Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính- Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Khu vực tài chính với cấu trúc phức tạp có mối liên kết mật
thiết, tác động qua lại tới nền kinh tế thực của mỗi quốc gia.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy sự ổn định của hệ
thống tài chính không chỉ là điều kiện mà còn là nền tảng
cho phát triển kinh tế bền vững. Do đó, các nghiên cứu về
việc xây dựng Chỉ số căng thẳng tài chính (Financial Stress
Index- FSI) để đo lường sự bất ổn của hệ thống tài chính, từ
đó đưa ra những dấu hiệu cảnh báo sớm nhằm ngăn ngừa
căng thẳng tài chính có thể xảy ra có ý nghĩa vô cùng quan
trọng với sự ổn định và bền vững của tăng trưởng kinh tế.
Trong bài báo này tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của
Trung Quốc và Hi Lạp trong việc xây dựng FSI, qua đó rút
ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc xây dựng
FSI cho Việt Nam.
Từ khóa: Chỉ số căng thẳng tài chính, bất ổn tài chính, căng
thẳng ngân hàng, căng thẳng thị trường tiền tệ, căng thẳng
thị trường ngoại hối, căng thẳng thị trường chứng khoán
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính- Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
68 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018 Xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính- kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Vũ Thị Kim Oanh Ngày nhận: 08/01/2018 Ngày nhận bản sửa: 21/01/2018 Ngày duyệt đăng: 23/04/2018 Khu vực tài chính với cấu trúc phức tạp có mối liên kết mật thiết, tác động qua lại tới nền kinh tế thực của mỗi quốc gia. Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy sự ổn định của hệ thống tài chính không chỉ là điều kiện mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế bền vững. Do đó, các nghiên cứu về việc xây dựng Chỉ số căng thẳng tài chính (Financial Stress Index- FSI) để đo lường sự bất ổn của hệ thống tài chính, từ đó đưa ra những dấu hiệu cảnh báo sớm nhằm ngăn ngừa căng thẳng tài chính có thể xảy ra có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sự ổn định và bền vững của tăng trưởng kinh tế. Trong bài báo này tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc và Hi Lạp trong việc xây dựng FSI, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc xây dựng FSI cho Việt Nam. Từ khóa: Chỉ số căng thẳng tài chính, bất ổn tài chính, căng thẳng ngân hàng, căng thẳng thị trường tiền tệ, căng thẳng thị trường ngoại hối, căng thẳng thị trường chứng khoán 1. Kinh nghiệm xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính tại một số quốc gia 1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc rong những thập kỉ qua, mặc dù chưa có một cuộc khủng hoảng tài chính thật sự nào diễn ra ở Trung Quốc, nhưng kể từ năm 1978, Trung Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn bất ổn tài chính. Tình trạng nợ xấu quá cao của khu vực ngân hàng Trung Quốc đã ảnh hưởng đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng, làm suy giảm sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững của Trung Quốc giai đoạn giữa những năm 1990. Trong phần này, tác giả xem xét phương pháp xây dựng chỉ số căng thẳng của Sun và Huang (2016). FSI của Trung Quốc được thiết kế nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của bất ổn khu vực tài chính ở Trung Quốc, bao gồm 8 biến số của 4 thị trường: chênh lệch rủi ro của ngân hàng, tỉ lệ nợ xấu, tỉ lệ cho vay/huy động của ngành ngân hàng; chỉ số chứng khoán Thượng Hải cho thị trường chứng khoán; tỉ giá hối đoái và dữ trữ ngoại hối cho thị trường ngoại hối; chênh lệch rủi ro và chênh lệch lợi tức trái phiếu chính phủ (TPCP) cho thị trường nợ. (i) Khu vực ngân hàng Để phản ánh căng thẳng của khu vực ngân hàng, các biến số sau đã được lựa chọn: (1) Chênh lệch rủi ro: Chênh lệch rủi ro khu vực ngân hàng chính là chênh lệch giữa lãi suất có rủi ro và lãi suất phi rủi ro để phản ánh căng thẳng thanh khoản liên ngân hàng và dự tính về rủi ro vỡ nợ. Chênh THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018 lệch rủi ro liên ngân hàng được xác định bằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay 3 tháng trên thị trường liên ngân hàng Trung Quốc với lãi suất TPCP 3 tháng. (2) Tỉ lệ nợ xấu: Tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước được lựa chọn để phản ánh căng thẳng của khu vực ngân hàng ở Trung Quốc, do vốn của các NHTM nhà nước chiếm phần lớn trong tổng vốn điều lệ của ngành Ngân hàng Trung Quốc1. (3) Tỉ lệ cho vay/huy động: Biến số này phản ánh căng thẳng và rủi ro vỡ nợ của khu vực ngân hàng Trung Quốc. FSI cho khu vực ngân hàng: Sử dụng phương pháp trọng 1 Theo NHTW Trung Quốc, vốn của các NHTM Nhà nước chiếm tới hơn 70% tổng vốn điều lệ ngành ngân hàng. số phương sai bằng nhau, nghiên cứu đã xây dựng chỉ số căng thẳng khu vực ngân hàng Trung Quốc từ năm 1997 (Hình 1). Hình 1 cho thấy căng thẳng trong lĩnh vực ngân hàng đạt đỉnh điểm vào năm 1999, trùng với khủng hoảng ngân hàng được xác định vào cuối năm 1998 bởi Leaven và Valencia (2008), sau đó chỉ số này dần giảm xuống (sự lành mạnh của ngành Ngân hàng Trung Quốc được cải thiện dần sau năm 2000). (ii) Thị trường chứng khoán Căng thẳng hệ thống và rủi ro của thị trường chứng khoán (TTCK) được đo lường bởi mức biến động chỉ số cổ phiếu- ước lượng bằng mô hình GARCH (1, 1) (Bollerslev và Chou,1992) dựa trên dữ liệu về chỉ số chứng khoán Thượng Hải theo tháng. FSI cho TTCK Trung Quốc (SMFSI) xây dựng bởi mô hình GARCH (1,1) được thể hiện trong Hình 2 cho thấy chỉ số này biến động liên tục trong giai đoạn nghiên cứu. (iii) Thị trường ngoại hối Căng thẳng thị trường ngoại hối Trung Quốc cũng được xác định thông qua mức độ biến động của tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại hối hàng tháng. Theo Balakrishan và các tác giả (2009), chỉ số căng thẳng cho thị trường ngoại hối (EMFSI) được xác định như sau: EMFSI e RES e t e RES t RES t t t t v n v n D D = - - - - D D D D Hình 1. FSI khu vực ngân hàng Trung Quốc (BankFSI) Hình 2. FSI thị trường chứng khoán (SMFSI) Hình 3. FSI thị trường ngoại hối Trung Quốc (EMFSI) Hình 4. FSI thị trường nợ Trung Quốc (DMFSI) Nguồn: Nghiên cứu của Sun và Huang (2016) THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018 Trong đó: - ∆e t phản ánh thay đổi hàng tháng trong tỉ giá hối đoái; - ∆RES t là thay đổi hàng tháng của dự trữ ngoại hối; - µ x , σ x phản ánh giá trị trung bình và phương sai chuẩn của các biến tương ứng. Hình 3 cho thấy chỉ số EMFSI đã phản ánh rất nhiều giai đoạn có biến động trên thị trường ngoại hối Trung Quốc, bao gồm sự lên giá đột ngột vào cuối năm 1994 và mất giá sau năm 1995 do Chính phủ Trung Quốc thực hiện khuyến khích xuất khẩu, tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc về cơ chế tỷ giá thả nổi năm 2005, khủng hoảng tài chính năm 2008 và khủng hoảng nợ công khu vực Châu Âu. (iv) Thị trường nợ Hai chỉ số được sử dụng để phản ánh căng thẳng trên thị trường nợ Trung Quốc là chênh lệch lợi tức trái phiếu, là một chỉ báo hữu ích cho suy thoái2, và chênh lệch TPCP, phản ánh tình trạng thanh khoản quốc tế. Chênh lệch lợi tức trái phiếu: Chênh lệch giữa lợi tức trái phiếu dài hạn (TPCP 10 năm) và lợi tức trái phiếu ngắn hạn (TPCP 1 năm) được xem là chỉ báo cho suy thoái kinh tế và là biến đại diện cho sự không chắc chắn trên thị trường TPCP. Nghiên cứu không sử dụng lợi tức tín phiếu kho bạc 3 tháng do đây là công cụ tài chính rất ít được phát hành trên thị trường trái phiếu ngắn hạn 2 Xem Oet và các tác giả (2011), Estrella và Mishikin (1996), Habrich và Biano (2011). của Trung Quốc và lượng phát hành cũng rất nhỏ, TPCP 1 năm phổ biến nhất và có lịch sử phát hành lâu nhất ở Trung Quốc. Chênh lệch TPCP: Chênh lệch này được xác định bằng lợi tức TPCP Trung Quốc 10 năm và lợi tức TPCP Mỹ 10 năm. Kết hợp chênh lệch lợi tức trái phiếu và chênh lệch TPCP, các tác giả xác định chỉ số FSI cho thị trường nợ Trung Quốc bằng phương pháp trọng số phương sai bằng nhau (Hình 4). Căng thẳng tài chính trên thị trường nợ Trung Quốc gia tăng sau năm 2009 do những hiệu ứng lan truyền từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đặc biệt trên thị trường TPCP. Chỉ số căng thẳng tổng thể cho hệ thống tài chính Trung Quốc Các tác giả đã sử dụng phương pháp trọng số phương sai bình quân để xây dựng FSI tổng thể (CNFSI) cho hệ thống tài chính Trung Quốc. Do dữ liệu của thị trường nợ quá ngắn (từ 2002 đến năm 2012) và doanh số giao dịch trên thị trường nợ Trung Quốc quá nhỏ, các tác giả đã xây dựng CNFSI loại trừ DMFSI bằng phương pháp trọng số phương sai bằng nhau từ năm 1994 đến năm 2012. Do trên thực tế, không có cuộc khủng hoảng tài chính nào xảy ra ở Trung Quốc từ năm 1994, theo Lai và Lu (2010), các tác giả xác định giai đoạn căng thẳng tài chính hệ thống bằng cách đo lường độ lệch của CNFSI với đường xu hướng dài hạn. Khi chỉ số CNFSI cao hơn mức trung bình dài hạn gấp 2 lần độ lệch chuẩn là chỉ báo cho căng thẳng tài chính hệ thống. CNFSIE CNFSI 2 CNFSI t CNFSI t t v n = - Trong đó: - CNFSIE là chỉ số căng thẳng, là tiêu chuẩn để xác định giai đoạn căng thẳng tài chính. - μ CNFSIt và σ CNFSIt là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của CNFSI theo thời gian. Khi CNFSIE> 1 là khi có căng thẳng tài chính hệ thống. Các giai đoạn được xác định có Hình 5. Chỉ số CNFSI phản ánh các giai đoạn căng thẳng tài chính Nguồn: Nghiên cứu của Sun và Huang (2016) THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 71Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018 căng thẳng tài chính hệ thống được thể hiện trong Hình 5. Để cung cấp công cụ thuận tiện và hữu ích cho cơ quan giám sát và công chúng, các tác giả xây dựng hệ thống cảnh báo phi tham số theo mức độ độ lệch của mỗi giai đoạn: Dấu hiệu cảnh báo căng thẳng tài chính hệ thống màu xanh: 1 ≤ CNFSIE ≤ 1,5 Dấu hiệu cảnh báo căng thẳng tài chính hệ thống màu cam: 1,5 ≤ CNFSIE ≤ 2,5 Dấu hiệu cảnh báo căng thẳng tài chính hệ thống màu đỏ: 2,5 ≤ CNFSIE 1.2. Kinh nghiệm của Hi Lạp FSI của Hi Lạp (FSSI) được xây dựng dựa trên cách thức xây dựng chỉ số tổng hợp về căng thẳng tài chính được trình bày trong nghiên cứu của Hollo và các tác giả (2012), nhằm xem xét bản chất của căng thẳng tài chính bằng cách nghiên cứu về mối tương quan thay đổi giữa các khu vực thị trường. Các tác giả đã xây dựng chỉ số tổng hợp từ các biến số đơn lẻ phản ánh căng thẳng của từng thị trường. Căng thẳng hệ thống dường như cao hơn khi hệ thống tài chính ở trong tình trạng bất ổn mở rộng, tức là nhiều thành phần của hệ thống tài chính cùng bị căng thẳng. Kinh nghiệm của Hi Lạp trong bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu của Louis và Vouldis (2013). Các tác giả của nghiên cứu này đã thực hiện khảo sát tại Ngân hàng Trung ương Hi Lạp để xác định những giai đoạn căng thẳng nhất với hệ thống tài chính Hi Lạp và đánh giá xem chỉ số xây dựng có tương ứng với kết quả của khảo sát hay không. Theo đó, các biến được lựa chọn phản ánh sự phát triển của những khu vực sau: (i) Cơ sở của nền kinh tế Hi Lạp (Fundamentals of Greek economy); (ii) khu vực ngân hàng- dữ liệu thị trường; (iii) khu vực ngân hàng- dữ liệu bảng cân đối; (iv) thị trường vốn; và (v) thị trường tiền tệ. (i) Cơ sở của nền kinh tế Hi Lạp Môi trường kinh tế được xem là có những ảnh hưởng nhất định đến căng thẳng tài chính, nó có thể khuyếch đại hoặc làm giảm những căng thẳng của khu vực tài chính. Đôi khi, môi trường kinh tế chính là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng tài chính, ví dụ như khủng hoảng nợ công. Các biến được sử dụng là: - Chênh lệch lợi tức TPCP Hi Lạp 10 năm với trái phiếu của Đức: Theo Blix Grimaldi (2010), chênh lệch lợi tức giữa TPCP Hi Lạp với trái phiếu của Đức (thường được coi là ngưỡng cho mức rủi ro thấp nhất tại Châu Âu) thể hiện đặc điểm cơ bản của thị trường, là khả năng thanh khoản và mức bù rủi ro tương ứng với mức độ tín nhiệm của Chính phủ cũng như là tính không chắc chắn của thị trường. - Biến động lợi tức thực hiện: Mức biến động lợi tức của TPCP Hi Lạp 10 năm phản ánh tính không chắc chắn liên quan đến đặc điểm cơ bản của nền kinh tế Hi Lạp. Biến động giá tài sản tăng gắn với sự tăng không chắc chắn về giá trị cơ bản của tài sản cũng như sự tăng không chắc chắn về hành vi của các nhà đầu tư khác. - Tương quan giữa lợi tức của chứng khoán Hi Lạp và trái phiếu Đức: Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy mối tương quan giữa lợi tức từ TTCK và lợi tức của TPCP là âm trong giai đoạn căng thăng tài chính và có giá trị dương rất nhỏ trong dài hạn. Bản chất của mối tương quan là biểu hiện của hiện tượng “chạy theo chất lượng- flight to quality” trong giai đoạn căng thẳng tài chính (Andersson và các tác giả, 2008; Hakkio và Keeton, 2009). Trong nghiên cứu của Louis và Voudis (2013), các tác giả sử dụng lợi tức hàng ngày của chỉ số TTCK Athens (ASE) và trái phiếu của Đức để tính toán hệ số tương quan thực hiện theo tháng. ( ) ( ) RCOR r r r r , , , , t ASE Bund m t ASE m M m t Bund m M m t ASE m t Bund m M 2 1 2 1 1 =- = = = / / / Trong đó: RCOR t ASE-Bund: hệ số tương quan thực hiện theo tháng giữa lợi tức chỉ số chứng khoán ASE và lợi tức trái phiếu của Đức M là số ngày giao dịch trong tháng t. Các tác giả đã lựa chọn trái phiếu của Đức là đại diện cho trái phiếu an toàn ở các nước EU. THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018 (ii) Khu vực ngân hàng- dữ liệu thị trường Dữ liệu thị trường về khu vực ngân hàng phản ánh kỳ vọng của thị trường về hoạt động ngân hàng. Vì khu vực ngân hàng là thành phần cơ bản của hệ thống tài chính, chỉ số căng thẳng tài chính cần phải bao gồm cả chỉ số phản ánh căng thẳng hay khủng hoảng ngân hàng. - Giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng (chỉ số cổ phiếu ngân hàng): Chỉ số cổ phiếu ngành Ngân hàng thường phản ánh kỳ vọng của thị trường về viễn cảnh khu vực ngân hàng. Blix Grimaldi (2010) cho rằng, khi chỉ số này tăng có thể ám chỉ tình trạng tiềm ẩn bong bóng (impending stress- căng thẳng sắp đến) trong khi tình trạng suy giảm kéo dài chính là một dấu hiệu của căng thẳng. Phép biến đổi CMAX được sử dụng khi xây dựng chỉ số cổ phiếu ngân hàng Hi Lạp để xác định những giai đoạn suy giảm mạnh trên thị trường cổ phiếu ngân hàng (Patel và Sarkar, 1998, Illing và Liu, 2006). CMAX được xác định: : , ...,max CMAX P P j P 0 12 t t j t = =f -^ h6 @ Trong đó: P t là giá của chỉ số cổ phiếu ngân hàng tại tháng t. - Rủi ro đặc thù của giá cổ phiếu ngân hàng: Rủi ro đặc thù của khu vực ngân hàng, tức là rủi ro gắn với những sự kiện của ngành Ngân hàng được xác định bằng cách sử dụng phương sai phần dư của mô hình thị trường. - Chênh lệch CDS các ngân hàng Hi Lạp: Các tác giả đã sử dụng chênh lệch CDS (Credit Default Swap) trung bình 5 năm của 4 ngân hàng lớn nhất Hi Lạp là đại diện cho rủi ro tín dụng. Chênh lệch CDS được định nghĩa là chi phí hàng năm để bảo vệ khỏi tình trạng phá sản của một công ty hay một chính phủ, do đó là một chỉ số phù hợp phản ánh giá trị trường của rủi ro tín dụng. Ngoài ra có thể sử dụng chênh lệch trái phiếu của các ngân hàng để phản ánh rủi ro tín dụng. (iii) Khu vực ngân hàng- dữ liệu bảng cân đối Căng thẳng trong khu vực ngân hàng hoặc là căng thẳng bên nợ hoặc là do sự suy giảm chất lượng tài sản phản ánh trên bảng cân đối của ngân hàng (Mishkin, 1992). Sự kết hợp giữa dữ liệu thị trường và dữ liệu bảng cân đối của ngành Ngân hàng giúp đưa ra một chỉ số phản ánh đầy đủ hơn về các điều kiện thị trường do bao hàm trong đó các triệu chứng khác nhau của căng thẳng ngân hàn ... i đoạn nghiên cứu. Trong giai đoạn khủng hoảng nợ công Hi Lạp, chỉ số của cơ sở của nền kinh tế là nhân tố chính dẫn đến căng thẳng tài chính. Đồng thời, chỉ số của khu vực ngân hàng dựa trên dữ liệu bảng cân đối không có nhiều đóng góp cho căng thẳng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vào cuối năm 2008. Điều này có thể do các ngân hàng Hi Lạp không có nhiều các tài sản độc hại (toxics assets), và do đó không chịu tổn thất nhiều trong giai đoạn này. Hơn nữa, khu vực ngân hàng Hi Lạp được bảo vệ khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu do lợi nhuận cao và vốn cổ phần lớn. Bước thứ 2 trong xây dựng FSSI là tổng hợp 5 chỉ số thành phần thành một chỉ số phản ánh rủi ro hệ thống, FSSI. Các tác giả đã vận dụng lý thuyết về danh mục để xây dựng chỉ số này (Hollo và các tác giả, 2012). Theo lý thuyết về danh mục, khi chúng ta kết hợp các tài sản rủi ro có mối tương quan cao, rủi ro của cả danh mục tăng lên khi tất cả các tài sản cùng thay đổi theo một chiều trước biến động của thị trường. Ngược lại khi tương quan giữa các tài sản là thấp, rủi ro phi hệ thống hay rủi ro có thể đa dạng hóa được giảm thiểu, làm giảm mức độ rủi ro của cả danh mục. Theo đó, mối tương quan giữa các chỉ số căng thẳng cơ bản, tức là các chỉ số thành phần, là một đại diện cho rủi ro hệ thống của từng thị trường. Mức độ tương quan càng cao phản ánh tình trạng căng thẳng mở rộng ở nhiều khu vực thị trường, do đó dẫn dến rủi ro hệ thống gia tăng. Để tối đa hóa khả năng chỉ số có thể phản ánh đúng các giai đoạn căng thẳng, dựa trên đặc điểm của thị trường tài chính Hi Lạp, các tác giả đã đưa thêm trọng số cho các chỉ số thành phần, trong đó cơ sở của nền kinh tế Hi Lạp là 24%; khu vực ngân hàng- dữ liệu thị trường: 25%; khu vực ngân hàng- dữ liệu bảng cân đối: 13%, TTCK: 12% và thị trường tiền tệ: 25%. Để xây dựng FSSI, các tác giả Hình 6. Chỉ số căng thẳng tài chính tại Hi Lạp Nguồn: Nghiên cứu của Louis và Vouldis (2013) THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 75Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018 ước lượng ma trận tương quan bằng mô hình GARCH đa biến (Multivarate Garch). Mô hình MGARCH thường được sử dụng là mô hình BEKK do Engle và Kroner xây dựng năm 1995. Chỉ số FSSI trong hình trên đã phác họa những điểm cao tương đối trong giai đoạn khủng hoảng (vùng màu xám). Một cách tổng thể, có thể thấy FSSI đã có thể phản ánh tương đối chính xác những giai đoạn khủng hoảng tài chính ở Hi Lạp, trong khi không khuyếch đại mức độ căng thẳng trong những giai đoạn ổn định. 2. Bài học kinh nghiệm về việc xây dựng chỉ số căng thẳng tài chính cho Việt Nam Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, Hi Lạp và Hình 7. Chỉ số căng thẳng hệ thống tài chính (sử dụng mô hình Garch đa biến BEKK) Nguồn: Nghiên cứu của Louis và Vouldis (2013) Bảng 1. Hệ thống các biến số phản ánh căng thẳng trong từng khu vực thị trường tài chính Chỉ số Diễn giải +/- Nguồn Khu vực tiền tệ Chênh lệch TED (TED spread) Là chênh lệch giữa lãi suất của một khoản vay liên ngân hàng không có đảm bảo (ví dụ: Stockholm Interbank Offered Rate) với lãi suất của tín phiếu kho bạc cùng kỳ hạn. + Sandahl và các tác giả, 2011 Euribor 3 tháng/ Chênh lệch T-bill Đức 3 tháng Euribor được xem là ngưỡng cho mức lãi suất cho vay ngắn hạn thị trường liên ngân hàng. Chênh lệch giữa Euribor 3 tháng và T-bill 3 tháng phản ánh rủi ro đối tác và rủi ro thanh khoản. + Hakkio và Keeton, 2009 Chênh lệch rủi ro liên ngân hàng Chênh lệch rủi ro liên ngân hàng = Lt 3 tháng – TBRt 3 tháng. Trong đó: Lt 3 tháng là lãi suất cho vay 3 tháng trên thị trường liên ngân hàng Trung Quốc; TBRt 3 tháng là lãi suất TPCP 3 tháng. + Sun và Huang (2016) Khu vực ngân hàng Tín dụng/GDP Tín dụng tăng trưởng quá mức dẫn đến tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng, chất lượng tín dụng suy giảm, ảnh hưởng đến hệ số CAR của ngân hàng. + Tỷ lệ cho vay/huy động Biến số này phản ánh căng thẳng và rủi ro vỡ nợ của khu vực ngân hàng Trung Quốc. + Sun và Huang (2016) Gap tiền gửi Gap tiền gửi âm cho thấy tiền gửi nằm dưới đường xu hướng là dấu hiệu của căng thẳng do ngân hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản và do đó có thể ngân hàng phải bán các tài sản với mức giá thấp, ảnh hưởng đến bảng cân đối của ngân hàng. + Reinhart và Rogoff (2009), Sun và Huang (2016) Gap cho vay Gap cho vay âm có thể được hiểu là dấu hiệu của việc không sẵn sàng cho vay của ngân hàng (có thể do vấn đề từ bên nợ của ngân hàng) hoặc do sự suy giảm nhu cầu tín dụng. + Sun và Huang (2016) THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 76 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018 Nợ xấu/tổng tài sản Tỉ lệ nợ xấu tăng cao phản ánh chất lượng tài sản của ngân hàng suy giảm. + Reinhart và Rogoff (2009), Sun và Huang (2016) Giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng (Chỉ số cổ phiếu ngân hàng) Chỉ số cổ phiếu ngành Ngân hàng thường phản ánh kỳ vọng của thị trường về viễn cảnh khu vực ngân hàng: khi chỉ số này tăng có thể ám chỉ tình trạng tiềm ẩn bong bóng (impending stress-căng thẳng sắp đến) trong khi tình trạng suy giảm kéo dài chính là một dấu hiệu của căng thẳng. - Reinhart và Rogoff (2009) Blix Grimaldi (2010) Mức độ biến động của chỉ số ngành ngân hàng Phản ánh sự không chắc chắn của các nhà đầu tư về giá trị của khu vực ngân hàng.. + Louis và Vouldis (2016) Βeta của hệ thống ngân hàng Hệ số Beta phản ánh rủi ro của khu vực ngân hàng, hệ số Beta tăng phản ánh khu vực ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. + Balakrishman và đồng sự (2011) Rủi ro đặc thù của giá cổ phiếu ngân hàng Rủi ro đặc thù của ngành ngân hàng, như rủi ro gắn với sự kiện cụ thể ngành ngân hàng, được xác định bằng phương sai của phần dư của mô hình thị trường. + Louis và Vouldis (2016 Thị trường ngoại hối Giảm giá của đồng tiền nội tệ Đồng nội tệ giảm giá cho thấy sự gia tăng mức độ không chắc chắn về giá trị của đồng tiền quốc gia. + Eichengreen và đồng sự (2004), Sụt giảm dữ trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối giảm tác động tiêu cực tới khả năng thanh toán quốc tế cũng như an ninh tài chính tiền tệ của nước đó, gia tăng mức độ rủi ro của thị trường ngoại hối. + Kaminsky, Lizondo và Reinhart (1998); Caramazza, Ricci, và Salgado (2000) Thị trường chứng khoán Chỉ số giá chứng khoán Chỉ số giá chứng khoán giảm cho thấy tổn thất dự tính lớn hơn, rủi ro cao hơn hay tăng mức độ không chắc chắn về lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp. - Bollerslev và đồng sự (1992) Mức biến động của chỉ số cổ phiếu chung Mức biến động của chỉ số cổ phiếu chung tăng phản ánh tăng tính không chắc chắn về các điều kiện cơ sở và hành vi của các nhà đầu tư. + Hakkio và Keeton, 2009 Thị trường nợ Nợ nước ngoài Vay nợ quá mức- các khoản nợ tích lũy- chính là một khoản thuế với sản lượng trong tương lai, cản trở các hoạt động đầu tư tư nhân có hiệu quả và tạo ra rất nhiều gánh nặng lên các nỗ lực của chính phủ. + Erbil và Salman (2006) Chênh lệch lợi tức trái phiếu Chênh lệch giữa lợi tức trái phiếu dài hạn và lợi tức trái phiếu ngắn hạn được xem là chỉ báo cho suy thoái kinh tế và là biến đại diện cho sự không chắc chắc trên thị trường TPCP. + Sun và Huang (2016) Chênh lệch trái phiếu chính phủ Chênh lệch này được xác định bằng lợi tức TPCP Trung Quốc 10 năm và lợi tức TPCP Mỹ 10 năm. + Sun và Huang (2016) Dấu +/- phản ánh tác động cùng chiều/ngược chiều của biến số đến căng thẳng tài chính. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 77Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018 một số quốc gia, có thể hệ thống các biến số phản ánh căng thẳng trong từng khu vực thị trường tài chính như sau (Bảng 1). Kinh nghiệm của Trung Quốc và Hi Lạp về xây dựng FSI cho thấy việc nghiên cứu để xây dựng FSI cho Việt Nam là hết sức cấp thiết. FSI được xác định dựa trên các biến căng thẳng đơn lẻ, phản ánh mức độ căng thẳng trong từng khu vực của thị trường tài chính, bằng các phương pháp phù hợp, các biến này sẽ được kết hợp thành một chỉ số tổng thể, phản ánh căng thẳng của thị trường tài chính nói chung. Qua nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng FSI của các quốc gia, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: - Việc xây dựng FSI cho Việt Nam là hết sức cần thiết, do đây là một chỉ số biến động theo thời gian, phản ánh tình trạng căng thẳng thực tế của thị trường tài chính, thời điểm bắt đầu và đỉnh điểm của căng thẳng tài chính, hay căng thẳng tài chính đang ở mức độ nào. Do đó đây là một chỉ báo vĩ mô rất hữu hiệu cho những bất ổn của thị trường tài chính, giúp cơ quan quản lý nhận diện được những rủi ro tiềm ẩn của nền kinh tế để đưa ra những giải pháp phù hợp và kịp thời nhằm ổn định thị trường tài chính, góp phần ổn định nền kinh tế. Để xây dựng FSI cho Việt Nam, trước hết cần xây dựng bộ dữ liệu về các khu vực của thị trường tài chính, các dữ liệu được thu thập càng chi tiết, đầy đủ, kịp thời thì việc xây dựng FSI càng trở lên thuận lợi, kịp thời phục vụ công tác dự báo những căng thẳng tài chính tiềm ẩn - FSI phải được xây dựng dựa trên các biến thành phần- là các biến phản ánh căng thẳng của từng khu vực, thị trường trong cả hệ thống tài chính: thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, khu vực ngân hàng, thị trường nợ và vốn cổ phần. Việc xây dựng chỉ số dựa trên những biến căng thẳng thành phần như vậy phản ánh những đặc điểm cơ bản của căng thẳng tài chính: sự biến động lớn trong giá tài sản (lợi tức của thị trường nợ và vốn cổ phần); gia tăng mức độ rủi ro/ không chắc chắn (biến động thị trường vốn và thị trường ngoại hối); thay đổi lớn trong khả năng thanh khoản (chênh lệch TED- chênh lệch lãi suất trên thị trường tiền tệ) và sức khỏe của hệ thống ngân hàng (Beta của hệ thống ngân hàng, thay đổi trong tỉ lệ nợ xấu, quy mô tiền gửi/tiền vay của hệ thống ngân hàng). Nhìn vào các biến số thành phần này có thể thấy được căng thẳng tài chính nào (gắn với ngân hàng, gắn với TTCK, gắn với tiền tệ hay kết hợp các yếu tố đó) dẫn đến suy giảm sản lượng lớn hơn. - Các biến được lựa chọn phải phù hợp với thực tiễn thị trường tài chính tại quốc gia đó và là biến đại diện, phản ánh được mức độ căng thẳng của từng khu vực/thị trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, thị trường tài chính Trung Quốc dựa trên ngân hàng (bank based system), tuy nhiên đến năm 2006 mới có những ngân hàng đầu tiên có cổ phiếu niêm yết trên sàn chứng khoán Thượng Hải (SSE)- Ngân hàng Trung Quốc (BOC) là NHTM nhà nước đầu tiên có cổ phiếu niêm yết trên thị trường các cổ phiếu loại A (A-share market) vào năm 2006 nên khi nghiên cứu về căng thẳng khu vực ngân hàng tại Trung Quốc trong giai đoạn 1994- 2012, dữ liệu bảng cân đối được sử dụng thay cho dữ liệu thị trường (chỉ số cổ phiếu ngành ngân hàng, biến động chỉ số cố phiếu) như các nghiên cứu ở Mỹ hay Canada. Đặc điểm này của thị trường tài chính Trung Quốc cũng khá tương đồng với đặc điểm của thị trường tài chính Việt Nam. Mặc dù hệ thống tài chính của Việt Nam là hệ thống dựa trên ngân hàng, ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực tài chính với khoảng 75% tổng tài sản tài chính, tín dụng được cung cấp bởi hệ thống ngân hàng trong nước của Việt Nam hiện chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn cung ứng cho nền kinh tế, tuy nhiên tính đến năm 2017, mới có 11/35 NHTM có cổ phiếu niêm yết trên các sàn chứng khoán. Do đó, diễn biến giá của các cổ phiếu này chưa phản ánh được diễn biến chung của thị trường ngân hàng. Trong điều kiện đó, dữ liệu bảng cân đối nên được sử dụng để phản ánh đầy đủ hơn những biến động trên thị trường ngân hàng. ■ THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 78 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018 Tài liệu tham khảo 1. Balakrishnan, R., Danninger, S., Elekdag, S., Tytell, I., (2011), “The transmission of financial stress from advanced and emerging economies”, Emerging Markets Finance and Trade 47, 40–68. 2. Cardarelli, R., Elekdag, S., Lall, S., (2009), “Financial Stress, Downturns, and Recoveries”, IMF Working Paper, WP/09/100. 3. Hollo, D., Kremer, M., Duca, M., (2012). CISS- “A Composite Indicator of Systemic Stress in the Financial System”, ECB, Working Paper. 4. Illing, M. and Y. Liu. (2003), “An Index of Finan-cial Stress” Bank of Canada Working Paper No. 2003-14. 5. Kunt, A., Detragiache, E., (1996), “The determinants of banking crises in developed and developing countries”, International Monetary Fund Staff Papers 45, 81–109. 6. Louzis, D.P and Vouldis, A.T, (2016), “ A methodology for constructing a financial systemic stress index: An application to Greece”, Economic Modelling 29 (2012) 1228-1241. 7. Park, C.Y and Mercado, R.V. (2013), “Determinants of financial stress in emerging market economies”, Journal of Banking and Finance, 2013. 8. Sun, L. and Huang, Y., (2016), “Measuring the Instability of China’s Financial System: Indices Construction and an Early Warning system”, Economics, Thông tin tác giả Vũ Thị Kim Oanh, Thạc sĩ Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Email: oanhvtk@hvnh.edu.vn Summary Constructing financial stress index - International experience and lessons for Vietnam In the past few years, financial crisis have brought about signifincant adverse impact on the world economy. To avoid the crisis, market participants and financial authorities should be fully aware of the stress condition of the financial system - the early stage of financial crisis. Therefore, the research on constructing the financial stress index to gauge the instability of the financial system to facilitate actions to prevent financial crisis is very important. This paper represents the experience in constructing the financial stress index in China and Greece, from that, some lessons for Vietnam in constructing financial stress index have been concluded. Key word: financial stress index, financial vulnerablity, banking stress index, money market stress index, equity market stress index, international experience. Oanh Thi Kim Vu, M.Ec. Banking Faculty, Banking Academy In general, the proposed model can overcome the error in the internal credit rating that commercial banks are using. However, the article which is not mentioning the way to calculate the weight set for this model is only introducing the general model for the composite model in the credit rating model. Thus, the future research will focus on the method of calculating composite weight set in order to produce an optimal tiếp theo trang 57 composite model in the internal credit rating model. ■
File đính kèm:
- xay_dung_chi_so_cang_thang_tai_chinh_kinh_nghiem_quoc_te_va.pdf