Vai trò của đầu tư xanh đối với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI

Tóm tắt

Nghiên cứu này phân tích vai trò của đầu tư xanh đối với kết quả hoạt động của các

doanh nghiệp FDI ở Việt Nam từ năm 2006 -2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động đầu

tư xanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp FDI.

Kết quả là bằng chứng thực nghiệm quan trọng để nhà quản lý có chiến lược tăng cường đầu tư

xanh nhằm mục tiêu tăng trưởng cho doanh nghiệp và phát triển bền vững.

Từ khóa: đầu tư xanh, kết quả hoạt động, doanh nghiệp FDI

pdf 10 trang Bích Ngọc 08/01/2024 940
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của đầu tư xanh đối với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của đầu tư xanh đối với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI

Vai trò của đầu tư xanh đối với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI
Mã số: 295 
Ngày nhận: 5/8/2016 
Ngày gửi phản biện lần 1: 24/8/2016 
Ngày gửi phản biện lần 2: 
Ngày hoàn thành biên tập: 26/9/2016 
Ngày duyệt đăng: 28/9/2016 
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ XANH ĐỐI VỚI KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA 
CÁC DOANH NGHIỆP FDI 
Chu Thị Mai Phương1 
Hồ Thị Hoài Thương2 
Tóm tắt 
Nghiên cứu này phân tích vai trò của đầu tư xanh đối với kết quả hoạt động của các 
doanh nghiệp FDI ở Việt Nam từ năm 2006 -2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động đầu 
tư xanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp FDI. 
Kết quả là bằng chứng thực nghiệm quan trọng để nhà quản lý có chiến lược tăng cường đầu tư 
xanh nhằm mục tiêu tăng trưởng cho doanh nghiệp và phát triển bền vững. 
Từ khóa: đầu tư xanh, kết quả hoạt động, doanh nghiệp FDI 
Abstrac 
This study analyzes the role of green investments to the performance of FDI enterprises 
in Vietnam from 2006 to 2009. The results showed that, green investment activities of enterprises 
have a positive impact on performance of FDI enterprises. This result provides the empirical 
evidence to support strategically enhancing green investments in order to achieve business 
growth and sustainable development. 
Keywords: green investments, Firm’s performance, FDI enterprises 
1. Lời mở đầu 
Những năm gần đây, tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh khiến cho môi trường bị ảnh 
hưởng nặng nề, hậu quả ngày càng rõ ràng đối với môi trường là biến đổi khí hậu, ô nhiễm 
1
 ThS Khoa Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương, email: maiphuongchu@ftu.edu.vn 
2
 ThS Khoa Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương, email: thuongho242@gmail.com 
nguồn nước, không khí và đất ngày càng nghiêm trọng, đây là một trong những thách thức lớn 
đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. 
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu là 
hoạt động sản xuất của con người, khi nền công nghiệp ngày càng phát triển và các sản phẩm sản 
xuất ra từ các ngành công nghiệp đang ngày càng đe dọa môi trường sống. Nhận thức được 
những điều trên, việc các doanh nghiệp chuyển dần sang đầu tư xanh để nâng cao kết quả hoạt 
động, hướng tới sự phát triển bền vững đang là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. 
Đặc biệt, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hoạt động chủ yếu là xuất nhập khẩu, thị 
trường trên thế giới ngày càng cạnh tranh, người tiêu dùng hiện nay cân nhắc không chỉ giá cả, 
chất lượng mà còn những vấn đề liên quan đến môi trường. Người tiêu dùng có xu hướng lựa 
chọn những sản phẩm xanh và thân thiện với môi trường, do đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài cần phải tăng cường đầu tư cho những sản phẩm xanh hoặc các công tác thân thiện 
với môi trường hơn để nâng cao kết quả hoạt động của doanh nghiệp và tăng sức cạnh tranh với 
các doanh nghiệp trên đấu trường quốc tế. 
Trong vài thập kỷ qua, trên thế giới nhiều nghiên cứu định lượng và định tính đã kiểm 
định mối quan hệ giữa đầu tư xanh và tình hình hoạt của công ty. Các nghiên cứu cho nhiều kết 
quả khác nhau. Một số cho rằng đầu tư xanh có ảnh hưởng tích cực đến từ tích cực đến hoạt 
động của doanh nghiệp, đó là nghiên cứu của Bragdon và Marlin (1972), Spicer (1978), tiếp theo 
là Barth và cộng sự (1997), Hassel và cộng sự (2005) hay Aerts và cộng sự (2008), Cormier và 
Magnan (2007), Ambec and Lanoie (2008), Guenster và cộng sự (2011), Griffin và Sun (2012), 
Oba và cộng sự (2012) và Roberto (2013). Một số nghiên cứu lại cho rằng đầu tư xanh mang lại 
ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp như nghiên cứu của Barth và McNichols 
(1994), Blacconiere và Northeut (1997), Cormier và Magnan (1997), Hassel và cộng sự (2005), 
Brammer và cộng sự (2006), Roy và Ghosh (2011). Ngoài ra, một số nghiên cứu lại cho rằng đầu 
tư xanh không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp như Deegan (2004) Gonzalez và cộng 
sự (2005), Plumlee và cộng sự (2010). Đặc biệt, Lankoshi (2000) lại cho rằng đầu tư xanh và 
hoạt động của doanh nghiệp có mối quan hệ hình chữ U ngược. 
Trong khi đó, ở Việt Nam các nghiên cứu của Tran (2003) và Nham và cộng sự (2012) 
mới chỉ đề cập đến trách nhiệm môi trường của các doanh nghiệp. Hay, nghiên cứu của Đinh 
Đức Trường (2015) về quản lý môi trường tại các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
Nghiên cứu này, mới chỉ dừng lại ở phân tích thực trạng quản lý môi trường tại các doanh nghiệp 
FDI và không đề cập đến hành vi đầu tư xanh của các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp FDI 
đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam trên nhiều 
phương diện như vốn, công nghệ, phát triển xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế và 
nâng cao khả năng thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, khu vực 
FDI cũng đã và đang tạo ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của đất nước, 
mà nổi bật nhất là tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái gây thiệt hại to lớn đến tài sản và 
sức khỏe của cộng đồng. Nhiều vụ ô nhiểm môi trường trầm trọng của các dự án FDI đã làm 
giảm tính bền vững của tăng trưởng kinh tế. Nhưng ở Việt Nam còn thiếu các nghiên cứu hành vi 
đầu tư xanh của các doanh nghiệp FDI. 
Như vậy, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của đầu tư xanh đối với kết quả 
hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn thiều các nghiên cứu cho mối quan hệ 
trên. Do đó, nghiên cứu này sử dụng bộ số liệu điều tra doanh nghiệp sẽ cố gắng trả lời câu hỏi: 
Đầu tư xanh ảnh hưởng như thế nào đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI? Kết quả 
phân tích thực nghiệm sẽ là cơ sở quan trọng để các doanh nghiệp FDI nói riêng và các doanh 
nghiệp nói chung có chiến lược thực hiện đầu tư xanh nhằm nâng cao kết quả hoạt động, tăng 
khả năng cạnh tranh và hướng đến phát triển bền vững. 
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 
2.1 Cơ sở lý thuyết 
Tranh luận về tác động của bảo vệ môi trường tới hoạt động kinh tế ngày càng tăng. Trái 
ngược với suy nghĩ thông thường cho rằng mục tiêu môi trường không ảnh hưởng đến hoạt động 
kinh tế, một nghiên cứu thúc đẩy ý tưởng về sự đồng hành của hiệu quả kinh tế và môi trường 
(Porter,1991; Porter và Van der Linnde, 1995). Quan điểm này, thường được mô tả như là giả 
thuyết Porter (PH) thách thức ý tưởng về một sự đánh đổi giữa lợi ích xã hội và chi phí riêng và 
xem bảo vệ môi trường là một gánh nặng cho ngành công nghiệp. Tập trung đặc biệt vào các quy 
định về môi trường, Porter và Van der Linnde (1995) cho rằng: "tiêu chuẩn môi trường được 
thiết kế đúng cách sẽ gây ra sự đổi mới đó là có thể một phần hoặc đầy đủ chi phí tuân thủ 
chúng". Đóng góp khác được cung cấp để cải tiến giả thuyết PH là xem xét các mối quan hệ có 
thể có giữa quy định, đổi mới và năng lực cạnh tranh (Jaffe and Palmer, 1997; Constantini and 
Mazzanti, 2012). 
Trong khuôn khổ giả thuyết PH, mối quan hệ giữa quy định về môi trường, bảo vệ môi 
trường và khả năng cạnh tranh kinh tế đã được nghiên cứu trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm 
(Iraldo và cộng sự, 2011). Mặc dù họ không đạt được sự đồng thuận, do họ xem xét các loại hiệu 
ứng khác nhau bao gồm cả các tác động đến năng suất và khả năng cạnh tranh quốc tế. Đối với 
năng suất, đầu tiên phải kể đến là (Jaffe và cộng sự, 1995), gần đây có nghiên cứu của Gray và 
Shadbegian (2003) hay Shadbegian và Gray (2005); Borberg và cộng sự (2010). Những nghiên 
cứu này chỉ ra rằng quy định môi trường ảnh hưởng rất ít hoặc., không ảnh hưởng hoặc thậm chí 
ảnh hưởng tiêu cực tới năng suất, trong khi một số nghiên cứu khác lại tìm thấy sự đồng thuận 
cho giả thuyết PH. Mức độ đồng thuận là khác nhau giữa các ngành công nghiệp và bối cảnh địa 
lý, có thể kể đến như công nghiệp lọc dầu ở Mỹ (Berman và Bui, 2001); Công nghiệp sản xuất 
lương thực ở Mexico (Alpay và cộng sự, 2002); ngành công nghiệp dầu khí trong Vịnh Mexico 
(Managi và cộng sự, 2005); ngành sản xuất gây ô nhiễm cao ở Nhật (Humamoto, 2006); các 
ngành sản xuất ở Quebec (Lanoie và cộng sự, 2008) và Đài Loan (Yang và cộng sự, 2012). 
Bên cạnh đó, việc áp dụng bảo vệ môi trường vào hoạt động kinh tế có thể trực tiếp làm 
giảm chi phí nguyên liệu, năng lượng sử dụng, tài sản cố định và đầu vào lao động (Ambec và 
Lanoie, 2008). Theo quan điểm này, đầu tư bảo vệ môi trường có thể dẫn đến kết quả hoạt động 
kinh tế cao hơn và các hiệu ứng tốt có thể xuất hiện trên năng suất cũng như khả năng cạnh tranh 
quốc tế của các doanh nghiệp. 
Xuất phát từ quan điểm trên, tác giả không tập trung vào tác động của quy định về môi 
trường, mà xem xét các tác động của đầu tư xanh, nhằm giảm thiếu ảnh hưởng tiêu cực đến môi 
trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tác giả bắt đầu từ ý tưởng rằng, 
đầu tư xanh được xem như là một phần của toàn bộ danh mục đầu tư của doanh nghiệp và liên 
quan đến đầu tư vào công nghệ sản xuất khác. 
2.2 Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1 Mô hình nghiên cứu 
Mô hình lý thuyết và nghiên cứu sử dụng là hàm sản xuất Cobb-Douglas có dạng như 
sau: 
 A ji i i j i jY A f X X

 , (1) 
Trong đó: Yi - là sản lượng đầu ra của doanh nghiệp i, Ai được coi là năng lực công nghệ 
của doanh nghiệp i hay còn gọi là năng suất nhân tố, Xj là yếu tố đầu vào. Nếu giả sử rằng để sản 
xuất sản lượng Yi doanh nghiệp i kết hợp hai đầu vào chính là lao động, Li, và vốn, Ki, thì ta có 
thể viết lại hàm sản xuất Cobb-Douglas cho doanh nghiệp này và biểu diễn dạng tuyến tính như 
sau: 
1 2
i i i iY AK L
  hoặc 1 2ln ln ln lni i i i iY A K L v  , (2) 
Trong đó, β1 và β2 lần lượt được gọi là độ co dãn của sản lượng đầu ra với yếu tố đầu vào 
vốn và lao động; iv là sai số ngẫu nhiên trong mô hình, được giả định có trung bình bằng không 
và phương sai cố định. Ai được mô tả theo phương trình sau: 
lnAi = a0 + a1 Cji + a2GIji + ei , (3) 
Trong đó, Cji là véc-tơ các biến số kiểm soát ảnh hưởng của các nhân tố quản chế và đặc 
điểm của doanh nghiệp (ví dụ, quy mô doanh nghiệp), GIji là véc-tơ đại diện cho biến số đầu tư 
xanh - đầu tư cho máy móc- thiết bị nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường của hoạt động 
sản xuất kinh doanh; cuối cùng, ei là sai số đo lường và được xem như là tác động của các cú sốc 
năng suất ngẫu nhiên có phân phối độc lập và chuẩn hóa với trung bình bằng không và phương 
sai không đổi. Kết hợp (2) và (3), chúng ta thu được mô hình tổng gộp và được biểu diễn gọn 
như sau: 
lnYi = β0 + β1 lnKi + β2 lnLi + a1 Cji + a2 GIji + εi (4) 
Phương trình (4) có thể ước lượng với hồi quy dữ liệu chéo (cross-section regression). 
Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp này có thể dẫn tới kết quả sai lệch mặc dù chúng ta có thể 
cải thiện kết quả nếu xử lý tốt mô hình hoặc có quy mô mẫu lớn. Do vậy, sử dụng phương pháp 
hồi quy dữ liệu mảng (panel), ưu việt hơn, có dạng như sau: 
  tiviTGI tjiC tjiK tiK titY ti ,
'
,2
'
,1ln ,2ln ,1,0ln ,
 (5) 
Trong đó, T biểu thị hiệu ứng cố định theo thời gian và iv đại diện cho hiệu ứng cố định 
theo không gian không quan sát được. Tương tự ie và εi, i,t là sai số của mô hình được giả định 
có phân phối độc lập. Phương trình (5) có thể được ước lượng với mô hình hỗn hợp (Pooled 
OLS), hiệu ứng cố định (FE), hoặc hiệu ứng ngẫu nhiên (RE). Để lựa chọn giữa Pooled OLS với 
RE sử dụng kiểm định xttest0, để lựa chọn giữa FE hay RE sử dụng kiểm định Hausman. Tuy 
nhiên, bất kể kết quả kiểm định Hausman như thế nào, đối với dự liệu bảng không cân bằng và T 
nhỏ, N lớn thì mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên hiệu quả hơn mô hình hiệu ứng cố định (Judge và 
cộng sự ,1980; Taylor, 1980 và Johnston và DiNardo,1997). 
Cuối cùng, mô hình được lựa chọn sẽ sử dụng hồi quy robust để kiểm soát các vi phạm 
về phương sai thay đổi và tự tương quan của sai số ngẫu nhiên (Greene, 2002; Wooldridge, 
2002) 
2.2.2 Dữ liệu và biến số 
Dữ liệu về doanh nghiệp được chiết xuất từ bộ Điều tra Doanh nghiệp (GES) thực hiện 
bởi Tổng cục Thống kê (GSO) trong giai đoạn 2006–2009. Với các biến số sử dụng trong mô 
hình bao gồm: 
i) Biến phụ thuộc. Có rất nhiều chỉ số khác nhau để thể hiện kết quả hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như Nakao et al (2007) sử dụng chỉ số ROA và Tobin’s Q; 
Brammer et al (2006) lại sử dụng chỉ số lợi nhuận cổ phiếu hay Cormier và Magnan năm 2007 
lại quan tâm đến giá trị thị trường cổ phiếu của doanh nghiệp... Trên thực tế, qua các nghiên cứu 
được tác giả phân tích ở phía trên, có rất nhiều nhà kinh tế học trước đó đã sử dụng chỉ số về 
doanh thu để biểu hiện kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó mà đo lường tác 
động của đầu tư xanh đến doanh thu mà doanh nghiệp thu về được (theo Porter vander Linde, 
1995; Hart và Ahuja; 1996; Klassen và McLaughlin; 1996 và Hassel 2005). Như vậy, kế thừa kết 
quả nghiên cứu các công trình đi trước, tác giả quyết định chọn doanh thu là biến phụ thuộc của 
mô hình. 
ii) Biến độc lập. Hai yếu tố đầu vào sản xuất quan trọng là vốn (Ki,t) và lao động (Li,t) 
được đại diện bởi tổng tài sản và tổng số lao động mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động sản 
xuất kinh doanh. Các biến số độc lập kiểm soát ảnh hưởng của đặc điểm của doanh nghiệp (Cjit) 
bao gồm: quy mô doanh nghiệp (doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và 
doanh nghiệp siêu nhỏ)3, tuổi của doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh. Trong đó, biến số đầu 
tiên được đại diện bởi ba biến giả, các biến giả được gán giá trị 1 nếu thuộc đối tượng nghiên cứu 
và 0 nếu khác, trong đó doanh nghiệp lớn được chọn làm cơ sở để so sánh. Tuổi doanh nghiệp 
được tính bằng hiệu số giữa năm điều tra khảo sát với năm doanh nghiệp thành lập. Ngành nghề 
kinh doanh được phân loại theo phân ngành cấp 5 trong VSIC - 2007 gồm ngành công nghiệp và 
3Ở Việt Nam,Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quy mô doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp có số lao 
động nhỏ hơn 10 lao động là doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến 200 lao động là doanh nghiệp nhỏ, từ 200 đến 300 lao động là 
doanh nghiệp vừa và lớn hơn 300 lao động là doanh nghiệp lớn. 
sản xuất, ngành nông lâm ngư nghiệp, ngành khai khoáng, ngành xây dựng, ngành bán lẻ, ngành 
vận tải kho vận, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống, ngành thông tin truyền thông, ngành tài chính 
ngân hàng, ngành bất động sản, ngành khoa học & công nghệ và tổng các ngành khác, 11 biến 
giả được sử dụng cho ngành nghề kinh doanh, các biến giả được gán giá trị 1 nếu thuộc đối 
tượng nghiên cứu và 0 nếu khác, trong đó tổng các ngành khác được lấy làm ngành chuẩn để so 
sánh. GIji là véc-tơ đại diện cho biến số đầu tư xanh bao gồm tổng giá trị thiết bị, công trình xử 
lý môi trường và tổng chi phí cho công tác bảo vệ môi trường. 
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
3.1 Mô tả thống kê 
Thống kê mô tả cho thấy, hơn 90% doanh nghiệp có thiết bị, công trình xử lý ô nhiễm 
môi trường và có chi phí cho công tác bảo vệ môi trường. Như vậy, phần lớn các doanh nghiệp 
FDI đã chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy, 
theo nghiên cứu của Đinh Đức Trường (2015), 60% các doanh nghiệp FDI thực hiện nghiêm túc 
hoạt động bảo vệ môi trường nhằm tăng hình ảnh đẹp trong mắt người tiêu dùng, hơn 15% để tạo 
dựng hình ảnh doanh nghiệp tốt với cơ quan chức năng và hơn 15% để bảo vệ sức khỏe của 
người lao động. Bình quân giá trị thiết bị, công trình xử lý ô nhiễm môi trường và chi phí cho 
công tác bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp FDI qua các năm được thể hiện trong Biểu đồ 
1 dưới đây. 
Theo Biểu đồ 1: Bình quân giá trị thiết bị xử lý môi trường của doanh nghiệp FDI tăng 
mạnh từ năm 2006 -2007, sau đó giảm mạnh từ năm 2007 - 2008 và tiếp tục tăng dần đều từ năm 
2008 -2009. Đối với bình quân chi phí cho công tác bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp 
FDI có xu hướng tăng dần theo thời gian. 
Thống kê mô tả các biến số sử dụng trong mô hình được thể hiện trong Bảng 1. Theo 
Bảng1: Tất cả các doanh nghiệp FDI khảo sát đều có doanh thu và bình quân mỗi doanh nghiệp 
có gần 5 năm hoạt động sản xuất kinh doanh. 
Biều đồ 1. Bình quân giá trị thiết bị, công trình xử lý ô nhiễm môi trường và chi phí 
cho công tác bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp FDI 
Đơn vị: triệu đồng 
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
2006 2007 2008 2009
Giá trị thiết bị xử lý môi trường Chi phí cho công tác bảo vệ môi trường 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Bảng 1. Thống kê mô tả các biến 
Biến số 
Số quan 
sát 
Trung 
bình 
Độ lệnh 
chuẩn 
Giá trị 
nhỏ nhất 
Giá trị lớn 
nhất 
Doanh thu 19177 191300 1004005 0.6 48100000 
Số lao động 19557 283.598 1512.9 1 84660 
Tổng tài sản 19535 272227 2269181 1 236000000 
Giá trị thiết bị xử lý môi trường 2335 1573.38 13209.5 0 386536 
Chi phí cho công tác bảo vệ 
môi trường 2554 874.473 18208.4 0 868327 
Tuổi doanh nghiệp 13865 4.97 10.95 1 21 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Tương quan giữa các biến được thể hiện trong Bảng 2. Theo ma trận này, tất cả các biến 
đều có quan hệ tương quan cùng chiều với doanh thu và mức độ tương quan từ 10% -50%. Trong 
đó, đầu tư xanh của doanh nghiệp có tương quan mạnh và cùng chiều với kết quả hoạt động của 
doanh nghiệp. Cụ thể, giá trị thiết bị xử lý môi trường có tương quan dương và mức độ tương 
quan là 19% với doanh thu, chi phí cho công tác bảo vệ môi trường có tương quan dương và mức 
độ tương quan là 26% với doanh thu. Ngoài ra, tương quan giữa các biến độc lập nhỏ hơn 80%, 
do đó loại trừ được khả năng đa cộng tuyến hoàn hảo xuất hiện trong mô hình. 
Bảng 2. Ma trận tương quan 
Doanh 
thu 
Số lao 
động 
Tổng 
tài sản 
Giá trị 
thiết bị 
xử lý môi 
trường 
Chi phí cho 
công tác bảo 
vệ môi 
trường 
Tuổi 
doanh 
nghiệp 
Doanh thu 1 
Số lao động 0.43 1.00 
Tổng tài sản 0.51 0.23 1.00 
Giá trị thiết bị xử lý 
môi trường 0.19 0.03 0.08 1.00 
Chi phí cho công tác 
bảo vệ môi trường 0.26 0.03 0.06 0.34 1.00 
Tuổi doanh nghiệp 0.10 0.02 0.06 0.07 0.03 1.00 
Nguồn: Tác giả tự tính toán 
3.2 Kết quả ước lượng và thảo luận 
Kết quả ước lượng ảnh hưởng của đầu tư xanh đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp 
FDI được thể hiện trong Bảng 3. 
Theo kết quả ước lượng, hai yếu tố đầu vào có ảnh hưởng tích cực đến doanh thu của 
doanh nghiệp FDI. Tổng tài sản và số lao động của doanh nghiệp FDI tăng 1% thì doanh thu của 
doanh nghiệp FDI tăng lần lượt là 0.77% và 0.23%. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế. 
Đồng thời, doanh nghiệp càng trải nghiệm thì doanh thu của doanh nghiệp càng cao nhưng mức 
gia tăng biên giảm dần, doanh nghiệp FDI có thêm 1 năm kinh nghiệm thì doanh thu trung bình 
của doanh nghiệp FDI tăng khoảng 2% (e0.02= 1.02). Bên cạnh đó, hệ số hồi quy của tổng giá trị 
của công trình, thiết bị xử lý môi trường và chi phí cho công việc bảo vệ của môi trường của 
doanh nghiệp FDI đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Điều này hàm ý, đầu tư xanh của doanh 
nghiệp FDI có ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp FDI và ảnh hưởng đó là tích cực. Cụ 
thể, tổng giá trị của công trình, thiết bị xử lý môi trường của doanh nghiệp FDI tăng 1% thì 
doanh thu tăng 0.04%. Giá trị của công trình, thiết bị xử lý môi trường được coi là tài sản của 
doanh nghiệp. Do đó, khi nguồn lực của doanh nghiệp tăng lên sẽ tạo kiện để doanh nghiệp tạo 
ra nhiều giá trị. Tương tự, chi phí cho cho công việc bảo vệ của môi trường tác động tích cực đến 
doanh thu của doanh nghiệp FDI, 1% tăng thêm cho chỉ tiêu này sẽ làm doanh thu trung bình của 
doanh nghiệp FDI tăng 0.03%. Doanh thu sẽ bằng tổng của các loại chi phí và lợi nhuận doanh 
nghiệp, dó đó tăng chi phí sẽ có khả năng làm tăng doanh thu. Kết quả này hoàn toàn phù hợp 
với lý thuyết kinh tế. 
Ngoài ra, đối với nhóm biến kiểm soát quy mô doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, doanh 
thu bình quân của doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa nhỏ hơn so với doanh nghệp lớn lần lượt là 
390% (e
1.59
= 4.90), 36% (e
0.31
= 1.36) và 43% (e
0.36
= 1.43). 
Bảng 3. Kết quả ước lượng mô hình 
Biến số Ln(Doanh thu) 
Ln (Tổng tài sản) 0.78 
 (0.00)*** 
Ln (Lao động) 0.16 
 (0.00)*** 
Ln (Giá trị thiết bị xử lý môi trường) 0.04 
 (0.02)** 
Ln (Chi phí cho công việc bảo vệ môi trường) 0.03 
 (0.05)** 
Tuổi doanh nghiệp 0.02 
 (0.03)** 
Tuổi doanh nghiệp2 -0.002 
 (0.01)*** 
Doanh nghiệp siêu nhỏ -1.59 
 (0.00)*** 
Doanh nghiệp nhỏ -0.31 
 (0.01)*** 
Doanh nghiệp vừa -0.36 
 (0.08)* 
Hệ số chặn 0.64 
 (0.42) 
Biến kiểm soát ngành nghề kinh doanh Có 
R2 0.72 
Số quan sát 420 
Ghi chú: Giá trị trong ngoặc đơn là p-value. *,**,*** có ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1% 
Nguồn: Tính toán của tác giả với sự hỗ trợ của phần mềm Stata 12 
4. Kết luận và kiến nghị 
Nghiên cứu này sử dụng bộ số liệu điều tra doanh nghiệp từ năm 2006 -2009 với mô hình 
hàm sản xuất Cobb-Douglas đã cho thấy, đầu tư xanh có vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt 
động của doanh nghiệp. Tăng cường hoạt động đầu tư xanh sẽ kích thích kết quả hoạt động của 
doanh nghiệp FDI gia tăng. Cụ thể 1% tăng của tổng giá trị của công trình, thiết bị xử lý môi 
trường và chi phí cho công việc bảo vệ của môi trường của doanh nghiệp FDI sẽ làm doanh thu 
của doanh nghiệp FDI tăng lần lượt là 0.04% và 0.03%. Kết quả này là bằng chứng thực nghiệm 
quan trọng để nhà quản lý có chiến lược tăng cường hoạt động đầu tư xanh, giúp tăng trưởng 
doanh nghiệp và hướng đến phát triển bền vững. Để thực hiện được mục tiêu đó, nhà nước cần 
điều chỉnh các chính sách ưu đãi và rào cản đầu tư phù hợp với định hướng thu hút FDI theo 
hướng bảo vệ môi trường. Khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp FDI tăng hoạt động đầu 
tư xanh. 
Tài liệu tham khảo 
1. Aerts, W., Cormier, D., &Magnan, M., 2008, “Corporate environmental disclosure, 
financial markets and the media: An international perspective”, Ecological Economics, 
64(3), 643-659. 
2. Al-Tuwaijri, S. A., Christensen, T. E., & Hughes, K. E., 2004, “The relations among 
environmental disclosure, environmental performance, and economic performance: a 
simultaneous equations approach”, Accounting, Organizations and Society, 29(5), 447-471. 
3. Ambec, S., and Lanoie, P., 2008, Does it pay to be green? A systematic overview, The 
Academy of Management Perspectives, 22(4), 45-62. 
4. Cohen, M., S. Fenn, J. Naimon, 2000, Environmental and financial performance: Are they 
related? Investor Responsibility Research Center Monograph, Vanderbilt University, 
Nashville, TN. 
5. Cormier, D., & Magnan, M., 2007, “The revisited contribution of environmental reporting 
to investors' valuation of a firm's earnings: An international perspective”, Ecological 
economics, 62(3), 613-626. 
6. Freedman, M., & Patten, D. M., 2004, “Evidence on the pernicious effect of financial 
report environmental disclosure”, Accounting Forum, 28(1), 27-41. 
7. Freeman, R. E., 1984, Strategic Management: A Stakeholder Approach, London: Financial 
Times Prentice Hall. 
8. Greene, W.H., 2003, Econometric Analysis, xuất bản lần thứ 5, Upper Saddle River, NJ, 
Prentice-Hall. 
9. Guenster, N., Bauer, R., Derwall, J., & Koedijk, K., 2011, “The Economic Value of 
Corporate Eco‐Efficiency”, European Financial Management, 17(4), 679-704. 
10. Jaffer, A.B and Palmer, K., 1997, “Environmental regulation and innovation: a panel data 
study”, Review of Economics and Statistics, 79 (4), 610 – 619. 
11. Judge và cộng sự, 1980, The Theory and Practice of Econometrics, John Wiley & Sons, 
Inc.: New York. 
12. King, A. A., & Lenox, M. J., 2001, “Does It Really Pay to Be Green? An Empirical Study 
of Firm Environmental and Financial Performance: An Empirical Study of Firm 
Environmental and Financial Performance”, Journal of Industrial Ecology, 5(1), 105-116. 
13. Klassen, R.D., 2000, “Exploring the linkage between investment in manufacturing and 
environmental technologis”, International Journal of Operations & Production 
Management, 20(2), 127 – 147. 
14. Nakao, Y., Amano, A., Matsumura, K., Genba, K., & Nakano, M., 2007a, “Relationship 
between environmental performance and financial performance: an empirical analysis of 
Japanese corporations”, Business Strategy and the Environment, 16(2), 106-118. 
15. Nakao, Y., Nakano, M., Amano, A., Kokubu, K., Matsumura, K., & Gemba, K., 2007b, 
“Corporate environmental and financial performances and the effects of information-based 
instruments of environmental policy in Japan”, International Journal of Environment and 
Sustainable Development, 6(1), 95-112. 
16. Palmer, K., W. E. Oates, P. R. Portney, 1995, Tigh tening environmental standards: The 
benefit-cost or the no-cost paradigm? J. Econom, Perspectives 9(4) 119–132. 
17. Porter, M.E., and Kramer, M.R., 2011, “The Big Idea: Creating Shared Value. How to 
reinvent capitalism – and unleash a wave of innovation and growth”, Harvard Business 
Review, 89 (1 – 2), 62 – 77. 
18. Porter, M.E., 1991, “America’s Green strategy”, Scientific American, 264(4),168. 
19. Taylor, W. E., 1980, “Small Sample Considerations in Estimation from Panel Data”, 
Journal of Econometrics, tập 13, tr. 203-223. 
20. Wooldridge, J. M., 2002, Econometric Analysis of Cross Section and Panel Data, 
Cambridge, MA, MIT Press. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_dau_tu_xanh_doi_voi_ket_qua_hoat_dong_cua_cac_do.pdf