25 năm cơ học đất và địa kỹ thuật công trình
Cơ học đất và Địa kỹ thuật công trình là một chuyên ngành kỹ thuật, áp dụng những kiến thức,
định nghĩa, khái niệm của toán học, vật lý, hoá học, cơ học, động lực học, thuỷ lực, dao động, môi
trường, sinh vật học vào kỹ thuật xây dựng. Cơ học đất vốn được xây dựng trên kinh nghiệm,
nghệ thuật và trở thành một môn kỹ thuật với sự đóng góp của Terzaghi cách đây hơn 70 năm. Đối
tượng nghiên cứu, các lời giải kỹ thuật và giải pháp công nghệ của cơ học đất và địa kỹ thuật công
trình là Đất, đá, nước, khí với tác động của tải trọng, lực, năng lượng, dòng chảy, áp lực do con
người và thiên nhiên tạo nên. Con người xây dựng nhà, trường, văn phòng, bệnh viện, cầu đường,
bến cảng, nhà máy, sân bay, đập chứa nước, đường hầm, khai thác mỏ đều cần đến cơ học đất
và địa kỹ thuật. Con người chôn lấp phế thải, nạo vét sông ngòi, biển cả, lấn biển, tôn nền, làm sạch
đất, nước, không khí, đều cần có các kiến thức và kinh nghiệm về Địa kỹ thuật và Địa kỹ thuật công
trình. Trượt lở đất tự nhiên, trượt lở bờ sông, bờ biển, xây dựng đê điều, đào kênh mương thuỷ lợi,
phòng chống bão lụt, động đất, sóng thần với mục đích giảm nhẹ thiên tai đều cần các lời giải Địa
kỹ thuật và kiến thức về cơ học đất
Tóm tắt nội dung tài liệu: 25 năm cơ học đất và địa kỹ thuật công trình
cứu trong bài toán dự báo lún. Luận án Tiến sỹ địa chất, Hà Nội 2003. 2. Đoàn Thế Tường và nnk Tính chất lưu biến của đất. Báo cáo tổng kết đề tài, 2004. 4. Larsson R. Consolidation of soft soil. Linkoping, 1986. 6. Goldstein M.N. Mekhanhitsexkiie xvoixtva gruntov. Moxkva 1977. 7. Mextsian X.R. Mekhanhitsexkiie xvoixtva gruntov i laboratornưie metodư ikh opredelenhiie. Moxkva 1974. 8. Pekomendatsiii po opredelenhiiu parametrov polzutsexti i konxolidatsii gruntov laboratornưmi metodami. PNIIIX Goxxtroia XXXR, Moxkva 1989. ---------------------------------------------------- 25 năm cơ học đất và địa kỹ thuật công trình Nguyễn Trƣờng Tiến* Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội cơ học đất và ĐKT Tel:090.3405769; Email: truongtien@gmail.com 25 years of soil mechanics and geotechnical engineering (SMGE) Abstract: This paper make the summary of experiences and analysis on achievements, weakness, challenges, and opportunities of SMGE in Vietnam during last 25 years. Proposals for new model and activities to develop Vietnam society of SMGE as well as lesson learned are presented. The role of soil mechanics, geotechnical engineering for planning, design, implementation, maintenance of projects, protection of environment, prevention and mitigation of natural disasters are discussed. 1. Mở đầu Cơ học đất và Địa kỹ thuật công trình là một chuyên ngành kỹ thuật, áp dụng những kiến thức, định nghĩa, khái niệm của toán học, vật lý, hoá học, cơ học, động lực học, thuỷ lực, dao động, môi trường, sinh vật học vào kỹ thuật xây dựng. Cơ học đất vốn được xây dựng trên kinh nghiệm, nghệ thuật và trở thành một môn kỹ thuật với sự đóng góp của Terzaghi cách đây hơn 70 năm. Đối tượng nghiên cứu, các lời giải kỹ thuật và giải pháp công nghệ của cơ học đất và địa kỹ thuật công trình là Đất, đá, nước, khí với tác động của tải trọng, lực, năng lượng, dòng chảy, áp lực do con người và thiên nhiên tạo nên. Con người xây dựng nhà, trường, văn phòng, bệnh viện, cầu đường, bến cảng, nhà máy, sân bay, đập chứa nước, đường hầm, khai thác mỏ đều cần đến cơ học đất và địa kỹ thuật. Con người chôn lấp phế thải, nạo vét sông ngòi, biển cả, lấn biển, tôn nền, làm sạch đất, nước, không khí, đều cần có các kiến thức và kinh nghiệm về Địa kỹ thuật và Địa kỹ thuật công trình. Trượt lở đất tự nhiên, trượt lở bờ sông, bờ biển, xây dựng đê điều, đào kênh mương thuỷ lợi, phòng chống bão lụt, động đất, sóng thần với mục đích giảm nhẹ thiên tai đều cần các lời giải Địa kỹ thuật và kiến thức về cơ học đất. Ngành cơ học đất, nền móng, Địa kỹ thuật công trình, Địa kỹ thuật môi trường của thế giới và Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong 25 năm qua. Lấy mốc 25 năm vì vào thời điểm 1980 – 1981 Việt Nam tiếp nhận nhiều thiết bị khảo sát hiện trường, phòng thí nghiệm, quy trình, quy phạm, sách, tạp chí, thông tin, từ chương trình UNDP của Liên hiệp Địa kỹ thuật số 3-2005 6 quốc dành cho Liên hiệp khảo sát Bộ xây dựng và chương trình hợp tác giữa Viện KHCN xây dựng với Viện Địa kỹ thuật Thuỵ Điển. Mặt khác sau 5 năm giải phóng miền Nam, nhiều phương pháp thí nghiệm (thí dụ SPT), quy trình quy phạm và sách giáo khoa của các nước phương Tây bắt đầu có sự giao lưu với nền cơ học đất và địa kỹ thuật của miền Bắc, vốn là kiến thức và kinh nghiệm của Liên Xô cũ, Trung Quốc và các nước XHCN khác. Báo cáo trình bày những thành tựu đạt được trong lĩnh vực Cơ học đất và Địa kỹ thuật, một số tồn tại, thách thức và cơ hội cho sự phát triển. 2. Thành tựu 2.1 Khảo sát đất nền và quan trắc Địa kỹ thuật Với sự giúp đỡ của Viện SGI, Thuỵ Điển, EU từ những năm 1979 – 1980 nhiều thiết bị thí nghiệm trong phòng và hiện trường đã được nhập sang Việt Nam. Việt Nam cũng tự chế ra xuyên tĩnh XT80 để khảo sát đất nền. Một số kết luận chính là: - Có thể lấy mẫu đất sét yếu nguyên trạng tại hiện trường bằng các kỹ thuật và công nghệ của Thuỵ Điển, Canada, Nhật, Anh, Pháp. - Có thể xác định khá chính xác độ lún của nền, sức kháng cắt của nền đất yếu, dự tính lún theo thời gian, độ lún thứ phát bằng thí nghiệm nén cố kết trong phòng thí nghiệm, xuyên côn và nén ba trục. Xuyên tĩnh là thiết bị thích hợp để xác định địa tầng, sức kháng xuyên đầu mũi và ma sát - bên thích hợp để dự tính sức chịu tải của cọc, của nền và dự tính độ lún của móng trên nền cát. - Xuyên tĩnh có đo áp lực nước lỗ rỗng cho phép xác định được khả năng thoát nước, hệ số thấm và tiện ích cho thiết kế các loại cọc cát, bản nhựa, tầng hầm, và độ cố kết. - Cắt cánh là thiết bị thích hợp để xác định sức kháng cắt không thoát nước của nền sét yếu. - Xuyên động (SPT) có thể dùng để phân tầng, xác định sức chịu tải của nền, của cọc - Nén ngang trong hố khoan cho phép xác định môđun biến dạng, cường độ, sức chịu tải của nền và của cọc. - Thí nghiệm xác định sức chịu tải của cọc, của nền bằng nén tĩnh cho phép đánh giá chính xác hơn khả năng chịu lực của cọc và của nền. - Thí nghiệm thử đóng cọc bằng lý thuyết truyền sóng CAPWAP cho phép xác định khá chính xác sức chịu tải của cọc, phân bổ ma sát bên, phản lực mũi cọc và quan hệ Tải trọng - Độ lún. - Các thiết bị quan trắc lún, quan trắc nghiêng, đo áp lực, biến dạng, chuyển vị đo cho phép hiển thị đúng đắn sự làm việc của nền, móng, tầng hầm, tường chịu lực 2.2 Xử lý nền đất yếu Nền đất yếu có thể xử lý bằng các phương pháp: - Bản nhựa thoát nước và gia tải trước bằng đất đắp hoặc hút chân không. - Cọc vôi đất, cọc xi măng đất (cường độ thấp). - Cọc cát đầm chặt theo công nghệ của Nhật Bản. - Đất có cốt, vải địa kỹ thuật nhằm phân bổ ứng xuất đều hơn, ngăn cản sự trộn lẫn giữa đất cát và bùn, đồng thời tăng khả năng chịu lực kéo. - Các loại cọc tre, cọc tràm, cọc bê tông ngắn, cọc ống nhựa, ống thép, ống bê tông được sử dụng để xử lý nền đất yếu. Các loại cọc ngắn (khoảng 3 – 4m) được thiết kế như nhóm cọc và khối móng quy ước. Các loại cọc nhỏ (có tiết diện nhỏ hơn 25cm) được thiết kế như các loại cọc truyền thống. - Thay thế đất xấu bằng đất tốt hơn và được đầm chặt. Địa kỹ thuật số 3-2005 6 - Cố kết động: (Sử dụng quả nặng rơi từ độ cao lớn) cho phép tăng quá trình cố kết, giảm độ lún và tăng khả năng chịu tải của nền thích hợp cho các dự án lấn biển, xây dựng cụm, tuyến dân cư. 2.3 Nền móng - Các loại móng băng giao nhau, móng đơn, móng vỏ nón, móng bè được sử dụng khá thành thạo để làm móng cho các công trình nhà ở và hạ tầng kỹ thuật, xã hội. - Cọc đóng, cọc ép, cọc khoan nhồi, cọc khoan đóng tường móng, tường trong đất, neo đất đã trở thành giải pháp kỹ thuật và công nghệ phổ biến. - Cọc bê tông kết hợp với cọc thép (đóng và khoan) đã được sử dụng để xử lý hang động kast. - Cọc đường kính nhỏ (( < 25cm) bằng bê tông, thép, ống nhựa, luồng phục vụ cho việc xây chen trong thành phố, chống lún, gia cường đã thực sự trở thành một giải pháp kỹ thuật và công nghệ có nhiều ưu điểm: ( Tiết kiệm vật liệu và năng lượng; Địa kỹ thuật số 3-2005 6 ( ít gây chấn động. ( Sử dụng vật liệu tối ưu. Tăng ma sát bên; ( Thiết kế, thi công và kiểm tra hết sức dễ dàng. ( Phù hợp với điều kiện kỹ thuật – công nghệ – kinh tế – xã hội Việt Nam. 2.4. Địa kỹ thuật môi trƣờng Từ thập kỷ 90, chúng ta đã bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực này và thu được những bài học kinh nghiệm quý về: - Nhiễm bẩn đất, nước, khí và các giải pháp phòng ngừa. - Nhiễm bẩn nguồn nước uống do amoniac. - Nhiễm bẩn đất và nước do tro xỉ. - Giải pháp ngăn ngừa và bảo vệ ảnh hưởng của các bãi rác và phế thải công nghiệp. - Kinh nghiệm và kỹ thuật sử lý phế thải, rác thải. - Lún sụt đất do khai thác nước ngầm. - Nền móng cho vùng có lún sụt mặt đất. 2.5. Địa kỹ thuật với bảo vệ, phòng chống và giảm thiểu thiên tai. Các chuyên gia cơ học đất, địa kỹ thuật đã nghiên cứu, đề xuất nhiều giải pháp - Cơ chế trượt lở mái dốc, bờ sông, bờ biển, hầm lò, đất đắp - Giải pháp chống trượt lở. - Kỹ thuật và công nghệ làm nhà trong vùng ngập lụt, lũ quét và động đất. - Nền móng các công trình chịu tả i trọng lớn. 3. Hạn chế và yếu kém - Thiếu các sách giáo khoa mới, thiếu thông tin, chậm đổi mới giáo trình và chương trình giảng dạy. - Chất lượng đào tạo chuyên gia cơ học đất, Địa kỹ thuật còn thấp. Thiếu hụt đội ngũ kế cận. Trình độ các Tiến sĩ, Thạc sĩ chuyên gia còn hạn chế. Các luận án cao học và Tiến sĩ còn ít gắn với thực tiễn và nhu cầu phát triển. - ít các công trình về cơ học đất và địa kỹ thuật được công bố. - Thiếu cơ hội học tập, thực tập, tham dự Hội nghị quốc tế và đào tạo ở trình độ cao hơn. - Thiếu tiêu chuẩn chuyên ngành. - Thiếu thư viện Địa kỹ thuật được cập nhật. - Chưa phát huy được vai trò của Hội nghề nghiệp. Thiếu kinh phí hoạt động. - Thiếu sự hợp tác giữa các Trường – Viện – Doanh nghiệp. - Năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy tính, giao lưu quốc tế còn nhiều hạn chế. Cản trở sự hội nhập. 4. Thách thức - Thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong xây dựng do thiếu chuyên nghiệp, đạo đức nghề nghiệp (lương tâm nghề nghiệp) thiếu trách nhiệm với xã hội, nhà dân, đồng nghiệp và sự an toàn. - Tụt hậu, thiếu khả năng cập nhật, thiếu sự sáng tạo và động năng để phát triển. - Kiến thức và kinh nghiệm nghèo nàn, không thường xuyên học tập, nghiên cứu, trao đổi thông tin. - Thiếu sự quan tâm của xã hội, của Nhà nước về sự cần thiết và vai trò của kỹ thuật và kỹ sư. - Chưa hình thành được thị trường cho Khoa học – Kỹ thuật – Công nghệ, tư vấn, giáo dục đào tạo. Không tạo được động lực cho sự tự nguyện cá nhân. Địa kỹ thuật số 3-2005 6 - Chủ nghĩa bằng cấp, chủ nghĩa quyền lực, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cầu danh, cầu lợi, suy thoái đạo đức, coi trọng đồng tiền đã cản trở sự phát triển của KHKT, giáo dục đào tạo, kinh tế, nói chung và chuyên ngành Cơ học đất và Địa kỹ thuật công trình nói riêng. - Thoả mãn, bằng lòng với kiến thức, kinh nghiệm, thiếu ý chí học tập vươn lên. - Thiếu tính cộng đồng để chia sẻ thông tin, kiến thức, kinh nghiệm. Thiếu sự hợp tác. - Chất lượng con người, chất lượng công trình và sản phẩm còn thấp. Các giá trị không được đề cao. 5. Cơ hội Chuyên ngành Cơ học đất và Địa kỹ thuật là nền móng cho một công trình, đồng thời cũng là nền tảng cho sự phát triển. Cơ học đất và Địa kỹ thuật làm việc với đất (Mẹ) với không khí, trời (Cha) với nước (Anh em, bạn bè). Vì vậy chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ tự nhiên, môi trường và đa dạng sinh học. Vì sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, phát triển bền vững và Hội nhập kinh tế quốc tế. Đất nước là cả một công trường lớn, tìm được sự cân bằng giữa Phát triển và Bảo vệ môi trường cần có các lời giải thông minh của kỹ sư địa kỹ thuật. Phát triển bền vững được hiểu là thế hệ hôm nay phải sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên để có thể dành quyền lợi cho các thế hệ tương lai. Đất, nước, không khí đa dạng sinh học, tài nguyên thiên nhiên phải được sử dụng một cách thông minh, khôn khéo trên cơ sở các kiến thức Khoa học – Kỹ thuật – Công nghệ – Văn hoá vững vàng và có trách nhiệm. Cơ hội đặt ra cho các nhà Cơ học đất và Địa kỹ thuật là: - Có hiểu biết sâu sắc hơn và ứng xử đúng đắn hơn với các loại đất nền Việt Nam. Đặc biệt là đất sét yếu. - Tham gia vào công tác quy hoạch sử dụng đất và nước. - Tư vấn kỹ thuật các giải pháp xử lý đất yếu, chống trượt lở mái dốc, bờ sông, bờ biển, đê điều - Tư vấn kỹ thuật cho các giải pháp nền móng tiết kiệm, giảm chi phí và tăng hiệu quả. - Thiết kế và thi công công trình ngầm. - Thiết kế và thi công công trình ven biển, trên hải đảo, vùng sâu vùng xa. - Bảo vệ môi trường. - Phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. - Giải pháp phòng chống động đất. - Kỹ thuật mới, công nghệ mới, vật liệu mới trong ngành địa kỹ thuật. - Phương pháp tính, phần mềm, MTĐT, công nghệ thông tin để đẩy nhanh quá trình nghiên cứu. - Nâng cao trình độ đào tạo. Xuất bản sách, tạp chí, báo chí. - Xây dựng phòng thí nghiệm hợp chuẩn, phòng thử ly tâm, phòng thí nghiệm môi trường để có thể hiểu biết sâu hơn về các giải pháp kỹ thuật. - Phát triển các thiết bị đo, quan trắc, định vị (GPS) nhằm cung cấp các thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho lời giải kỹ thuật và giải pháp công nghệ. - Phòng chống nhiễm bẩn, làm sạch đất và nước bị nhiễm bẩn, bảo vệ sự lan toả, phân bón trong đất và nước của đioxin - Lập quy trình quy phạm về Địa kỹ thuật. - Viết sách, đổi mới giáo trình, chương trình học tập. - Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. - Tham gia vào chương trình đào tạo. Địa kỹ thuật số 3-2005 6 6. Đề xuất về mô hình tổ chức và nội dung hoạt động của Hội cơ học đất và Địa kỹ thuật công trình (2006 – 2009) 6.1 Hội cơ học đất và Địa kỹ thuật công trình Việt Nam (VSSMGE) tiếp tục duy trì là thành viên chính thức của Hội cơ học đất và Địa kỹ thuật công trình quốc tế (ISSMGE). Tích cực tham gia hoạt động của ISSMGE. Mở rộng quan hệ quốc tế với Hội cơ học đất và Địa kỹ thuật công trình của các nước thành viên. 6.2 Ban chấp hành Hội tập hợp đủ đại diện các Trường, Viện, Doanh nghiệp đảm bảo có đủ mạng lưới các chi hội và các chuyên gia. 6.3 Thường trực của Ban chấp hành có 15 người để kịp thời đưa ra các quyết đ ịnh đúng đắn. 6.4 Quỹ của các thành viên đóng góp là nguồn chính cho hoạt động. Vận động cac nhà tài trợ giúp đỡ. 6.5 Tổ chức hoạt động nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, đào tạo, chuyển giao công nghệ để phát huy được năng lực của đông đảo hội viên và có Quỹ cho hoạt động của Hội. 6.6 Bảo trợ và giúp đỡ các hoạt động của Công ty AA – Corp., Viện Địa kỹ thuật và một số đơn vị khác trong công tác tư vấn, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xuất bản phẩm và phát triển công nghệ. Hoạt động của các đơn vị trên góp phần cho sự phát triển của Hội. 6.7 Hội sẽ thành lập các Tiểu ban kỹ thuật để phối hợp các Hội viên giải quyết một nội dung cụ thể. Thí dụ xây dựng một tiêu chuẩn. 6.8 Hội sẽ tiếp tục tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tư vấn, phản biện xã hội, đào tạo, giáo dục, phổ biến kiến thức, tham gia chương trình đăng bạ kỹ sư. 6.9 Hội sẽ tiếp tục phát triển các chương trình, các đề tài Hợp tác quốc tế. Tranh thủ cao nhất sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp nhằm nâng cao kiến thức trình độ, kỹ năng và cơ hội học tập, nghiên cứu. 6.10 Hội sẽ xây dựng chương trình đào tạo và nâng cao trình độ cho kỹ sư Địa kỹ thuật. Tham gia xây dựng chương trình đào tạo Cao học và Tiến sĩ về Địa kỹ thuật. 7. Bài học kinh nghiệm 7.1 Sự phát triển của chuyên ngành cơ học đất và Địa kỹ thuật trong 25 năm qua là nhờ có sự cố gắng nhiệt tình, yêu nghề, yêu đất nước của một thế hệ của một số bộ môn, một số cá nhân. Thiếu những người chủ chốt, các sáng kiến và sự năng động sẽ bỏ qua cơ hội. 7.2 Phải tôn trọng các chữ sau đây trong quan hệ hợp tác và hoạt động nghề nghiệp: Tôn trọng (Respect), Kết hợp (Combination), Trao đổi thông tin (Communication), Nâng cao năng lực (Competence), Cam kết (Commitment), Có đạo đức nghề nghiệp (Ethics), Trách nhiệm ... Đại học Tokyo, Viện cũng đang tiến hành đo liên tục GPS từ 3 năm nay, cho phép liên kết với các trạm tại Philipin, Vân Nam, Vũ Hán, Nhật, Đài loan, Thái Lan để xác định được toạ độ và chuyển dịch tuyệt đối của điểm đo. Viện cũng tham gia đề án GEODESY, hợp tác với các nhà khoa học Đức xác định vec tơ chuyển dịch tại Đà Nẵng [8]. Viện Địa chất cũng đã sử dụng mô hình biến đổi ứng suất Coulomb trong việc đánh giá nguy hiểm động đất cho các đập thuỷ điện Sơn La [10], Bản Uôn trên sông Mã (Hình 10), cũng như đề xuất phương pháp mới và phần mềm xác định tensơ ứng suất từ cơ cấu chấn tiêu động đất [11] . Kết luận Từ thảm hoạ động đất và sóng thần ở ấn Độ Dương, các nhà khoa học Việt nam có thể rút ra một số bài học cho mình trong việc phát triển nghiên cứu nhằm giảm nhẹ thiên tai động đất và sóng thần, trong đó vấn đề nghiên cứu kiến tạo hiện đại Biển Đông cần được đảy mạnh trước một bước, trước khi quyết định đặt các trạm cảnh báo hết sức tốn kém. Bài viết được hoàn thành với sự trợ giúp của chưưong trình nghiên cứu cơ bản. Tài liệu tham khảo 1. Chen, Z., B. C. Burchfiel, Y. Liu et al. (2000), Global Positioning System measurements from eastern Tibet and their implications for lndia/eurasia intercontinental deformation, J. Geophys. Res., 105(B7), 16,215 - 16,227. 2. Dương Chi Công, J. Feigle, 1999. Geodetic measurement of Horiontal Strain accros the Red River fault near Thac Ba, Vietnam, 1963-1994, Journal of Geodesy, 73,298-310, 1999. 3. Kato, T., et al. (1998), lnitial results from WLNG, the continuous GPS network in the western Pacific area, Geophys. Res. Lett., 25, 369- 372. 4. King, R. W., F. Shen, B. C. Burchfiel et al. (1997), Geodetic measurement of crustal motion in southwest China, Geology, 25(2), 179-182. 5. Leloup H. Ph., R. Lacassin, P. Tapponnier, U. Scharer, Zhong Dalai, Liu Xaohan, Zhangshan, Ji Shaocheng and Phan Trong Trinh, 1995. The Ailao Shan - Red river shear zone ( Yunnan, China), Tertiary transform boundary of Indochina, Tectonopysics, V.251, P.3 -84. 6. Makiko lwakuni and Teruyuki Kato, 2004. Crustal deformation in Thailand and tectonics of lndochina peninsula as seen from GPS observations. Geophysical Reseach letters, Vol. 31, L11612, 7. McCloskey, J., S.S. Nalbant, and S. Steacy, Earthquake risk from co-seismic stress, Nature, 434, 291, 2005. Địa kỹ thuật số 3-2005 6 8. Michel, G. W., D. Angermann, P. Wilson et al. (1998), Transient versus secular motion: The possible impact of earthquakes and interseismic loading on the GEODYSSEA site motions, in The Geodynamics of S and SE Asia (GEODYSSEA) Project, eđited by P. Wilson and G. W. Michel, Sci. Tech. Rep. STR 98/14, pp. 75 97, Geoforschungszentrum, Potsdam, Germany. 9. Michel, G. W., et al. (2001), Crustal motion and block behaviour in SE Asia from GPS measurements, Earth Planet. Sci. Lett., 187, 239- 24. 10. Nalbant, S.S., Steacy, S., Sieh, K., Natawidjaja, D., and J. McCloskey, 2005. Updated earthquake hazard in Sumatra, Nature, 435, 756-757. 11. Phan Trong Trinh, 1993. An inverse problem for the determination of the stress tensor from polyphased fault sets and earthquake focal mechanisms, Tectonophysics, V.224, p.393-411. 12. Phan Trong Trinh, Hoang Quang Vinh, 2004. Active tectonics, seismotectonics and Coulomb stress change modelling in Sonla Hydropower dam. Proceeding of International symposium on shallow geology and geophysics, p. 116-127. ------------------------------------------------ Mô hình Địa kỹ thuật có xét đến sự tƣơng thích của lực tƣơng tác và phƣơng pháp cân bằng giới hạn "thực" của mảnh Phan Trƣờng Phiệt* Đại học Thuỷ lợi Nhóm NCS. Trường Giang, Xuân An Viện Khoa học Thuỷ lợi Tel: 8537264 A geotechnical model stresssing the compatibily of the interslice forces and the "true" limit equilibrium method (TLE method)piêc. Abstract: The geotechnical engineer frequently uses limit equilibrium of analysis when studying slopes stability problems. Up to now, one dozen methods of slices have been developped. They differ in the assumption used to render the problem determinate This paper presents a physic- model taking into account the compatibility of the active forces to the resistance forces of the two parts of the sliding mass, on the upper side and lower side of any cross- section . The numeral method and mathematical solution presented herein, may be easily adapted for a computer The theoritical and pratical significance is that the indeterminate of the stability problem have been eliminated and any assumption is not necessary. Địa kỹ thuật số 3-2005 6 1. Mở đầu Đến nay phương pháp phân mảnh (thỏi) được công nhận là phương pháp số để tính toán phân tích trượt đất. Bài toán phân tích trượt đất theo lý thuyết phân mảnh là siêu tĩnh, thiếu hai phương trình. Do vậy để giải bài toán, các nhà khoa học phải vận dụng các thủ thuật: 1) Bỏ lực tương tác giữa các mảnh khi tách riêng từng mảnh ; 2) Giả thiết đường tương tác-quỹ tích của các điểm đặt lực tương tác; 3) Giả thiết góc nghiêng của các lực tương tác. Thọat đầu, khi công cụ tính toán chỉ là thước tính, việc bỏ lực tương tác là thủ thuật cần thiết đặng có lời giải dùng cho thiết kế. Thuộc loại này có các phương pháp: Fellenius, Terzaghi, Tsugaev, Krey, Bishop... Khi công cụ tính toán là máy tính điện tử, việc xét đầy đủ lực tương tác giữa các mảnh là yêu cầu phát triển lý thuyết Cơ học đất và nhiều phương pháp tính đã được đề xuất. Trong số các phương pháp này, phương pháp Janbu dùng thủ thuật giả thiết đường đặt lực tương tác, các phương pháp khác, như pp Spencer, Mogenstern-Price, GLE Canada.. giả thiết góc nghiêng của lực tương tác. Điểm chung nhất của các phương pháp dùng trong Địa kỹ thuật hiện nay là không xét sự tương thich về lực đẩy trượt và lực chống trượt của hai phần khối đất trượt do một lát cắt đứng phân chia trong hoàn cảnh cả hai phần đều ở trạng thái cân bằng trên cùng một mặt trượt. Hai phần đất hai bên lát cắt ứng xử như môt hệ thống đẩy - chống tương tự như hệ thống “tường chắn- đất đắp sau tường” ở trạng thái cân bằng giới hạn mà A,A Gvozdev, với định lý Gvozdev, đã nêu : Dạng phá hoại thực của hệ thống ứng với trị số nhỏ nhất của tải trọng phụ phá hoại. Theo nguyên lý cực trị Coulomb, đối với trường hợp đất đẩy tường, lực đẩy là lớn nhất ứng với đất ở trạng thái cân bằng chủ động; đối với trường hợp tường đẩy đất, lưcđẩy phải là trị số nhỏ nhất ứng với đất ở trạng thái cân bằng giới hạn bị động. Có thể coi nguyên lý cực trị của Coulomb (1776) trong lý thuyết áp lực đất là dạng sơ khai của định lý Gvozdev (1949) Trong công trình này chúng tôi trình bày một mô hình vật lý có xét đến cách ứng xử Đẩy - Chống của hai phần khối đất trượt ở hai bên lát cắt với mục đích đề xuất phương pháp lát cắt đứng để phân tích tính toán trượt đất. 2. Khái niệm về lực đẩy và lực chống của đất hai bên lát cắt Thuật toán truyền thống là tính từng mảnh, từ mảnh ở biên trên, ký hiệu số 1 đến mảnh biên dưới, ký hiệu mảnh n. Lát cắt thứ 1 tách mảnh số 1 ra khỏi khối đất trượt. Mảnh số 1 gây lực đẩy R1 lên phần còn lại của khối đất trượt. Trong hệ thống này, mảnh 1 gây lực đẩy trong trạng thái cân bằng giới hạn và phần đất còn lại, ở trạng thái cân bằng giới hạn, chống lại sự đẩy ấy với mức huy động cường độ chống cắt lớn nhất. Cần lưu ý rằng, nếu phần đất chống lại sự đẩy ở trạng thái cân bằng bền (cân bằng đàn hồi) hoặc cân bằng động học thì bài toán phải không còn ở trạng thái cân bằng giới hạn theo đúng nghĩa. Các phương pháp phân mảnh hiện nay đã bỏ qua sự khác biệt này. Lát căt thứ 2 tách mảnh số 2; mảnh số 1 cùng với mảnh số 2 đẩy phần đất còn lại của khối đất trượt ở trạng thái cân bằng giới hạn. Cứ cắt lát như vậy cho đến hết khối đất trượt để có n mảnh và sự việc lại diễn ra cùng kịch bản. Gọi Ra là lực ngoài đã biết ở biên đỉnh của khối đất trượt và (R là số gia của lực đẩy khi tăng thêm một lát cắt, lực đẩy R1 của mảnh số 1 lên phần còn lại của khối đất trượt xác định theo biểu thức : 11 RRR a (1) R1 đã được xác định, lực đẩy R2 của mảnh số 2 lên phần còn lại của khối đất trượt sẽ là: Địa kỹ thuật số 3-2005 6 212 RRR Suy rộng cho mảnh số i iii RRR 1 ứng với một lát cắt có vô số trị số của lực đẩy R thoả mãn điều kiện cân bằng giới hạn. Điều này phản ánh đúng tính siêu tĩnh của bài toán theo quan điểm về mô hình vật lý hiện dùng. Chính để gỡ sự vô định của lực đẩy R mà các phương pháp hiện nay phải dùng các thủ thuật đã nêu ở trên. Lực chống của phần còn lại của khối đất trượt: Lực chống Rc được hình thành tối đa vì cường độ chống cắt của đất trên phần mặt trượt còn lại đã huy động hết mức. ứng với một lát cắt và một mặt trượt, có một lực chống giới hạn xác định. Hiện chưa tính toán được trị số ấy nhưng về mô hình vật lý, lực chống giới hạn ấy tồn tại và nếu tải trọng ngoài (đối với phần khối đất trượt bên phải lát cắt) tác dụng vượt quá giới hạn này, khối đất sẽ bị phá hoại ở dạng động học. 3. Sự tƣơng thích giữã lực đẩy và lực chống hai bên lát cắt Trạng thái cân bằng của hai phần khối đất trượt hai bên một lát cắt bất kỳ là trạng thái cân bằng giới hạn trên một mặt trượt xác định. Sự tương quan giữa lực đẩy trượt Ri và lực chống trượt Rci (cùng phương tác dụng) trong trường hợp tổng quát như sau : Ri ( Rci (7) Ri ( Rci (8) Mặc dù chưa xác định được trị số và phương của Ri và Rci nhưng về mặt vật lý có thể loại bỏ trường hợp Ri ( Rci vì theo bài toán, các mảnh thuộc phần phải lát cắt ở trạng thái cân bằng giới hạn và do đó chỉ cần xét tương quan Ri ( Rci. Theo thuật toán thường dùng, khi tính toán cho mảnh đứng trước lát cắt đã mặc nhiên không xét đến sự tồn tại vật lý của các mảnh đứng sau. Do vậy có vô số lực đẩy R của mảnh đứng trước buộc phần còn lại của khối đất trượt hứng chịu. Ví dụ ứng với lát cắt số 1, có tập hợp lực đẩt R1j ( j = 1, 2, 3,. .n), với lát cắt số 2 có tâp hợp lực đẩy R2j...với lát cắt thứ i có tập hợp lực đẩy Rịj . Vậy ứng với mỗi lát cắt, lực đẩy R nào là đúng? Về triết học khoa học, chỉ có duy nhất một lực đẩy Ri ứng với lát cắt thư i vừa thoả mãn điều kiện cân bằng giới hạn của các mảnh trước lát cắt và các mảnh sau lát cắt. Tham khảo nguyên lý cực trị của Coulomb trong lý thuyết áp lực đất và theo ý nghĩa vật lý của định lý Gvozdev, lực đẩy duy nhất ấy phải là lực đẩy cực tiểu trong tập hợp lực đẩy Rịj Tóm lại, sự tương thích Đẩy-Chống của hai phần khối đất trượt do một lát cắt được biểu thị bằng điều kiện toán học sau: Ri = min(Ri1 , Ri2 ,Ri3..) = min Rij (9) Nếu biểu thị lực Ri theo số gia (Ri , có ijjiij RRR ,1 (10) trong đó Ri-1 là trị số không đổi ứng với lát cắt i. Do đó, điều kiện tương thích được viết lại như sau: ijiiii RRRRR min..),,min( 321 (11) Vấn đề lý thuyết còn lại là: Liệu có thể lập được hàm Rij, hoặc hàm (Rij không, nếu lập được, hàm Rij, hoặc hàm (Rij có cực trị không và cực trị ấy là max hay min. 4. Thuật toán giải theo mô hình vật lý có xét đến điều kiện tƣơng thích Rất khó giải bài toán theo phương pháp truyền thống khi xét đến điều kiện tương thích cho từng lát cắt. Sau đây sẽ trình bày cách giải theo tam giác đặc trưng. Trước hết vẽ đa giác lực cân bằng cho mảnh thứ i theo thứ tự vectơ W, (R, T, N (hình 1) và chú ý đến các điểm đỉnh của đa giac lực IKLMH, trong đó đỉnh I, K, M nằm trên trục đứng chứa vectơ W; điểm M nằm trên đường Coulomb có phương trình T = Ntg( + cl vẽ trong hệ trục vuông góc TIN. Trục đứng IZ cắt đường Coulomb tại điểm S. Địa kỹ thuật số 3-2005 6 Theo thuật toán, tam giác vuông SKM0 được lấy làm tam giác đặc trưng của mảnh đang xét. Tam giác đặc trưng có hai đặc điểm, một là trong mặt phẳng toạ độ, đỉnh K và cạnh huyền SMo của tam giác (một đoạn của đường Coulomb) là không đổi ứng với một mảnh, hai là tập hợp vectơ số gia của lực đẩy (Rij đều có gốc tại đỉnh K và ngọn nằm trên cạnh huyền SM. Xét một vectơ (R bất kỳ có gốc tại K, có ngọn tại M. Từ hai tam giác SMoK và MM0M1 dễ dàng chứng minh được quan hệ elliptic giữa hai thành phần (Eij và (Xij của lực (Rij 1 00 W X E E jiji (12) trong đó E0 và W0 là hai cạnh của tam giác đặc trưng )sin( sin 0 tg cl WW (13) )(00 tgWE (14) Phương trình (12), đóng vai trò điều kiện cân bằng giới hạn của mảnh, cho phép giải bài toán theo phương pháp cân bằng giớí hạn bằng lối giải tĩnh định. Gọi ( là góc ( 90 độ, kẹp giữa vectơ KM và cạnh huyền SM0, từ tam giác KMM0 lập được biểu thức tính trị số (R : )( sin cos sin )90sin( 00 REER (15) Để xác định cực trị của (R, lấy đạo hàm theo biến ( 2 00 sin cos cos) sin 1 (cos E d d E d Rd (16) (R đạt cực trị khi cos( = 0, tức khi ( = 900 . Điều này phù hợp với trường hợp vectơ KM vuông góc vớí cạnh huyền của tam giác đặc trưng SKM0 và KM là trị số cực tiểu Từ tam giác đặc trưng SKM0 xác định được điều kiện tương thích (11) cosmin..),,min( 0321 ERRRRR ijiiii 17) trong đó E0 xác định theo công thức (14) và ( = ( - ( (18) Từ tam giác đặc trưng và biểu thức (17) lập được điều kiện tương thích ứng với từng mảnh )( tg E X (19) Vậy bài toán phân tích ổn định trượt đất theo lời giải tĩnh định của phương pháp cân bằng giới hạn có hệ phương trình cơ bản gồm hai phương trình để xác định hai đại lượng (E và (X 1. Phương trình cân bằng giới hạn 1 00 W X E Ei (20) 2. Phương trình tương thích )( tg E X (21) Cuối cùng có các công thức tính (X và (E )(cos20 EE (22) )(. tgEX (23) Các công thức trên suy diễn từ ( > 0, vẫn đúng cho trường hợp ( < 0 nhưng khi tính toán cần chú ý đến tác dụng của số âm Hình 2 Đặc biệt khi ( = (, có 0 X (24) sin tg cl E (25) Địa kỹ thuật số 3-2005 6 Trong trường hợp này (hình 3) đường Coulomb và trục của W song song với nhau và điểm S ở tận vô cùng. Cũng như các trường hợp khác, vẫn có (R = min KM nằm ngang nên (X = 0, (E = (R = khoảng cách hai đường sông song. Hình 3 Tài liệu tham khảo 1. D.G.Fredlund. The Analysis of Slopes Hanoi, Vietnam, 1997 2. A.A. Gvozdev. Tính toán sức chịu tải của công trình theo phương pháp cân bằng giới hạn (tiếng Nga). NXB Xây dựng Matxcơva 1949 3. L.M. Kachanov. Cơ sở Lý thuyết dẻo (tiếng Nga) NXB Khoa học, Matxcơva 1969 4. Đ.X. Bảng, N.T.Cường, P.T. Phiệt. Tính toán áp lực đất đá lên công trình. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà nội 1973 5. Phan trường Phiệt. áp lực đất và Tường chắn đất. NXB Xây dựng. Hà nội 2001 6. Phan Truong Phiet. Landslide analyis by method of slides. A.A.Balkema. Rotterdam. The Netherlands 1996 7. Phan Trường Giang. Tính hệ số an toàn ổn định công trình thuỷ trên nền không đồng chất theo phương pháp phân tích hệ thống. Báo cáo khoa học Hội nghị CHTQ lần 7. Hanoi 2002.
File đính kèm:
- 25_nam_co_hoc_dat_va_dia_ky_thuat_cong_trinh.pdf