Cộng đồng tôn giáo - Dân tộc tại Kon tum (nghiên cứu trường hợp công giáo)

Bài viết đề cập hai vấn đề liên quan đến cộng đồng tôn

giáo/Công giáo - dân tộc ở Kon Tum. Một là, sự truyền bá và phát

triển Công giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và việc hình

thành cộng đồng Công giáo - dân tộc ở Tây Nguyên nói chung,

Kon Tum nói riêng từ năm 1848 đến nay. Hai là, tác động của

cộng đồng Công giáo - dân tộc đến một số lĩnh vực tiêu biểu của

đời sống giáo dân ở Kon Tum như: kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn

giáo, v.v.

pdf 12 trang dienloan 2220
Bạn đang xem tài liệu "Cộng đồng tôn giáo - Dân tộc tại Kon tum (nghiên cứu trường hợp công giáo)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cộng đồng tôn giáo - Dân tộc tại Kon tum (nghiên cứu trường hợp công giáo)

Cộng đồng tôn giáo - Dân tộc tại Kon tum (nghiên cứu trường hợp công giáo)
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2014 93 
ĐẶNG LUẬN* 
CỘNG ĐỒNG TÔN GIÁO - DÂN TỘC TẠI KON TUM 
(Nghiên cứu trường hợp Công giáo) 
Tóm tắt: Bài viết đề cập hai vấn đề liên quan đến cộng đồng tôn 
giáo/Công giáo - dân tộc ở Kon Tum. Một là, sự truyền bá và phát 
triển Công giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và việc hình 
thành cộng đồng Công giáo - dân tộc ở Tây Nguyên nói chung, 
Kon Tum nói riêng từ năm 1848 đến nay. Hai là, tác động của 
cộng đồng Công giáo - dân tộc đến một số lĩnh vực tiêu biểu của 
đời sống giáo dân ở Kon Tum như: kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn 
giáo, v.v... 
Từ khóa: Kon Tum, Tây Nguyên, cộng đồng dân tộc - tôn giáo, 
Công giáo, dân tộc thiểu số. 
1. Dẫn nhập 
Truyền bá và phát triển Công giáo trong vùng dân tộc thiểu số ở Tây 
Nguyên là một chủ trương lớn và có ý nghĩa sống còn của Giáo hội Công 
giáo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Người trực tiếp thực hiện sứ mệnh 
này là Giám mục Stéphane Cuénot. Việc truyền giáo lên Tây Nguyên trở 
thành quyết tâm cao của Giáo hội Công giáo Việt Nam và được chuẩn bị 
kỹ lưỡng ngay từ đầu. 
Năm 1848, Giám mục Stéphane Cuénot giao nhiệm vụ cho Nguyễn 
Do (thường gọi là thầy Sáu Do) tìm đường truyền giáo vào vùng Tây 
Nguyên. Đầu năm 1848, Linh mục Combes và thầy Sáu Do dẫn đường 
cùng với bốn thầy giảng và một số chủng sinh khởi hành từ Gò Thị đến 
Trạm Gò, nhưng bị voi đuổi phải bỏ chạy về. Cuối năm 1850, một đoàn 
truyền giáo gồm 15 người, có hai linh mục Dourisboure và Desgouts, do 
thầy Thám (em thầy Sáu Do) dẫn đường đi từ Gò Thị đến Bến - Trạm Gò 
- làng Bơ Ham - làng Bơ Lu - làng Kon Phar - làng Kơ Lang của người 
Ba Na. Năm 1851, sau một thời gian tìm đường xâm nhập, Giám mục 
*
 TS., Ban Dân tộc tỉnh Kon Tum. 
94 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014 
Stéphane Cuénot đã phân vùng truyền giáo Tây Nguyên thành bốn trung 
tâm: Kon Kơ Xâm (người Ba Na), Plei Rơ Hai (người Ba Na ngành Rơ 
Ngao), Kon Trang (người Xơ Đăng) và Plei Chư (người Gia Rai)1. 
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu truyền giáo vào Tây Nguyên, các giáo 
sĩ Công giáo gặp rất nhiều khó khăn như: sự cấm đạo của triều Nguyễn, 
địa hình cách trở và chia cắt, các loại bệnh xứ nhiệt đới, sự bất đồng về 
ngôn ngữ và chủng tộc, v.v... Nhưng khó khăn lớn nhất là sự khác biệt 
giữa Công giáo với các hình thức thờ cúng truyền thống của các dân tộc 
thiểu số địa phương. Một số cộng đồng tuy đã theo Công giáo lâu đời, 
nhưng vẫn không dứt bỏ được các hình thức thờ cúng truyền thống. 
Trong khi đó, Công giáo không chấp nhận việc làm này của đồng bào. 
Cho nên, nhiều người đã từ bỏ Công giáo để quay lại với tập tục thờ cúng 
cũ. Do vậy, việc theo Công giáo của một bộ phận dân tộc thiểu số ở Tây 
Nguyên nói chung, ở Kon Tum nói riêng chỉ mới là bước đầu, việc duy 
trì đời sống đạo nơi họ mới là việc khó khăn hơn nhiều. 
2. Sự hình thành cộng đồng tôn giáo - dân tộc ở Tây Nguyên 
Cộng đồng tôn giáo - dân tộc được hiểu là cộng đồng tộc người theo 
một tôn giáo nào đó, trong đó yếu tố tôn giáo chiếm ưu thế, chi phối yếu 
tố tộc người. Với cách hiểu như vậy, có thể chia các cộng đồng Công 
giáo - tộc người ở Tây Nguyên theo thời gian như sau: 
2.1. Sự hình thành cộng đồng tôn giáo - dân tộc trong thời kỳ đầu 
truyền bá Công giáo vào Tây Nguyên 
 Sau một thời gian truyền giáo trong vùng dân tộc thiểu số, các giáo sĩ 
Công giáo nhận thấy, nếu tiếp tục để tín đồ tân tòng sinh sống cùng làng 
với người ngoại giáo sẽ dẫn đến nguy cơ khó giữ được đạo. Bởi vì, đa số 
dân chúng trong làng xem họ là những kẻ phản bội truyền thống và họ bị 
đối xử với thái độ rất xa lạ. Thời kỳ các giáo sĩ Công giáo làm nhà sống 
chung với dân làng chỉ phát huy tác dụng ban đầu. Về sau, phương thức 
này tỏ ra trở ngại, cần phải thay đổi môi trường sống, thiết lập nơi cư trú 
riêng với những luật lệ riêng nhằm giữ đạo tốt hơn. Phương cách này 
được ghi nhận trong báo cáo thường niên của Giám mục Giáo phận Kon 
Tum như sau: Ở khắp mọi nơi, họ tìm cách chuyển đổi từng cá nhân 
riêng rẽ. Tuy nhiên, cái khối đã luôn hiện diện ở đó và họ đã không làm 
gì được. Phương pháp hay nhất chỉ được tìm thấy sau đó: phải tìm cách 
chuyển đổi toàn bộ ngôi làng, thậm chí một nhóm làng. Ngay chính điều 
Đặng Luận. Cộng đồng tôn giáo – dân tộc 95 
này được hiểu ra thì công cuộc loan báo Tin Mừng bắt đầu có tiến bộ 
trong các khu vực này2. 
Ý định này được Linh mục P. Dourisboure đem ra áp dụng. Từ năm 
1851, vùng truyền giáo Kon Tum xuất hiện nhiều làng mới và các nông 
trại theo ý tưởng này. Các làng mới trong kế hoạch xây dựng phải theo 
mô hình tổ chức sản xuất và đời sống khác với những làng truyền thống. 
Vị trí được chọn để xây dựng mô hình trên thường là những nơi đất đai 
màu mỡ, gần sông suối, ruộng nước; án ngữ những con đường giao thông 
(đường rừng) trong vùng; gần những trung tâm truyền giáo đã xây dựng 
trước đó nhằm hỗ trợ nhau lúc cần thiết; không quá xa, tách biệt với các 
làng ngoại giáo3. 
Cư dân đến khai thác vùng đất mới ban đầu là những tín hữu tân tòng 
sốt sắng. Họ tự nguyện đi khai phá nơi ở mới dưới sự chỉ huy của một 
linh mục, đôi khi là những tín hữu người Kinh từ đồng bằng lên. Sau đó, 
khi đời sống đã ổn định và phát triển, các làng thu hút thêm nhiều cư dân 
khác đến cư trú với điều kiện là theo Công giáo4. 
Lực lượng bổ sung đáng kể cho dân số các làng mới là những nô lệ, tù 
binh chiến tranh được các giáo sĩ Công giáo bỏ tiền chuộc về và đưa đến 
những nơi mới khai phá. Một thành phần quan trọng khác trong các làng 
mới là người Kinh từ đồng bằng đi theo các linh mục lên phục vụ cho 
miền truyền giáo Kon Tum. Họ trực tiếp hướng dẫn, tư vấn cho người 
dân tộc thiểu số các làng mới tiếp cận với cách thức sản xuất mới, nhất là 
kỹ thuật canh tác lúa nước. Qua thời gian, mô hình này đã thành công 
trên nhiều mặt, sản xuất phát triển nhờ áp dụng phương thức sản xuất 
mới, năng suất lao động tăng cao, không còn nạn mất mùa, đói kém đe 
dọa. Sống trong những làng như thế, người dân an tâm về mặt an ninh, 
tránh được những cuộc xung đột giữa các làng. 
Tại những làng Công giáo đầu tiên trên vùng đất Tây Nguyên, giáo sĩ 
đứng ra tổ chức điều hành thay cho bộ máy tự quản truyền thống, lối 
sống đạo đã đẩy lùi các tập tục bị coi là mê tín. Với thành công đó, nơi 
đây thật sự là điểm thu hút người ngoại đạo và là địa bàn để mở rộng 
việc truyền giáo ra các làng khác. 
Ở thời kỳ này, các giáo sĩ xây dựng các làng Công giáo toàn tòng, 
nhằm tách các tân tòng ra khỏi cộng đồng truyền thống, tránh cho tín đồ 
khỏi chịu ảnh hưởng từ các mối quan hệ của làng cũ và giữ đạo được tốt 
96 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014 
hơn. Về sau, khi được xây dựng kiên cố, các làng mới trở thành nơi thu 
hút người ngoại đạo, lan tỏa Công giáo ra các vùng xung quanh với sự 
hấp dẫn và tính ưu việt hơn ở một số phương diện so với làng truyền 
thống. Những làng kiểu này do giáo sĩ trực tiếp xây dựng, nên họ cũng 
trực tiếp điều hành, tổ chức cuộc sống tại đây. Vai trò nổi bật của giáo sĩ 
phần nào làm lu mờ vai trò của người có uy tín trong thiết chế truyền 
thống. 
2.2. Sự hình thành cộng đồng tôn giáo - dân tộc trong thời kỳ Công 
giáo có chỗ đứng trong vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên 
Từ thành công ở các điểm truyền giáo như đề cập, sang giai đoạn 
1885 - 1954, các cộng đồng tôn giáo kiểu như vậy tiếp tục được nhân 
rộng, nhưng với một phương thức khác. Nếu như giai đoạn 1850 - 1885, 
địa bàn truyền giáo phát triển chủ yếu trong vùng người Ba Na với việc 
nhân rộng ảnh hưởng của các làng Công giáo kiểu mẫu, thì sang giai 
đoạn 1885 - 1954, địa bàn truyền giáo được mở rộng ra vùng người Xơ 
Đăng. Nhiều làng xin tòng giáo tập thể và trở lại đạo, nhất là từ năm 1885 
đến năm 1940. Hiện tượng này được các sử gia Công giáo gọi là “lúa 
chín đầy đồng” nhưng “thiếu thợ gặt”. Nói cách khác, việc người dân tộc 
thiểu số từ bỏ thờ cúng truyền thống để theo Công giáo diễn ra không chỉ 
đối với từng cá nhân, mà còn là một cộng đồng làng. Hiện tượng này 
đánh dấu sự thay đổi tâm thức tôn giáo rất lớn trong người dân tộc thiểu 
số. Đồng thời, hiện tượng này cũng cho thấy, việc tạo ra những cộng 
đồng như vậy thể hiện một cách thức truyền bá Công giáo rất đặc thù cho 
từng tộc người. 
Từ những thập niên cuối thế kỷ XIX đến thập niên 30 thế kỷ XX, 
vùng người Xơ Đăng là nơi truyền giáo sôi động và đạt kết quả nhiều 
nhất. Từ năm 1885 đến năm 1908, kết quả truyền giáo đạt được chủ yếu 
trên địa bàn người Ba Na. Trong 94 làng tòng giáo ở giai đoạn này chỉ có 
bốn làng người Gia Rai, ba làng người Xơ Đăng. Nhưng từ năm 1908 
đến năm 1955 có 61 làng tòng giáo, vùng người Xơ Đăng chiếm hơn một 
nửa (33 làng; vùng Rơ Ngao 13 làng; vùng Gia Rai: 9 làng; vùng Ba Na: 
5 làng)5. 
Do số lượng làng tòng giáo tăng lên nhanh chóng, trong khi nhân lực 
truyền giáo có hạn, không thể bao quát tất cả làng mới theo đạo, vì vậy, 
Giáo hội đã thành lập Hội Giáo phu trên vùng đất Tây Nguyên, tạo ra đội 
Đặng Luận. Cộng đồng tôn giáo – dân tộc 97 
ngũ Thầy giảng ở vùng dân tộc thiểu số. Công việc này bắt đầu từ năm 
1908 với việc mở trường đào tạo giáo phu. Đến năm 1915, Luật Các chú 
Giáo phu (sau đây gọi tắt là Luật Giáo phu) được giáo quyền phê chuẩn. 
Sau đó một năm (1916), Hội Các chú Giáo phu (sau đây gọi tắt là Hội 
Giáo phu) được thiết lập nhằm tập hợp các giáo phu trong một tổ chức, 
hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của luật đã có. 
Các giáo sĩ chỉ đóng vai trò hướng dẫn, còn giáo phu trực tiếp thực hiện 
công việc đạo do Luật Giáo phu quy định như: dạy giáo lý cho trẻ nhỏ và 
tân tòng, kể cả giáo lý hôn phối; được thực hiện một số bí tích như Rửa tội 
cho trẻ con, khi trẻ 6 - 7 tuổi, lo cho chúng học kinh bổn để được xưng tội, 
chịu lễ lần đầu. Khi trẻ 13 - 14 tuổi, giáo phu đưa chúng nhận bí tích Thêm 
sức. Ngoài ra, giáo phu có thể được giao làm chứng cho đôi hôn phối; tống 
táng người qua đời; đưa Mình Thánh cho người hấp hối. Giáo phu lo việc 
đèn nến ở nhà thờ, nhà nguyện, xướng kinh, cắt đặt người trông coi cơ sở 
thờ tự, đôn đốc tín đồ tham gia thánh lễ Chủ nhật, nhất là những Lễ Trọng 
trong năm như Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh, v.v... 
Ngoài ra, giáo phu còn tham gia bộ máy tự quản của làng, điều hành 
cả việc thế tục. Thiết chế này đến nay vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở 
những làng Công giáo ở Kon Tum. Như vậy, cơ chế vận hành ở các làng 
Công giáo lúc này không còn khép kín như ở giai đoạn đầu (các làng 
Công giáo kiểu mẫu). Ở đây có sự kết hợp giữa tôn giáo/ Công giáo với 
truyền thống trong việc vận hành đạo và đời. Trong đó, yếu tố tôn giáo 
chi phối nhiều hơn. 
2.3. Sự hình thành cộng đồng tôn giáo - dân tộc trong điều kiện 
Công giáo phát triển và hội nhập văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tây 
Nguyên 
Giai đoạn 1954 - 1975, vùng đất Tây Nguyên chứng kiến nhiều biến 
cố: chiến tranh lan rộng, chính sách cai trị của chủ nghĩa thực dân mới, 
sự gia tăng nhanh chóng số lượng người Kinh. Tất cả sự kiện đó làm 
thay đổi rất nhiều diện mạo Tây Nguyên. Thực tế lịch sử vừa đặt ra 
thách thức, vừa mang lại cơ hội cho Công giáo. Trong bối cảnh ấy, Tòa 
Giám mục Kon Tum đã biết tận dụng cơ hội do thời cuộc mang lại để 
tiếp tục phát triển đạo trong vùng dân tộc thiểu số. Một mặt, Giáo hội 
địa phương đẩy mạnh việc phát triển đạo trong số người Kinh mới di cư 
đến, tạo ra lực lượng giáo dân người Kinh đông đảo, cư trú ở những vị 
98 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014 
trí chiến lược, lấy đó làm bàn đạp để đến với vùng dân tộc thiểu số. Mặt 
khác, Giáo hội địa phương vừa củng cố địa bàn truyền thống chưa có 
chiến sự nổ ra, vừa tập trung hướng ưu tiên truyền giáo vào vùng dân 
tộc Gia Rai, nơi mà các giai đoạn trước mức độ xâm nhập của Công 
giáo còn hạn chế. Có thể nói, sự có mặt của Linh mục Jacque Dournes 
trên vùng đất Cheo Reo từ năm 1954, cùng với sự hỗ trợ đắc lực từ phía 
các giáo sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đến Giáo phận Kon Tum từ 
cuối thập niên 60 thế kỷ XX, đã tạo nên thành công bước đầu nơi người 
Gia Rai, một tộc người có số dân đông nhất Tây Nguyên, nhưng đến với 
Chúa muộn màng hơn các tộc người khác. Từ năm 1960 đến năm 1975, 
Giáo phận Kon Tum đã xây dựng ba trung tâm truyền giáo trải rộng gần 
như toàn bộ vùng đất của người Gia Rai sinh sống: Trung tâm truyền 
giáo Bon Ma Djơng năm 1969 (thị xã Ayun Pa) phía đông; Trung tâm 
truyền giáo Plei Chuet năm 1973 (thành phố Plei Ku) phía tây bắc và 
Trung tâm truyền giáo Plei Kly 1969 (huyện Chư Sê) phía nam giáp với 
huyện EhLeo (Đắk Lắk)6. 
Giáo hội tích cực tham gia các hoạt động xã hội như: xây dựng 
trường học các cấp từ phạm vi giáo xứ đến phạm vi giáo phận; mở các 
trạm khám và phát thuốc tại địa sở, xây dựng bệnh viện tại Kon Tum; 
mở các cơ sở từ thiện ở nhiều nơi phù hợp cho từng loại đối tượng; 
thành lập một số trung tâm dành riêng cho thanh nữ người dân tộc thiểu 
số, Kết hợp truyền giáo với các hoạt động xã hội là đặc điểm truyền 
giáo ở giai đoạn này. 
Từ năm 1975 đến nay, các giáo sĩ, nữ tu Công giáo người nước ngoài 
rời khỏi Việt Nam. Từ đây, Giáo hội Công giáo Việt Nam do người Việt 
Nam cai quản. Tình hình của Giáo phận Kon Tum cũng vậy. Trước năm 
1986, Tòa Giám mục Kon Tum chủ trương nghe ngóng tình hình và chờ 
cơ hội. Sau năm 1986, hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam có phần 
khởi sắc, Công giáo ở Kon Tum cũng nằm trong xu hướng đó. Tòa Giám 
mục Kon Tum chú trọng kiện toàn lại hệ thống tổ chức, sắp xếp lại nhân 
sự, tích cực đào tạo thế hệ giáo sĩ trẻ, nhất là củng cố Giáo hội cơ sở từ 
giáo dân đến đội ngũ chức việc như giáo phu, câu, biện; củng cố các hội 
đoàn đã có từ trước; tăng cường bám sát cơ sở để truyền đạo và củng cố 
đức tin, Tất cả động thái trên đều nhằm thúc đẩy việc truyền giáo và 
phát triển đạo. Thực tế những năm gần đây cho thấy, số lượng tín đồ 
Công giáo trong vùng dân tộc thiểu số ở Kon Tum không ngừng tăng lên 
Đặng Luận. Cộng đồng tôn giáo – dân tộc 99 
so với thời điểm trước năm 1975. Cá biệt, vùng người Gia Rai, số làng và 
người theo Công giáo tăng rất nhanh. Riêng trung tâm truyền giáo Cheo 
Reo vùng người Gia Rai, nếu từ năm 1956 đến năm 1987, chỉ có bảy làng 
theo đạo với 501 tín đồ, 1.279 dự tòng, thì mười năm sau, số lượng tín đồ 
tăng lên 1.361 tín đồ, 3.923 dự tòng, với 79 làng theo đạo. Đến năm 
2005, có 6.217 giáo dân, 5.148 dự tòng7. 
Ở thời kỳ 1954 - 1975, do tác động của chiến tranh, các cộng đồng 
Công giáo - dân tộc có những biến động lớn. Nhiều làng Công giáo buộc 
phải di cư liên tục, một số giáo dân di thực ra khỏi địa bàn cư trú truyền 
thống, bị gom vào ấp chiến lược hoặc di tản đi các tỉnh khác mà không có 
ngày trở lại. Điều này làm xáo trộn về địa bàn cư trú của các dân tộc. Họ 
bị dồn về một nơi, ở gần trung tâm đô thị có điều kiện sống xa lạ với làng 
cũ. Các thiết chế vận hành cũ bị xáo trộn theo. Chính quyền thực dân 
dựng lên thiết chế quản lý mới đóng vai trò thay thế thiết chế cũ điều 
hành cuộc sống dân làng. Thế giới dường như mở rộng hơn đối với họ và 
họ ngỡ ngàng trước sự thay đổi quá nhanh đó. Bây giờ, họ không thể 
quay trở lại như xưa nữa. 
Sau năm 1975, đặc biệt từ năm 1986 đến nay, những thành tựu kinh tế 
- xã hội to lớn mà đất nước đạt được là nền tảng và động lực quan trọng 
để các tôn giáo ngày càng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đối với Công 
giáo, trong Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980, lần 
đầu tiên, vấn đề hội nhập văn hóa, đồng hành cùng dân tộc được đặt ra. 
Đó là “xây dựng trong Hội Thánh một lối sống và một lối diễn tả đức tin 
phù hợp với truyền thống dân tộc”. 
3. Cộng đồng Công giáo - dân tộc với các lĩnh vực của đời sống 
giáo dân ở Kon Tum 
3.1. Trên lĩnh vực xã hội 
Do sự khác biệt về văn hóa, cũng như việc cứng nhắc trong hội nhập 
văn hóa, cho nên trong thời kỳ đầu, các giáo sĩ Công giáo khó tiếp xúc 
với người dân tộc thiểu số. Khi một số làng chấp nhận các giáo sĩ vào 
sinh sống và truyền giáo là lúc xung đột văn hóa nảy sinh. Đa số dân làng 
quay lưng lại với những tín đồ tân tòng. Điều này gây ra nhiều bất lợi cho 
các nhà truyền giáo và các tín hữu. Bởi vì, những chung đụng và ràng 
buộc của truyền thống sẽ ảnh hưởng đến đời sống đạo của tín đồ. Thực tế 
cho thấy, nhiều người do không chịu nổi sức ép của dư luận đã bỏ đạo. 
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014 
Trước tình hình này, các giáo sĩ đã đưa giáo dân ra sống riêng để tránh 
những phiền toái và để giữ đạo tốt hơn. Họ lập ra những làng Công giáo 
toàn tòng. Ở những làng Công giáo này, bộ máy tự quản trong thiết chế 
làng truyền thống như chủ làng, hội đồng già làng, thủ lĩnh quân sự, chủ 
nhà rông, thầy cúng, chủ đất,... được thay thế bằng bộ máy quản lý mới. 
Ở đó, các giáo sĩ là người thay thế chủ làng và bộ máy tự quản quán 
xuyến tất cả công việc, từ đối nội đến đối ngoại, từ kinh tế đến chính trị, 
an ninh Các giáo sĩ ra sức xây dựng những làng này trở thành nơi kinh 
tế phát triển nhờ áp dụng phương pháp canh tác mới, đảm bảo về mặt an 
ninh, hiện tượng chiến tranh hoặc mối đe dọa từ các làng ngoại đạo ít xảy 
ra hơn trước. Họ xem đây là những làng Công giáo kiểu mẫu, những 
thành lũy kiên cố với mục đích phát triển tín đồ, vừa giữ đạo đối với tân 
tòng, vừa thu hút người ngoại đạo, vì thấy lợi ích của làng Công giáo 
mang lại với điều kiện là theo đạo. 
Ở những làng có Công giáo, cuộc sống được tổ chức lại. Theo đó, các 
giáo sĩ đóng vai trò như chủ làng tổ chức, điều hành mọi việc. Những 
làng Công giáo mới thành lập, vai trò của giáo sĩ càng quan trọng. Ở nơi 
này, họ mới có điều kiện hiện thực hóa những dự định mà ở những làng 
truyền thống dường như không thể. 
Sự hiện diện của Công giáo trong vùng dân tộc thiểu số đã làm thay 
đổi diện mạo của tổ chức và thiết chế buôn làng truyền thống. Việc hình 
thành các xứ đạo, họ đạo ít nhiều phá vỡ tính tự trị, khép kín của buôn 
làng. Một họ đạo có thể từ hai đến ba làng; một xứ đạo gồm nhiều làng, 
bao trùm lên cả một vùng rộng lớn. Điều này làm cho tổ chức làng truyền 
thống được mở hơn, đồng thời cũng lỏng lẻo hơn. Thay đổi lớn nhất là 
thiết chế truyền thống gần như bị thiết chế Công giáo thay thế hoặc làm 
cho tê liệt. Bộ máy tự quản buôn làng có từ lâu đời nay nhường chỗ cho 
giáo phu, linh mục,... Điều này tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa vùng có 
Công giáo và không có Công giáo. 
3.2. Trên lĩnh vực kinh tế 
Việc dời làng, sống du canh, du cư của đồng bào dân tộc thiểu số thật 
sự là một trở ngại lớn đối với việc truyền giáo và phát triển Công giáo. 
Hoàn cảnh đặt ra đối với các giáo sĩ là làm sao thay đổi được thói quen 
này. Cuộc sống định canh, định cư đã tạo ra những điều kiện thuận lợi 
hơn đối với đời sống của đồng bào, thay đổi tập quán từ lâu đời không có 
Đặng Luận. Cộng đồng tôn giáo – dân tộc 101 
lợi cho sản xuất và đời sống; tạo ra một thói quen mới giúp cho người 
dân ổn định đời sống lâu dài, có điều kiện để phát triển sản xuất, bảo vệ 
tài nguyên môi trường. 
Trên thực tế, tập quán sản xuất ở những làng Công giáo đã thay đổi có 
lợi hơn cho sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế, năng suất lao động cao 
hơn so với các làng truyền thống, chẳng hạn như biết dùng trâu bò để cày 
bừa. Sử dụng trâu bò làm công cụ sản xuất là bước tiến lớn thay đổi về 
nhận thức và hành động đột phá dũng cảm trong phương thức sản xuất. 
Bởi vì, trước đó, trâu bò, nhất là con trâu, được xem như con vật thiêng 
chỉ dùng để tế thần. 
3.3. Trên lĩnh vực văn hóa 
Kinh nghiệm truyền giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon 
Tum và Tây Nguyên trên 160 năm cho thấy, Công giáo không có bất kỳ 
công thức chung nào để “gieo hạt giống Phúc Âm” vào khu vực này. Các 
giáo sĩ từ thực tế đã có những cách thức riêng để hội nhập vào các cộng 
đồng cư dân. Quá trình đó cần có thời gian dài để tiếp xúc, thay đổi nhận 
thức và tạo nên mối quan hệ hai chiều. Trong đó, dấu ấn văn hóa của 
các tộc người được giữ lại, tiếp biến qua lăng kính của Công giáo. Nói 
cách khác, văn hóa các dân tộc thiểu số đã có ảnh hưởng trở lại đối với 
Công giáo. 
Trước hết, đó là sự chủ động của giáo sĩ trong việc tìm hiểu và vận 
dụng văn hóa dân tộc để truyền giáo, chẳng hạn như tục kết nghĩa, cùng 
ăn ở và sinh hoạt với đồng bào, học ngôn ngữ, tìm hiểu phong tục tập 
quán, tạo ra chữ viết, lập các làng, họ đạo Công giáo, hội nhập lễ nghi 
Công giáo với văn hóa dân tộc thiểu số, v.v... Vận dụng văn hóa, tập tục 
của các dân tộc thiểu số để thành lập các tổ chức phù hợp với người địa 
phương như trường đào tạo giáo phu, Dòng Ảnh phép lạ, hệ thống trường 
dành cho học sinh dân tộc thiểu số, các cơ sở từ thiện, v.v... 
Sử dụng hình thức sinh hoạt cộng đồng phục vụ cho các nghi lễ tôn 
giáo, như cồng chiêng, điệu múa, dân ca. Cồng chiêng được sử dụng hầu 
hết trong lễ hội truyền thống các dân tộc thiểu số ở Kon Tum, từ lễ hội 
chung của cộng đồng đến từng gia đình và cá nhân, chuyện vui hay 
chuyện buồn đều có cồng chiêng chia sẻ. Trong lễ nghi Công giáo, cồng 
chiêng được sử dụng trong các đám rước, trong và ngoài thánh lễ, khi 
chôn cất người chết tại nghĩa địa. Khi giám mục kinh lý hoặc thực hiện 
102 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014 
thánh lễ ở giáo xứ, giáo họ, đội cồng chiêng cùng với giáo dân đánh cồng 
chiêng tiếp đón long trọng. Đi liền với cồng chiêng là các điệu múa được 
cách điệu và sử dụng cho dâng lễ, dâng hoa. Các giáo sĩ sử dụng một số 
làn điệu dân ca Ba Na như hát xoi, hát Thri vào thánh lễ. Những bài 
thánh ca mang âm hưởng dân ca Ba Na dễ hát, dễ thuộc, phù hợp với tâm 
thức tộc người này. 
Trong các công trình kiến trúc tôn giáo có sự địa phương hóa như Nhà 
thờ Chính tòa Kon Tum, Chủng viện Kon Tum, vừa kết hợp kiểu kiến 
trúc Châu Âu, vừa mô phỏng kiến trúc nhà rông, nhà dài của các dân tộc 
Ba Na, Xơ Đăng8. Các nhà thờ, nhà nguyện xây dựng những năm gần 
đây cũng mô phỏng theo mô típ kiến trúc nhà rông như Nhà thờ xứ Đắk 
Mốt (xã Đắk Mốt, huyện Ngọc Hồi), Nhà thờ xứ Kon Xăm Lũ (xã Đắk 
Tờ Re, huyện Kon Rẫy), v.v... Cung thánh một số nhà thờ được trang trí 
theo phong cách dân tộc, nhà tạm là mô hình nhà rông thu nhỏ; tượng nhà 
mồ được cách điệu trang trí trong và ngoài nhà thờ làm bớt đi những nét 
Phương Tây, đậm nét bản địa, khiến nó trở thành ngôi nhà chung thân 
thương của cộng đồng9. 
Tuy nhiên, ở chiều cạnh khác, một số nét văn hóa truyền thống của 
các dân tộc thiểu số dần dà bị Công giáo hóa. Công giáo làm thay đổi, 
biến dạng nhiều lễ hội, tập tục truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu 
số địa phương. Trong vùng đồng bào theo Công giáo, lễ hội truyền thống 
không còn được tổ chức theo tập tục từ xưa, mà có sự pha chế giữa yếu tố 
cũ và yếu tố mới, hoặc được thay thế bằng các lễ nghi Công giáo. 
Đây là hiện tượng giao thoa giữa văn hóa Công giáo với văn hóa các 
dân tộc thiểu số. Trong quá trình này, Công giáo là chủ thể tác động đến 
văn hóa các dân tộc thiểu số nhiều hơn. 
3.4. Trên lĩnh vực tôn giáo 
Một trong những vấn đề khó nhất khi Công giáo truyền bá vào vùng 
dân tộc thiểu số ở Kon Tum là tín ngưỡng thờ Yang (thần) của đồng bào. 
Sự đụng độ này thường diễn ra từ khi Công giáo lên Tây Nguyên cho đến 
hiện nay. 
Là một tôn giáo độc thần, khi truyền vào cư dân bản địa ở Tây 
Nguyên, các giáo sĩ Công giáo phải chủ động phá thần. Sự lựa chọn giữa 
Thiên Chúa với các vị thần truyền thống đối với tân tòng là quá khó 
Đặng Luận. Cộng đồng tôn giáo – dân tộc 103 
khăn. Nhiều người có cảm giác như kẻ phản bội truyền thống, nên đã bỏ 
đạo do không chịu nổi sức ép tâm lý, sự ghẻ lạnh của cộng đồng. 
Trước tình hình đó, các giáo sĩ đã chấp nhận địa phương hóa Công 
giáo cho tương hợp với văn hóa các dân tộc địa phương. Cho nên, họ 
không chỉ phá thần, mà còn tạo thần dưới nhiều hình thức, chẳng hạn sử 
dụng tên gọi các vị thần truyền thống nhưng thêm nội hàm mới, hoặc tạo 
ra những tên gọi mới. Những vị thần mới được các giáo sĩ giải thích đã 
tồn tại từ rất lâu đời mà cư dân lâu nay vẫn thờ cúng. Nói cách khác, giáo 
sĩ tạo thần bằng cách khoác cho các vị thần truyền thống của đồng bào 
dân tộc thiểu số tên gọi mới hoặc nội hàm Công giáo, tạo tình cảm gần 
gũi và tương hợp trong nhận thức của tín đồ./. 
CHÚ THÍCH: 
1 P. Dourisboure (2008), Dân làng Hồ, Nxb. Đà Nẵng: 11, 138. 
2 Báo cáo số 1017 (năm 1936), tài liệu lưu trữ tại văn khố Hội Thừa sai Paris 
(MEP), Paris, Cộng hòa Pháp. 
3 P. Dourisboure (2008), sđd: 218 - 221. 
4 Nguyễn Hồng Dương (2006), “Hoạt động truyền đạo Công giáo trong vùng dân 
tộc thiểu số ở Giáo phận Kon Tum: một số biểu hiện đặc thù”, Nghiên cứu Tôn 
giáo, số 5 (41): 44. 
5 Tòa Giám mục Kon Tum (1970), Lịch sử truyền giáo Giáo phận Kon Tum, tài 
liệu lưu trữ tại Tòa Giám mục Kon Tum: 22. 
6 Lm. Nguyễn Hoàng Sơn (2005), Sơ lược tiểu sử Trung tâm truyền giáo Cheoreo, 
(giai đoạn II),  
7 Nguyễn Hoàng Sơn (2008), Kỷ niệm đệ nhất bách chu niên (1908 - 2008) 
Trường đào tạo Giáo phu Thánh Cuénot Thể, Báo điện tử của Hội đồng Giám 
mục Việt Nam. 
8 Nguyễn Hoàng Sơn (2008), Bôl Giáo Phu: Một sáng kiến độc đáo - ứng dụng 
thần kỳ tổ chức thầy giảng cho vùng truyền giáo, Báo điện tử của Hội đồng 
Giám mục Việt Nam. 
9 Nguyễn Hồng Dương (2006), “Hoạt động truyền đạo Công giáo trong vùng dân 
tộc thiểu số ở Giáo phận Kon Tum: một số biểu hiện đặc thù”, Nghiên cứu Tôn 
giáo, số 5 (41): 51. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Báo cáo số 1017 (năm 1936), tài liệu lưu trữ tại văn khố Hội Thừa sai Paris 
(MEP), Paris, Cộng hòa Pháp. 
2. Nguyễn Văn Chinh, Mathieu Guérin (2004), “Sự truyền bá của Kitô giáo đối với 
cư dân Tây Nguyên: tác động của chế độ thuộc địa và chiến tranh”, Nghiên cứu 
Tôn giáo, số 2 (26). 
104 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014 
3. P. Dourisboure (2008), Dân làng Hồ, Nxb. Đà Nẵng. 
4. Nguyễn Hồng Dương (2006), “Hoạt động truyền đạo Công giáo trong vùng dân 
tộc thiểu số ở Giáo phận Kon Tum: một số biểu hiện đặc thù”, Nghiên cứu Tôn 
giáo, số 5 (41). 
5. Lm. Nguyễn Hoàng Sơn (2005), Sơ lược tiểu sử Trung tâm truyền giáo Cheoreo, 
(giai đoạn II),  
6. Nguyễn Hoàng Sơn (2008), Kỷ niệm đệ nhất bách chu niên (1908 - 2008) Trường 
đào tạo Giáo phu Thánh Cuénot Thể, Báo điện tử của Hội đồng Giám mục Việt 
Nam. 
7. Nguyễn Hoàng Sơn (2008), Bôl Giáo Phu: Một sáng kiến độc đáo - ứng dụng 
thần kỳ tổ chức thầy giảng cho vùng truyền giáo, Báo điện tử của Hội đồng Giám 
mục Việt Nam. 
8. Tòa Giám mục Kon Tum (1970), Lịch sử truyền giáo Giáo phận Kon Tum, tài 
liệu lưu trữ tại Tòa Giám mục Kon Tum. 
Abstract 
 RELIGIO - ETHNIC COMMUNITY IN KON TUM, VIETNAM 
(A Case Study of Catholicism) 
The paper addressed two issues related to religious communities / 
Catholicism - Ethnic in Kon Tum. The first was the spread and 
development of Catholicism in ethnic minority communities and the 
forming of Catholicism - Ethnic community in the Central Highlands in 
general, Kon Tum in particular from 1848 up to now. The second was the 
impact of Catholicism - Ethnic community in such typical fields of the 
believer’s life in Kon Tum as: economy, culture, society, religion, etc. 
Keywords: Kon Tum, the Central Highlands, religio - ethnic 
community, Catholicism, ethnic minority. 

File đính kèm:

  • pdfcong_dong_ton_giao_dan_toc_tai_kon_tum_nghien_cuu_truong_hop.pdf