như: 
đối ca, đáp ca, bình ca, thánh thi, ngâm vịnh, xướng đáp, tung hô Ngoài ra, còn 
có những ca khúc ngợi ca Đức Mẹ, Đức Chúa len lỏi chốn thế tục gọi chung là ca 
khúc tôn giáo, nhạc đạo. 
Đối với thánh ca, thời kỳ đầu phổ biến với thể loại bình ca, hát bằng tiếng 
Latin. Sau cuộc canh tân do Công đồng Vatican II (1962) thực hiện, bằng Hiến 
chế Sacrosanctum: “Thánh ca bình dân phải được ủng hộ một cách khôn ngoan, 
để trong các việc đạo đức cũng như trong chính các hoạt động phụng vụ, tiếng tín 
hữu có thể vang lên”.(10) Đây là một trong những căn cứ mang tính nguyên tắc cho 
phép bản địa hóa Thánh nhạc. Nhờ vậy, cùng với sự tham gia của giới sáng tác, các 
mục tử, tín hữu trong cộng đoàn Công giáo, thánh ca bản địa dần dần đóng vai trò 
chủ đạo, bổ sung vào kho tàng Thánh nhạc khối lượng tác phẩm đồ sộ, định hướng 
cho hoạt động âm nhạc phụng vụ tại nhà thờ. Nếu chia Thánh nhạc theo thể tài, có 
Kinh nguyện, Chúa ba ngôi, Chúa Kitô vua, Chúa Thánh thần; chia theo chức 
năng, có Hôn phối, Cầu hồn, Thánh ca suy niệm, Truyền giáo, Thánh ca tạ ơn, Hát 
về gia đình, thầy cô, cha mẹ, Bảo vệ sự sống, Nhạc sinh hoạt đoàn thể, thiếu nhi; 
sử dụng theo mùa, như Mùa xuân, Mùa vọng, Mùa giáng sinh, Mùa chay, Tuần 
thánh, Mùa phục sinh, Thánh ca tin mừng; chia theo hình thức, thể loại âm nhạc, 
có hợp xướng, đáp ca, thánh vịnh, thánh thể, bình ca. Ngoài ra còn có Thánh ca 
vào đời, Sống đạo và hàng loạt sáng tác lấy cảm hứng, ý tưởng, đề tài tôn giáo 
phổ biến chốn thế tục. 
Và như chúng ta biết, hình ảnh nhà thờ từ lâu đã đi vào âm nhạc một cách 
phổ biến và không ngừng được bổ sung qua thời gian, từ “Tiếng chuông nhà thờ” 
của Nguyễn Xuân Khoát, “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ, “Nguyện 
68 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
xin Mẹ rất từ bi” của Hùng Lân đến “Con quỳ lạy Chúa” của Phạm Duy, “Cát bụi”, 
“Phúc âm”, “Lời buồn thánh”... của Trịnh Công Sơn, “Bài thánh ca buồn”, “Hai 
mùa Noel” của Nguyễn Vũ. Tất cả đều đã trở thành bộ phận không thể tách rời 
trong kho tàng văn hóa âm nhạc đất nước. 
2. Đại phong cầm - Cây đàn biểu trưng của âm nhạc nhà thờ
Đàn Pipe organ hay còn gọi là Quản cầm (đàn ống), Đại phong cầm (đàn gió 
lớn), Church organ (organ nhà thờ) ngay từ thuở khai sinh đã gắn liền với không 
gian linh thiêng của nhà thờ. Nó là một bộ phận không thể tách rời tổng thể kiến 
trúc công trình tôn giáo này. Vì vậy, trong kết cấu nhà thờ, bên cạnh những dấu chỉ, 
biểu tượng sự hiện diện của các đối tượng thờ tự, luôn dành một vị trí cho nhạc sĩ, 
ca đoàn, ca viên phụng vụ và cây đàn Organ. 
Đàn Organ nhà thờ có cấu trúc đồ sộ, gồm hàng nghìn ống hơi khác nhau, 
hệ thống phím có từ 1 đến 7 tầng, như cây đàn Wanamaker ở Philadelphia, bang 
Pennsylvania có 6 tầng phím. Ở trung tâm Broadwalk Hall, thành phố Atlantic, 
bang New Jersey, Mỹ hiện sở hữu cây Pipe organ lớn nhất thế giới với hệ thống 
phím 7 tầng, gồm 33.000 ống hơi. Xét về hình tướng, đàn Pipe organ thuộc hệ 
thống đàn phím, giống như Harpsichord, Piano, Harmonium, Electric keyboard 
nhưng, đứng ở nguồn phát thanh, nó chính là nhạc cụ hơi, giống như những nhạc 
cụ ống thổi, có âm thanh ngân nga, vang vọng. Với cấu trúc đồ sộ, Organ nhà thờ 
tựa như một nhà máy sản xuất âm thanh kỳ vĩ, đồ sộ vào bậc nhất. Ở Việt Nam 
được biết đến cây đàn Pipe organ ở Nhà thờ Đức Bà, Thành phố Hồ Chí Minh với 
tuổi đời hơn 135 năm. Ngày nay, đại đa số nhà thờ sử dụng đàn Electric keyboard, 
Piano thay thế Pipe organ. Hiếm có như cây Rodgers Digital Church Organ T967 
gồm 3 tầng phím nổi tiếng thế giới được Nhà thờ Đức Bà làm phép nhân dịp kỷ 
niệm 125 năm vào ngày 18 tháng 6 năm 2005. Trước khi Pipe organ rời khỏi vũ 
đài lịch sử, âm thanh, âm sắc của nó đã kịp lưu giữ trong bộ âm sắc của nhạc cụ 
thay thế, nhất là Electric keyboard. Electric keyboard mà ngôn ngữ đại chúng quen 
gọi là Organ, thực chất là đàn phím điện tử phát âm nhờ xung điện mô phỏng một 
cách khá chính xác âm thanh đàn Pipe organ. Trong bộ tiếng của nó, ngoài những 
nhạc cụ thuộc dàn nhạc giao hưởng, nhạc nhẹ ra, còn có âm thanh của đàn Church 
organ. Bởi vậy, trong những buổi lễ trang trọng diễn ra tại nhà thờ, ta vẫn nghe thấy 
âm thanh ngân nga của Pipe organ vang vọng, tượng trưng cho thứ nhạc trời vang 
lên trên thánh đường.
Đối với bất kỳ một nhạc cụ nào, bên cạnh công năng âm nhạc, chúng còn 
mang giá trị biểu trưng, đặc biệt ở những thời kỳ quan trọng, sự đóng góp của 
những nhạc sĩ kiệt xuất góp phần củng cố thêm phẩm chất nội tại của nhạc cụ. 
Ngược lại, nhà thờ cũng phủ một lớp văn hóa biểu trưng lên trên cây đàn khiến 
cho nó có một vị trí trang trọng, không gì xoay chuyển trong không gian thiêng 
69Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
của thánh đường. Đại phong cầm sử dụng trong nghi lễ Phụng vụ với cả hai hình 
thức độc tấu và đệm cho tiếng hát. “Ngày xưa, Quản cầm thay cho phần giáo dân 
tích cực tham gia và bao trùm lên đám cử tọa ở đó như những khán giả câm nín và 
bất động.”(11) Sự đào thải khắc nghiệt của thời gian đối với một nhạc cụ xuất phát 
từ nhiều nguyên nhân, song, nếu thiếu âm sắc đặc trưng và phẩm chất ưu tú, cùng 
đóng góp bằng tác phẩm của những cá nhân xuất chúng sớm muộn sẽ rơi vào lãng 
quên. Đàn Pipe organ mặc dù gặp rất nhiều trở ngại trên con đường thế tục, vì quy 
mô đồ sộ, đòi hỏi huy động nhiều nguồn lực, tốn kém không gian sắp đặt nhưng 
sự kỳ vĩ về tính chất âm thanh và những đóng góp vô song của nhiều thế hệ nhạc 
sĩ xuất sắc đã làm nên giá trị bất tử cho cây đàn này. Bằng tác phẩm âm nhạc, sau 
nhiều thế kỷ chịu sự thử thách của thời gian cùng sự thay đổi văn hóa, âm thanh 
Pipe organ vẫn được bảo toàn, giữ gìn như một thứ chuẩn mực về thẩm mỹ trong 
âm nhạc nhà thờ. 
Ngoài ra, sự hiện diện thường xuyên của cây Đại phong cầm tại thánh đường 
nhà thờ góp phần tạo nên giá trị văn hóa biểu trưng của âm nhạc nhà thờ. “Trong 
Giáo hội Latin đàn ống. coi như nhạc khí cổ truyền mà âm thanh có thể tăng 
thêm vẻ huy hoàng kỳ diệu cho các lễ nghi và mạnh mẽ nâng các tâm hồn lên 
cùng Thiên Chúa và các sự trên trời.” Đây là nhận định chung mang tính chất định 
hướng chỉ đạo từ Công đồng Vatican II. Điều đó nói lên tầm quan trọng không gì 
thay thế của Church organ. Cây đàn này không hề phổ biến ở chốn thế tục và vượt 
qua thời gian bằng giá trị văn hóa, hiệu quả âm thanh đặc biệt. Ngày nay, cùng với 
quá trình tiến hóa của nhiều nhạc cụ, Đại phong cầm có xu hướng nhường quyền 
phát ngôn cho một hậu duệ có khả năng làm đại diện cho mình đó chính là đàn 
Electric keyboard. Bởi vậy, trong không gian nhà thờ, dù sử dụng Organ điện tử 
giản tiện, âm sắc Church organ vẫn là sự lựa chọn hàng đầu cho những bài bản 
thánh ca mang phong cách truyền thống. Bên cạnh đó, xu hướng thế tục hóa cũng 
góp phần gia nhập những nhạc cụ thế tục trong không gian nhà thờ, như đàn Piano, 
Violon, Cello, Guitar, Flute từ đây, di sản âm nhạc nhà thờ tiếp tục được bản địa 
hóa và đóng góp đáng kể vào kho tàng văn hóa âm nhạc. 
3. Ma sœur - Người truyền bá âm nhạc
Như trên đã đề cập, âm nhạc phương Tây du nhập Việt Nam thông qua vai 
trò nhà thờ làm trung gian, bên cạnh cơ sở đào tạo âm nhạc tư gia, nhạc viện quan 
phương, băng đĩa, điện ảnh, giao lưu văn hóa. Ở những địa phương có điều kiện 
vật chất thiếu thốn, cơ sở đào tạo âm nhạc tư nhân chưa phát triển, tổ chức âm 
nhạc quan phương chưa hình thành, nhà thờ vẫn đóng vai trò trung tâm, chi phối 
đời sống âm nhạc. Trong nhiều trường hợp, Ma sœur chính là người đóng vai trò 
truyền bá âm nhạc, thông qua đó tạo thành chiếc cầu nối với chốn thế tục. 
Như chúng ta biết, giáo dục âm nhạc hết sức được đề cao và thực thi trong các 
chủng viện, học viện, tổ chức Công giáo. Trong công tác huấn luyện âm nhạc cho 
70 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
giáo sĩ, Công đồng Vatican từng nhắc nhở: “Phải hết sức chú trọng đến việc giảng 
dạy và thực hành âm nhạc trong các chủng viện, các tập viện nam nữ tu sĩ, các học 
viện và cả trong các tổ chức cũng như học đường Công giáo khác.”(12) Trong Huấn 
thị về Thánh nhạc và Phụng vụ của Thánh bộ Nghi lễ ngày 03 tháng 9 năm 1958, 
chương III-6: Học hỏi Thánh nhạc và Phụng vụ có quy định: Từ gia đình Công 
giáo cho đến nhà trường, “phải dạy cho trẻ em biết tham dự các việc đạo đức và các 
lễ nghi Phụng vụ, nhất là Thánh lễ tập cho chúng biết và thích những bài hát đạo 
ở gia đình cũng như nhà thờ Các viện công hoặc tư giúp phát triển Thánh nhạc 
Trong một Địa phận phải có một Ủy ban riêng về Thánh nhạc.”(13) Mặc dù yêu cầu 
này sau khi chuyển hóa bối cảnh đã bớt đi sự khắt khe, thậm chí đi tới lơ là việc 
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, cũng như năng lực thẩm mỹ cho những người thực 
thi, thừa tác nhiệm vụ trong các chủng viện. Song, ở các trường học Công giáo 
vẫn được duy trì và đề cao việc giáo dục âm nhạc, như ở các cơ sở Hội dòng Mến 
thánh giá trong cả nước hầu như đều có lớp dạy nhạc, đặc biệt như trường Mái ấm 
Nhật Hồng còn chuyên dạy dỗ học sinh khiếm thị. Trong phạm vi âm nhạc nhà 
thờ, Ma sœur chính là thành phần thúc đẩy việc truyền bá âm nhạc trên cõi thế tục. 
Trong khi cha xứ chuyên tâm công việc nội vụ của nhà thờ, Ma sœur nhập thế làm 
rất nhiều công việc ngoài đời. Họ trở thành hình mẫu của những con người nhập 
thế, giỏi giang, đức hạnh, trong số nhiều hoạt động thường nhật, có công việc dạy 
nhạc. Bởi vậy, ở nhiều địa phương chưa có đầy đủ phương tiện (nhạc cụ), cơ sở vật 
chất (lớp học) để thực thi việc truyền bá âm nhạc, nhà thờ, tu viện, trường dòng đã 
đáp ứng được yêu cầu này và gắn bó thân thiết với Ma sœur. 
4. Kết luận
Nhà thờ chính là một thiết chế văn hóa quan trọng cung cấp cơ sở vật chất 
hữu hình cho những giá trị vô hình, trong đó có âm nhạc tồn tại. Từ một cơ sở tín 
ngưỡng tôn giáo trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa, trong lĩnh vực âm nhạc, 
nhà thờ trở thành thuật ngữ dùng để chỉ cả một vùng văn hóa âm nhạc - âm nhạc 
nhà thờ, tương tự như âm nhạc dân gian, âm nhạc cung đình chứ không thuần 
túy chỉ một vài thể loại. Bằng con đường đi vào nhà thờ, âm nhạc phương Tây đã 
du nhập nước ta, rồi hình thành nên nhiều hướng đi khác trên đường hướng thích 
nghi, hội nhập văn hóa. Âm nhạc nhà thờ vốn chiếm vị trí trọng yếu trong văn hóa 
châu Âu. Sau khi đạt tới đỉnh cao, nó mới lan tỏa sang các quốc gia khác. Sự ảnh 
hưởng của âm nhạc nhà thờ không chỉ giới hạn trong phạm vi nhà thờ mà còn trở 
thành nhân tố tiềm ẩn bên trong di sản âm nhạc đồ sộ của âm nhạc phương Tây. 
Ngay cả nhiều tác phẩm kinh điển được coi là mẫu mực, được đưa vào giảng dạy 
trong các nhạc viện cũng có “một bộ phận không nhỏ” thuộc âm nhạc nhà thờ mà 
bằng nhiều con đường lắt léo gián tiếp đi vào đời sống âm nhạc. Bởi vậy, âm nhạc 
nhà thờ từ lâu đã thoát khỏi không gian nghi lễ của nhà thờ, phổ biến ngoài dân 
gian, đồng thời, với sự phát triển tương ứng từ phía cộng đồng phi Công giáo lại 
71Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
tiếp tục sáng tạo nên những loại hình âm nhạc thế tục lấy đề tài tôn giáo. Nếu xét ở 
góc độ ngôn ngữ âm nhạc, sự ảnh hưởng của âm nhạc nhà thờ sâu, rộng hơn phạm 
vi một cộng đồng luân lý. Nó len lỏi vào thị hiếu thẩm mỹ, cộng hưởng với bối 
cảnh văn hóa trở thành một thành tố quan trọng trong cơ tầng văn hóa âm nhạc. 
Mặc dù nhạc viện không phải cơ sở đào tạo âm nhạc nhà thờ, nhưng vì phỏng 
theo mô hình đào tạo âm nhạc phương Tây thông qua việc bảo tồn, duy trì di sản 
âm nhạc kinh điển mà âm nhạc nhà thờ là một bộ phận không thể thiếu. Các bộ 
môn Hòa thanh, Phức điệu nghiêm khắc đều có sự gắn kết tự nhiên với âm nhạc 
nhà thờ. Hai vị đại diện tiêu biểu của trào lưu âm nhạc Baroque là Bach, Handel 
đều dành sự nghiệp cho việc tôn vinh những giá trị văn hóa Công giáo. Riêng đối 
với Bach, ông dành trọn cả đời cho âm nhạc nhà thờ, đệm đàn ở các nhà thờ St 
Boniface, Arnstadt, nhà thờ St Blasius, Muhlhausen, nhà thờ St Thomas, Leipzig, 
Đức, từng đảm nhận chức giám đốc âm nhạc ba nhà thờ St Nikolai, St Pauline, nhà 
thờ Đại học Leipzig suốt 27 năm và sáng tác nên những tuyệt phẩm bất hủ, như 
Toccata, Cantata, Passion, Oratorio để phụng sự Thiên Chúa. 
Cơ Đốc giáo vốn xuất phát từ châu Á và truyền vào nước ta qua đường châu 
Âu, bởi vậy, những nhà truyền giáo châu Âu đã mang theo văn hóa của họ, cũng 
giống như đạo Phật, xuất phát từ Ấn Độ đến nước ta qua Trung Quốc. Các kênh 
thừa tiếp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cách thức tiếp biến văn hóa. Vì thế, theo 
dấu các nhà truyền giáo châu Âu, âm nhạc nhà thờ theo phong cách châu Âu đã 
được cấy lên trên mảnh đất văn hóa nước ta. Đến lượt văn hóa Việt Nam lại tiếp tục 
tác động theo hướng bản địa hóa. Bởi vậy, âm nhạc nhà thờ châu Âu trải dài suốt 
thời kỳ Trung cổ phổ biến hình thức âm nhạc nhiều bè, hợp xướng, phong cách 
phức điệu từ nghiêm khắc đến tự do, thịnh hành với các thể loại Oratorio, Cantata, 
Motet, Mass, Passion sau khi vào Việt Nam, người dân quen với các làn điệu 
dân ca truyền thống, hát lý, giao duyên, hò, vè... với loại hình âm nhạc một bè, 
hát với lời ca, nên bộ phận âm nhạc nhà thờ tồn tại trong khu vực được quy hoạch 
của cộng đồng luân lý cũng từng bước chuyển hướng sang âm nhạc chủ điệu, một 
bè, phù hợp với thẩm mỹ văn hóa truyền thống. Có lẽ, bộ phận vẫn duy trì được 
công năng nhất định, đó là nhạc đàn. Trước đó, nhạc đàn và nhạc hát của chúng ta 
chưa thực sự gặp gỡ nhau, ngoại trừ các loại hình nghệ thuật tổng hợp, như Tuồng, 
Chèo, Cải lương, Bả trạo, Hát bóng rỗi hay thính phòng như Ca trù, Ca Huế, Tài 
tử thông qua việc tiếp xúc âm nhạc phương Tây với nhiều hình thức phong phú, 
đa dạng, loại hình ca hát có nhạc đệm đã trở nên phổ biến. 
Âm nhạc Công giáo góp phần bổ sung thêm cho nền âm nhạc đất nước một 
hình thái mới, cùng với dòng âm nhạc truyền thống, dân gian. Có thể nói, quá trình 
du nhập đạo Công giáo đã mở đầu cho một tiến trình kéo dài dai dẳng cùng với xu 
hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa vào thời kỳ Pháp thuộc. Trong thời kỳ toàn cầu 
hóa và hội nhập nền kinh tế thế giới, Công giáo có những ảnh hưởng trên phạm vi 
72 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
toàn cầu. Bởi đây là tôn giáo duy nhất có “Nhà nước trung tâm” (Vatican). Công 
giáo đã để lại trên thực thể của mình nền văn hóa châu Âu, sau khi vào nước ta, nó 
tiếp tục chịu sự biến đổi từ quá trình bản địa hóa. Lịch sử từng ghi nhận, “từ năm 
1933, Đại chủng viện Xuân Bích mở cửa ở Hà Nội với mục đích chung tay góp 
sức đào tạo linh mục cho Giáo hội Việt Nam. Một trong những chủ trương độc đáo 
của Hội, đó là tinh thần hội nhập văn hóa Các Cha đi tiên phong trong việc sử 
dụng tiếng Việt Nam trong giảng dạy, với cách sống hòa đồng với mọi người.”(14) 
Trước đó, nhiều họa sĩ nổi tiếng của ngôi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương 
đã áp dụng ngôn ngữ hội họa truyền thống, như tranh sơn mài với hình ảnh, nhân vật 
mang đậm nét văn hóa Việt Nam vào tác phẩm Công giáo, điển hình như Lê Phổ, Lê 
Văn Đệ, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù, Tạ Tỵ Như thế 
để thấy rằng, Công giáo song hành cùng tiến trình phương Tây hóa và trải dài qua 
bao thế kỷ, nó vẫn như một xu hướng lũy tiến liên tục những khía cạnh khác nhau 
về một nền văn hóa vốn có nhiều điểm chưa tương thích với cấu trúc văn hóa dân 
tộc. Cho đến hiện tại, văn hóa Công giáo dường như vẫn nằm ngoài truyền thống. 
Bởi vậy, Tân nhạc có tuổi đời cả trăm năm mà vẫn mang tiếng là mới, thậm chí di 
sản âm nhạc Cổ điển phương Tây còn xuất hiện trước cả nhiều loại hình âm nhạc 
cổ truyền xét về tư cách lịch sử, như nhạc Tài tử, sân khấu Cải lương, nghệ thuật 
tổng hợp Hát bóng rỗi cùng hàng loạt loại hình nghệ thuật nảy sinh trên vùng đất 
phương Nam với lịch sử trên 300 năm. Xét về mặt cảm quan và tâm lý tập thể, âm 
nhạc phương Tây tiếp biến suốt hơn 100 năm qua đang bước tiếp qua những thay 
đổi, ảnh hưởng theo đường hướng di chuyển sâu hơn vào thành trì văn hóa dân tộc. 
 L H Đ
CHÚ THÍCH
(1) https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_gi%C3%A1o_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t Nam.
(2) 
tiep-bien-39453.
(3) 
(4)	 Trương	Đình	Cử,	“Bàn	về	sự	phát	triển	của	nền	Tân	nhạc	Việt	Nam”,	Tạp	chí	Bách khoa	số	
73	(ngày	15	tháng	1	năm	1960),	tr.	91.
(5)	 Xét	về	tư	cách	lịch	sử,	âm	nhạc	nhà	thờ	xuất	hiện	muộn	hơn	người	bà	con	có	họ	hàng	gần	
là	hội	họa.	Theo	những	bức	vẽ	mà	họa	sĩ	Lê	Hiếu	giới	thiệu	trong	cuốn	Mỹ thuật Công giáo 
Việt Nam - Theo dòng thời gian,	Nxb	Đồng	Nai	xuất	bản	năm	2014,	suốt	thời	gian	truyền	
giáo	từ	1840	-	1885	đã	có	nhiều	tác	phẩm	hội	họa	ra	đời	phản	ánh	con	đường	gian	truân	
của	Công	giáo	trong	quá	trình	di	chuyển	vào	nền	văn	hóa	nước	ta.
(6)	 Hội	đồng	Giám	mục	Việt	Nam,	Ủy	ban	Giám	mục	về	nghệ	thuật	thánh,	Dựng xây từ những 
viên đá sống động,	Nxb	Tôn	giáo,	Hà	Nội,	2006,	tr.	101.
(7)	 Nhà	thờ	đầu	tiên	trên	đất	nước	ta	là	Faifo	xây	dựng	ở	Đà	Nẵng,	năm	1675.	Ngôi	nhà	thờ	
tạm	này	được	dựng	bằng	gỗ	trong	ba	ngày,	tiếp	đó,	khu	vực	Đàng	Trong	có	thêm	khoảng	
300	nhà	thờ	với	70.000	tín	hữu.	Theo	mô	tả	của	Charles	Maybon	dẫn	qua	cuốn	Nước Đại 
73Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa từ 1847-1885	(Nxb	Tri	thức,	Hà	Nội,	năm	2014,	tr.	67):	
“người	Pháp	có	một	ngôi	nhà,	nhưng	chúng	tôi	không	thể	phân	biệt	đó	là	nhằm	việc	thương	
mại	hay	có	mục	đích	truyền	giáo”.	Những	nhà	thờ	này	hình	thành	từ	nhu	cầu	truyền	giáo	tại	
chỗ	mang	tính	chất	tạm	hơn	là	vươn	tới	chuẩn	mực,	quy	phạm,	quy	mô	về	kiến	trúc	nhằm	
phục	vụ	nhu	cầu	cử	hành	nghi	lễ	Phụng	vụ	cho	phép	có	sự	tham	gia	của	hoạt	động	âm	nhạc.	
(8)	 Tất	nhiên,	tính	chất	“cửa	ngõ’	của	những	thành	phố	trên	tự	thân	đã	đem	đến	cơ	hội	tiếp	xúc,	
giao	lưu	văn	hóa.	
(9) Dựng xây từ những viên đá sống động,	Sđd,	tr.	160.
(10) Bàn về Thánh nhạc,	Sđd,	tr.	119.
(11) Bàn về Thánh nhạc,	Sđd,	tr.	85.
(12) Bàn về Thánh nhạc,	Sđd,	tr.	118.
(13) 
(14) Mỹ thuật Công giáo Việt Nam - Theo dòng thời gian,	Nxb	Đồng	Nai,	tr.	31-32.
TÓM TẮT
Nhà	thờ	là	một	trong	những	thiết	chế	văn	hóa	đóng	vai	trò	trung	tâm	trong	đời	sống	văn	
hóa	Công	giáo.	Đây	không	chỉ	là	nơi	diễn	ra	các	hoạt	động	nghi	lễ,	sinh	hoạt	tôn	giáo,	mà	còn	
cung	cấp	cơ	sở	vật	chất	cho	nhiều	hoạt	động	liên	quan	đến	âm	nhạc.	Bài	viết	đề	cập	quá	trình	
tiếp	biến	văn	hóa	Công	giáo	nhìn	từ	góc	độ	âm	nhạc	nhà	thờ	trên	3	phương	diện:	Nhà	thờ	-	
Vùng	văn	hóa	âm	nhạc	Công	giáo;	Đại	phong	cầm	-	Cây	đàn	biểu	trưng	của	âm	nhạc	nhà	thờ;	
và	Ma	sœur	-	Người	truyền	bá	âm	nhạc.
Bằng	con	đường	đi	vào	nhà	thờ,	âm	nhạc	phương	Tây	đã	du	nhập	vào	Việt	Nam,	rồi	hình	
thành	nên	nhiều	hướng	đi	khác	trên	đường	hướng	thích	nghi,	hội	nhập	văn	hóa.	Xét	từ	góc	độ	
tiếp	biến	văn	hóa,	âm	nhạc	nhà	thờ	từ	lâu	đã	thoát	khỏi	không	gian	nghi	lễ	của	nhà	thờ,	phổ	biến	
ngoài	dân	gian,	đồng	thời,	với	sự	phát	triển	tương	ứng	từ	phía	cộng	đồng	phi	Công	giáo	lại	tiếp	
tục	sáng	tạo	nên	những	loại	hình	âm	nhạc	thế	tục	lấy	đề	tài	tôn	giáo.	Nếu	xét	ở	góc	độ	ngôn	ngữ	
âm	nhạc,	sự	ảnh	hưởng	của	âm	nhạc	nhà	thờ	sâu	rộng	hơn	phạm	vi	một	cồng	đồng	luân	lý.	Nó	
len	lỏi	vào	thị	hiếu	thẩm	mỹ,	cộng	hưởng	với	bối	cảnh	văn	hóa	trở	thành	một	thành	tố	quan	trọng	
trong	đời	sống	âm	nhạc	Việt	Nam.
ABSTRACT
CATHOLIC ACCULTURATION VIEWED FROM THE ASPECTS OF CHURCH MUSIC
Catholic	Church	is	one	of	the	cultural	institutions	playing	the	central	role	in	Catholic	cultural	
life.	This	 is	not	only	 the	place	where	ceremonial	and	 religious	activities	 take	place,	but	 it	also	
provides	 facilities	 for	 a	 variety	 of	 musical	 activities.	 The	 article	 addresses	 the	 acculturation	
process	viewed	from	the	aspects	of	Catholic	liturgical	music:	the	Church	–	the	cultural	domain	of	
church	music,	pipe	organ	–	the	symbol	of	church	music,	and	Catholic	nuns	–	the	music	spreaders.
Western	music,	 through	 the	church,	was	 introduced	 into	Vietnam,	and	 then	 it	produced	
various	 types	 of	 music	 on	 route	 to	 cultural	 adaptation	 and	 integration.	 Viewed	 from	 cultural	
acculturation,	church	music	has	 long	been	free	from	the	ritual	space	of	 the	church	to	become	
common,	and	at	 the	same	 time,	secular	music	with	 religious	 themes	continued	 to	be	created	
by	the	non-Catholic	community.	In	terms	of	musical	language,	the	influence	of	church	music	is	
more	extensive	than	that	of	a	moral	community.	It	penetrated	into	aesthetic	tastes	to	become	an	
important	element	of	musical	life	in	Vietnam.

File đính kèm:

  • pdftiep_bien_van_hoa_cong_giao_nhin_tu_goc_do_am_nhac_nha_tho.pdf