Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh được hình thành do sự tác động của điều

kiện gia đình, xã hội và phẩm chất cá nhân. Tư tưởng đó có nhiều nét đặc sắc. Tư tưởng của

Nguyễn Công Trứ về nhân sinh thể hiện chủ yếu ở tư tưởng về các giai tầng xã hội và kẻ sĩ, về “chí

nam nhi” và “hưởng lạc”, về sự dung hợp giữa Nho, Phật, Lão. Tư tưởng của ông, tuy mang lập

trường Nho giáo phong kiến, nhưng thể hiện khát vọng về tri thức, đạo đức, ý chí dấn thân cống

hiến cho nước, cho dân. Nguyễn Công Trứ là một mẫu mực của kẻ sĩ từ trong tư tưởng đến trong

hành động, luôn khát vọng sáng tạo vì lợi ích của đất nước, nhân dân

pdf 12 trang dienloan 5600
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh
64 
Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh 
Nguyễn Bình Yên1 
1 Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội. 
Email: nguyenbinhyen.humg@gmail.com 
Nhận ngày 20 tháng 11 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 3 tháng 12 năm 2018. 
Tóm tắt: Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh được hình thành do sự tác động của điều 
kiện gia đình, xã hội và phẩm chất cá nhân. Tư tưởng đó có nhiều nét đặc sắc. Tư tưởng của 
Nguyễn Công Trứ về nhân sinh thể hiện chủ yếu ở tư tưởng về các giai tầng xã hội và kẻ sĩ, về “chí 
nam nhi” và “hưởng lạc”, về sự dung hợp giữa Nho, Phật, Lão. Tư tưởng của ông, tuy mang lập 
trường Nho giáo phong kiến, nhưng thể hiện khát vọng về tri thức, đạo đức, ý chí dấn thân cống 
hiến cho nước, cho dân. Nguyễn Công Trứ là một mẫu mực của kẻ sĩ từ trong tư tưởng đến trong 
hành động, luôn khát vọng sáng tạo vì lợi ích của đất nước, nhân dân. 
Từ khóa: Nguyễn Công Trứ, nhân sinh, phong kiến, Nho giáo. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: Nguyen Cong Tru's thought about human life was formed with the impact of family, 
social conditions and his personal qualities. It has many characteristics and is demonstrated 
primarily in the thoughts on social strata and the intellectuals, on the “ambitions of the males” and 
the “enjoyment of life’s comforts”, and on the harmony among Confucianism, Buddhism, and 
Taoism. Although Nguyen Cong Tru’s thought was based on a feudal Confucian stance, it 
expressed his aspiration for knowledge, morality and will to devote himself to the country and the 
people. Nguyen Cong Tru is a model of an intellectual, as assessed from thought to action, who 
always aspires for creation to benefit the country and the people. 
Keywords: Nguyen Cong Tru, human life, feudalism, Confucianism. 
Subject classification: Philosophy 
1. Mở đầu 
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là một trong 
những danh nhân đa tài, có tầm ảnh hưởng 
không chỉ trong thời đại của ông mà đến cả 
ngày nay. Mặc dù đã có nhiều công trình 
nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ, nhưng tư 
tưởng của ông dường như vẫn chưa được 
khắc họa một cách đầy đủ. Càng đi sâu 
nghiên cứu tư tưởng của ông, chúng ta sẽ 
càng thấy ở ông vẫn còn những điều mới 
mẻ, bất ngờ và thú vị mới, “còn nhiều điều 
Nguyễn Bình Yên 
65 
vỡ lẽ về ông đang chờ ở phía trước”. 
Nguyên nhân nào đã làm cho Nguyễn Công 
Trứ có ảnh hưởng mạnh mẽ, thu hút sự chú 
ý của xã hội nhiều như vậy? Những nét đặc 
sắc trong tư tưởng của ông về nhân sinh là 
gì? Đây là một câu hỏi nghiên cứu cần quan 
tâm giải đáp. Bài viết này phân tích các yếu 
tố tác động và nội dung tư tưởng của ông về 
nhân sinh, qua đó làm rõ thêm những nét 
đặc sắc trong tư tưởng của ông. 
2. Các yếu tố tác động đến tư tưởng của 
Nguyễn Công Trứ về nhân sinh 
Nguyễn Công Trứ (tên tục là Củng, tự là 
Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy 
Văn) sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu 
Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 
(19/12/1778); quê ở làng Uy Viễn, huyện 
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra 
trong một gia đình có truyền thống nho 
học. Cha ông là Nguyễn Công Tấn, đậu cử 
nhân năm 24 tuổi, làm giáo thụ phủ Anh 
Sơn, Nghệ An; sau làm tri huyện Quỳnh 
Côi, rồi làm tri phủ Tiên Hưng (Thái 
Bình). Khi Nguyễn Huệ đưa quân đội Tây 
Sơn ra Bắc, Nguyễn Công Tấn giương cờ 
phò Lê chống lại, nhưng không thành, sau 
đó đưa gia đình về quê mở trường dạy học. 
Với ý chí “trung thần bất sự nhị quân”, 
mặc dù mấy lần Nguyễn Huệ mến tài đức 
của ông, mời ông ra làm quan nhưng ông 
đều từ chối. Mẹ của Nguyễn Công Trứ (là 
con gái quan quản nội thị cảnh nhạc bá, họ 
Nguyễn, người xã Phụng Dực, huyện 
Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam, nay thuộc Hà 
Nội) cũng theo giáo lí Nho giáo. Do thời 
thế thay đổi, cha của mình ở ẩn, nên 
Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong 
cảnh “quý tộc nghèo”. Con đường học để 
làm quan bế tắc bởi những khủng hoảng 
chính trị kéo dài. Chỉ sau khi nhà Nguyễn 
lật đổ nhà Tây Sơn, thì tình hình chính trị 
mới dần ổn định, kinh tế mới phục hồi và 
phát triển. Lúc này, giáo dục nho học được 
mở mang, chế độ khoa cử nho học tuyển 
chọn người tài cho bộ máy quan liêu được 
khôi phục. Đó là những điều kiện hết sức 
thuận lợi cho Nguyễn Công Trứ. Ông nổi 
tiếng là thần đồng, nhưng khoa trường của 
ông lại như “con tạo” trêu ngươi. Sau khi 
đã “năm lần ba lượt giành khoa bảng” thất 
bại, mãi đến năm 1819, ở tuổi 41, ông mới 
thi đậu trong kì thi hương và đậu giải 
nguyên. Như thế cũng đã là một chuyện 
đặc sắc và thú vị của Nguyễn Công Trứ và 
của lịch sử khoa cử Việt Nam trước đây. 
Sinh trưởng trong một gia đình có truyền 
thống nho học, nên Nguyễn Công Trứ chịu 
ảnh hưởng chính từ hệ tư tưởng phong kiến 
Nho giáo. Trong hệ tư tưởng đó, nội dung 
cốt lõi là thuyết “cương thường”, phương 
châm hoạt động chủ đạo là “chính danh”, 
đường lối trị quốc cốt lõi là “nhân trị”. 
Hoàn cảnh gia đình, xã hội trong giai đoạn 
lịch sử mà ông sinh ra, lớn lên, hoạt động là 
khá đặc biệt. Hoàn cảnh đó đã cùng với 
những xu hướng thiên bẩm cá tính là cơ sở 
hình thành tư tưởng của Nguyễn Công Trứ. 
Nguyễn Công Trứ là người sớm bộc lộ 
lý tưởng sống theo những chuẩn mực Nho 
giáo. Theo lý tưởng đó, ông xác định chí 
lập thân với gánh trung hiếu trên vai: “Có 
trung hiếu nên đứng trong trời đất/Không 
công danh thời nát với cỏ cây”, “Đã mang 
tiếng ở trong trời đất/Phải có danh gì với 
núi sông”. Con đường lập thân nho sĩ là văn 
chương, muốn thành danh là phải đi thi để 
“trả nợ cầm thư”. Đối những người văn tài 
nuôi chí lập thân bằng khoa cử thì việc đậu 
kì thi hương, giành tấm bằng cử nhân là 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
66 
một thành công quan trọng, nhưng mới là 
bước đầu. Họ cần phải tham gia thi hội, thi 
đình với mục tiêu có bằng tiến sĩ, được vua 
ban mũ, áo, ngựa, xe về quê “vinh quy bái 
tổ”. Nhưng Nguyễn Công Trứ đã dừng lại 
với tấm bằng cử nhân để chọn con đường đi 
khác: con đường “dấn thân” cho sự nghiệp 
“kinh bang tế thế” mà ông mong đợi mấy 
mươi năm. Đây cũng là một nét khá đặc sắc 
trong phẩm chất cá nhân của ông. Bởi lẽ, 
chỉ sau khi đỗ giải nguyên trong kì thi 
hương, ông mới nhận được tấm “thông 
hành” để bước vào “quan trường hoạn lộ”, 
thi triển tài năng, thực hiện hoài bão vì 
nước, vì dân. Nếu ông tiếp tục con đường 
khoa bảng, có thể tên của ông đã được vinh 
khắc trên bia tiến sĩ, nhưng chắc chắn dân 
tộc Việt Nam không có một Nguyễn Công 
Trứ “kinh bang tế thế”, được nhiều thế hệ 
biết đến, ngưỡng mộ, học tập như ngày nay. 
Mặt khác, thi đậu cử nhân ở tuổi 41 đã là 
quá muộn so với đời người, thêm vào đó là 
kinh nghiệm “năm lần, ba lượt giành khoa 
bảng” mới thành cử nhân đã buộc ông phải 
lựa chọn. Ông đã nắm bắt cơ hội này để dấn 
thân. Đó là hành động đặc sắc vì sự sáng 
suốt, lựa chọn tối ưu, xứng đáng là bài học 
kinh nghiệm quý báu để người Việt Nam, 
vốn hiếu học nhưng quá coi trọng bằng cấp 
ngày nay vận dụng. 
Thường thì người ta, chỉ sau khi đỗ đạt 
đại khoa, làm chức quan to trong triều, mới 
dám đệ trình lên nhà vua kế sách nào đó. 
Nguyễn Công Trứ khác họ. Với nhiệt huyết 
của tuổi trẻ và những kiến thức thu lượm 
được được từ đạo “thánh hiền”, năm 1803, 
khi vẫn còn là một nho sinh nghèo, Nguyễn 
Công Trứ đã dũng cảm dâng lên vua Gia 
Long bản Thái bình thập sách, một cương 
lĩnh trị nước ngắn gọn, súc tích, nhưng cơ 
bản đúng đắn và nhân văn. Nội dung ở đó 
là: “Giữ lòng trung ái/Chăm đạo dâu 
con/Phát triển nông trang/Trừ bỏ dị 
đoan/Sửa đổi phong tục/Thanh thải tham 
tàn/Tiến cử tài đức/Giữ nghiêm luật lệ”. 
Hành động của ông để lại dấu ấn khá 
mạnh, được sử gia nhà Nguyễn ghi lại 
trong Đại Nam thực lục. Tất nhiên, Thái 
bình thập sách của ông đã rơi vào “thinh 
không”. Nhưng không vì thế mà ông nản 
chí. Chí khí và bản lĩnh của ông thật mạnh 
mẽ, mang hào khí Đông A, tuy không sục 
sôi “đền nợ nước, trả thù nhà” như thời 
Trần, nhưng cũng thể hiện tinh thần yêu 
nước sâu sắc của nhà nho trong thời kì đầu 
nhà Nguyễn. Đây thực sự là một nét đặc 
sắc của ông. 
Năm 1820, với tấm bằng cử nhân giải 
nguyên, Nguyễn Công Trứ được bổ giữ 
chức hành tẩu ở Quốc sử quán, mở đầu 
“quan lộ”, rồi làm quan đến gần 30 năm. 
Thường thì người đỗ cử nhân không được 
giữ chức hành tẩu ở Quốc sử quán, vì đó 
một chức vụ chỉ được giao cho những 
người đỗ đại khoa. Ít ai có thể ngờ được 
rằng ở tuổi 42 Nguyễn Công Trứ mới bước 
vào quan trường mà lại làm quan dài đến 
gần 30 năm (1820-1849). Trước đây, ở tuổi 
50, người ta đã bước vào thế giới người già, 
người thọ 70 tuổi là “xưa nay hiếm”, người 
làm quan ở tuổi 70 lại càng hiếm. Nguyễn 
Công Trứ phải là một người cơ thể tráng 
kiện, khí chất mạnh mẽ, tài năng xuất 
chúng so với yêu cầu của các chức vụ mà 
ông nắm giữ, mới có thể vượt qua những 
“hiểm họa quan trường”, làm quan lâu dài 
và thọ đến như vậy. Nhiều người khí chất 
mạnh mẽ, tài năng xuất sắc nhưng không 
thể giữ được chức quan lâu dài, bị sa thải vì 
lý do nào đó, thậm chí có người trở thành 
“phản nghịch”. Nhiều người tài năng nhưng 
không đủ bản lĩnh dấn thân vì họ thấy xã 
Nguyễn Bình Yên 
67 
hội đầy chông gai, trắc trở. Có người chọn 
con đường dạy học với mong muốn học trò 
sẽ nối chí thành công. Có người thông qua 
văn chương để gửi gắm ý chí của mình, lên 
án xã hội bất công. Có người thực hiện 
“hành tàng” bằng cách thuận thời làm quan, 
khó khăn thì lui về dạy học, ở ẩn hay 
“nương nhờ cửa Phật”. Đa số người ta 
chọn cách làm quan “an toàn”, “dung 
thân” chốn quan trường để giữ gìn danh 
vọng, bổng lộc. Cũng chẳng thiếu những 
người trở thành tham quan, vơ vét của dân 
để “vinh thân phì gia”. Nguyễn Công Trứ 
khác với họ. Đặc biệt, trong gần 30 năm 
tham chính, với tính cách bất lụy, bất dung 
của mình, ông đã phải chịu nhiều sóng gió, 
bị “thăng giáng” vài lần chỉ vì những lí do 
không đâu. Người khác đã có thể gục ngã 
hoặc từ bỏ, nhưng ông vẫn vượt qua để rồi 
tiếp tục đóng góp hết sức xuất sắc cho 
nước, cho dân. 
Thường thì các quan lại xuất thân khoa 
bảng chỉ ngồi bàn giấy giải quyết việc công 
đường, người trông coi dạy học, người chép 
sử, làm thơ hoặc làm quân sư cho các võ 
tướng cầm quân đánh giặc. Ít người lập 
công danh trên nhiều cương vị. Nguyễn 
Công Trứ không chỉ giỏi xét việc công 
đường, làm giáo dục, mà còn giỏi cả những 
việc “cửa Khổng, sân Trình”. 
Sau chức hành tẩu ở Quốc sử quán, ông 
đã trải qua rất nhiều cương vị: tri huyện 
Đường Hào, Hải Dương (1823); tư nghiệp 
Quốc Tử Giám (1824); phủ thừa phủ Thừa 
Thiên (1825); tham tán quân vụ, rồi thị lang 
Bộ Hình (1826); hữu tham tri Bộ Hình, 
sung chức dinh điền sứ, chuyên coi việc 
khai khẩn đất hoang (1828). Năm 1832, ông 
được bổ giữ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, 
cùng năm thăng tham tri Bộ Binh, giữ chức 
Tổng đốc tỉnh Hải An. Năm 1845, Nguyễn 
Công Trứ làm chủ sự Bộ Hình, năm sau 
làm quyền án sát Quảng Ngãi, rồi ra làm 
phủ thừa phủ Thừa Thiên. Năm 1847, ông 
được thăng làm phủ doãn Thừa Thiên và 
giữ chức này cho đến khi nghỉ hưu, năm 
1849, ở tuổi 71. 
Ông là văn sĩ nhưng lại mấy phen trực 
tiếp cầm cờ tướng quân đi dẹp “thù trong 
giặc ngoài” và luôn chiến thắng, cho dù đó 
là chiến trường miền núi, đồng bằng hay 
trên biển. Ông có tầm nhìn xa, trông rộng 
cả về chính trị lẫn kinh tế, giỏi thủy lợi và 
kinh tế thương mại. Ví dụ, năm 1828, được 
bổ nhiệm làm dinh điền sứ, ông đã sử dụng 
nhiều biện pháp độc đáo để tổ chức nhân 
dân, binh lính đắp đê quai biển, khai khẩn 
vùng ven biển Bắc Bộ, lập ra huyện Tiền 
Hải (tỉnh Thái Bình) và huyện Kim Sơn 
(tỉnh Ninh Bình), đem lại ruộng đất cho 
hàng ngàn nông dân nghèo. Ông xin triều 
đình cho những người đã tham gia cuộc nổi 
dậy cùng Phan Bá Vành được tham gia vào 
lực lượng khẩn hoang và được nhận đất mới 
khai khẩn để “làm lại cuộc đời”. Đó là một 
công trình không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà 
có ý nghĩa chính trị sâu sắc, góp phần ổn 
định, phát triển đất nước. Nhân dân hai 
huyện Tiền Hải, Kim Sơn đã lập đền thờ 
ông ngay khi ông còn sống; khi ông đã nghỉ 
hưu lại đón rước ông về thăm với nghi thức 
đặc biệt. Đây là hiện tượng rất hiếm có 
trong lịch sử, vì nó tôn vinh ông, nhưng 
cũng vì nó ông bị dị nghị từ phía triều đình 
và quan lại đương triều. 
Trong khi hầu hết các quan lại sung túc 
về vật chất bởi tham nhũng, tiêu cực thì ông 
vẫn nghèo bởi thanh liêm. Chuyện kể rằng, 
có người tìm đến hối lộ, ông chẳng những 
không nhận mà còn bắt đưa ra xử tội. Vua 
Minh Mạng biết ông nghèo, ghi nhận công 
lao đóng góp của ông nên vua đã mượn cớ 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
68 
ban 20 gói trà cho ông mà đặt vào trong 
mỗi gói trà một nén bạc để ông tiêu dùng. 
Hiếm có vị quan nào được nhà vua quan 
tâm theo cách đặc biệt như vậy. Khi đã 70 
tuổi, Nguyễn Công Trứ mấy lần xin về hưu 
nhưng vua Thiệu Trị không cho. Hiếm có 
người cao tuổi nào lại được trọng dụng như 
ông. Năm 1849, ở tuổi 71, niên hiệu Tự 
Đức thứ nhất, ông mới về hưu. Khi đã 80 
tuổi, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước 
ta, ông vẫn viết thư dâng lên Tự Đức xin 
được đi đánh giặc. Lịch sử có được mấy 
người như ông! 
Phần đông các nhà nho luôn giữ gìn hình 
ảnh của mình bằng cách che giấu những 
hành vi mang tính “hưởng thụ”. Nguyễn 
Công Trứ luôn tận tụy hoàn thành nhiều 
trọng trách, nhưng trong cuộc sống “đời 
thường” của ông vẫn đong đầy những cảm 
xúc thăng hoa bởi “lạc thú”. Ông say mê 
đào hát, cầm, kì, thi, họa cả từ khi trai trẻ, 
trong lúc làm quan, cho đến khi đã nghỉ 
hưu. Cứ mỗi khi có cơ hội, ông đều nắm lấy 
và hưởng thụ. Ông có tới 14 người vợ, 
nhiều con, có những mối tình nổi tiếng say 
đắm với đào hát. Ở tuổi 73, ông vẫn còn 
cưới thêm nàng hầu trẻ hơn ông mấy chục 
tuổi. Ngoài các vị vua, chúa, hiếm một vị 
quan nào, nhất là quan thanh liêm, lại có 
đời sống vợ chồng, tình cảm nam nữ đến độ 
phong lưu như ông. Dù khó có thể biết 
chính xác được rằng, ông đã gặp bao nhiêu 
rắc rối, phải chi phí bao nhiêu tài chính cho 
những đam mê và cho cái gia đình khổng lồ 
của mình, nhưng chắc chắn đó là con số 
không nhỏ. Ông có thực học, thực tài, đa 
tài, lập nhiều công trạng, nhưng cũng gặp 
nhiều trắc trở trong sự nghiệp, “bảy chục 
nghỉ hưu còn ở trọ” có lẽ một phần từ 
nguyên nhân đó. Khoan hãy nói đúng sai 
trên lập trường nào đó, nhưng rõ ràng, đây 
cũng là nét đặc sắc trong cuộc đời của ông, 
có giá trị tham khảo khi bàn về hôn nhân 
gia đình, mối quan hệ giữa gia đình và sự 
nghiệp của “đấng nam nhi”. 
Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng 
đặc biệt, hiếm hoi xét từ góc độ sử liệu. 
Mặc dù giữ chức thượng thư (Bộ Binh) và 
chức tổng đốc (Hải Yên), một chức vụ 
tương đương với thượng thư, chỉ có 4 năm, 
nhưng ông được sách sử chính thống nhà 
Nguyễn đề cập với số lần nhiều nhất. 
Riêng Đại Nam thực lục đã ghi chép về 
ông ở 329 chỗ trong sách; chép kỹ về ông 
đến từng bản tấu, sớ, biểu chương, đến cả 
những chuyện sinh hoạt. Đặc biệt hơn, mặc 
dù ông đã về hưu, nhưng tên ông thì vẫn 
còn được chép tiếp khá nhiều với những 
biến c ... . Ông viết: “Vũ 
trụ chức phận nội/Đấng trượng phu một túi 
kinh luân/Thượng vị đức hạ vị dân/Sắp hai 
chữ quân thần mà gánh vác”. Đỉnh cao 
thiêng liêng của chức phận kẻ sĩ là “quân 
thần”. Ông viết: “Nặng nề thay đôi chữ 
quân thần/Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ”. 
Chỉ có kẻ sĩ với khí chất chân chính mới có 
thể giúp quân vương thực hiện thành công 
“đức trị, xã hội lý tưởng. “Đạo quân thần” 
cho ông sức mạnh đồng thời là cái chỉ đạo 
mọi hoạt động của ông, không cho phép 
ông lựa chọn, lùi lại hay rẽ ngang trước mọi 
vấn đề. Xa rời vấn đề có tính nguyên tắc 
này sẽ không thể cắt nghĩa được đầy đủ tư 
duy và hành động của ông. Vì sao Nguyễn 
Công Trứ lại là người hăng hái “cầm cờ 
tướng quân” đi đàn áp các cuộc khởi nghĩa 
của nhân dân? Mấy thế hệ đã qua đều cho 
Nguyễn Bình Yên 
71 
rằng đó là một hạn chế của ông, phê phán 
ông. Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể thì 
động cơ và hành động của ông là phù hợp 
với yêu cầu chính trị, giai cấp, “đạo quân 
thần” đã chỉ ra. Ông hết lòng vì nước vì dân 
theo lập trường giai cấp của mình, vì “đạo” 
mà ông cầm quân dẹp “loạn đảng”. Dẹp 
xong “loạn Phan Bá Vành”, ông đưa tàn 
quân “loạn đảng” trở thành người khai 
hoang, lấn biển, rồi trao đất đó cho họ, tạo 
điều kiện cho họ làm ăn. Yêu nước, yêu dân 
của ông là ở chỗ đó. Ông cũng từng nếm 
chịu những bất công nhưng “cương 
thường” và chí “kinh bang tế thế” đã níu 
giữ ông, không để ông bất mãn, “nổi loạn” 
như Cao Bá Quát; đồng thời thúc đẩy ông 
tích cực sửa chữa xã hội bằng những giải 
pháp mới. Ông chưa có những điều kiện 
cần thiết để nhận thức cái mới của thế giới 
để có thể “tự mình canh tân mình” và đề 
xuất tư tưởng “canh tân” phát triển đất nước 
và cứu nước như Nguyễn Trường Tộ, Phạm 
Phú Thứ, Đặng Huy Trứ. 
Nguyễn Công Trứ quan niệm rằng giữ 
“đạo cương thường” đòi hỏi phải đặt trung, 
hiếu lên hàng đầu bởi đó là hai giá trị căn 
bản nhất; công danh sự nghiệp là lẽ sống, là 
thước đo thành công của người quân tử. 
Ông viết: “Có trung hiếu nên đứng trong 
trời đất/ Không công danh thời nát với cỏ 
cây”. Lý tưởng của ông không mới, vẫn 
nằm trong giới hạn của lý luận và lập 
trường Nho giáo phong kiến, nhưng lại gặp 
thời vận nên vẫn có thể phát huy vai trò của 
nó. Bởi lẽ, nhà Nguyễn giành được giang 
sơn bằng vũ lực với sự trợ giúp từ bên 
ngoài, nên không thể nhận được sự đồng 
thuận cao từ xã hội; thiết lập trật tự xã hội, 
sự trung thành của tứ dân là yêu cầu cấp 
thiết. Nho giáo đáp ứng được yêu cầu đó, 
cho nên làm cho Nho giáo trở lại vị trí độc 
tôn là một trong những vấn đề sống còn về 
mặt ý thức hệ của triều Nguyễn. Nhà 
Nguyễn đã thành công trong việc khôi 
phục, phát triển nền giáo dục nho học, 
thông qua khoa cử nho học để tuyển dụng 
quan lại. Mục tiêu và giải pháp gắn chặt với 
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Qua 
thời Lê mạt, “cương thường” tưởng như đã 
là thứ lý luận không còn khả năng dẫn dắt, 
nay lại bùng cháy rực rỡ dưới triều Nguyễn, 
ít nhất dưới thời trị vì của các vị vua Gia 
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. 
Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ không nằm 
ngoài trào lưu ấy. 
Theo Nguyễn Công Trứ, muốn hoàn 
thành chức phận của mình kẻ sĩ phải nuôi 
“chí nam nhi”, trả “nợ tang bồng”, “nợ 
công danh”. Kẻ sĩ là người “tri mệnh thức 
thời duy tuấn kiệt”, “đấng trượng phu một 
túi kinh luân”. Kẻ sĩ phải học đạo và hành 
đạo. Quan niệm “hành đạo” thể hiện tập 
trung trong các bài thơ: Chí khí anh hùng, 
Nợ công danh, Nợ tang bồng, Gánh trung 
hiếu Nội dung cơ bản ở đó là lập thân, 
lập nghiệp bằng “hành đạo”, giúp đời, thực 
hiện bổn phận với nước, với dân. Nói cách 
khác, đó là trả món “nợ công danh”, “nợ 
tang bồng”, “nợ nam nhi”. Những món nợ 
ấy là bổn phận, trả được những món nợ đó 
thì “có danh”. Bổn phận của kẻ sĩ là cái 
được quy định sẵn bởi vũ trụ, “chí nam nhi” 
phải nhận lấy và gánh vác. Nói vũ trụ quy 
định bổn phận làm trai chỉ là một cách diễn 
đạt về vai trò, ý nghĩa cuộc sống của con 
người (nam nhi), cách nói này nhuốm màu 
duy tâm huyền bí. Song, quan niệm của ông 
có yếu tố tích cực rõ ràng, chứa đầy chí khí 
của con người có lý tưởng và khát vọng 
cống hiến, hay ít nhất là được thỏa chí làm 
trai. Ông viết: “Chí làm trai Nam, Bắc, 
Đông, Tây/Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
72 
bể”, “Chí những toan xẻ núi lấp sông/Làm 
nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”. Cả cuộc 
đời, ông luôn đem hết sức lực, trí tuệ và đạo 
đức của mình để thực hiện và thực hiện 
thành công khát vọng vì nước, vì dân. 
“Chí nam nhi” song hành với “hưởng 
lạc” là một nét đặc sắc trong quan niệm 
nhân sinh của Nguyễn Công Trứ. Nuôi “chí 
nam nhi”, trả “nợ công danh” đòi hỏi kẻ sĩ 
phải dấn thân, đương đầu và giải quyết 
những nhiệm vụ gian khổ, thậm chí hy sinh 
tính mạng của mình để có thể vẹn toàn 
trung, hiếu. Để dấn thân thành công, kẻ sĩ 
phải “tu thân”, “khắc kỉ phục lễ”, “trọng 
nghĩa khinh lợi”, không thay đổi lẽ sống 
trước nghèo khó, tiền bạc, quyền uy; hành 
vi phải đoan chính, nói năng đúng mực, “ăn 
tùy nơi, chơi tùy chốn” sao cho xứng đáng 
với phẩm giá của mình. Người ham hưởng 
lạc, muốn thanh nhàn là người không có 
“chí nam nhi”, chẳng thể vẫy vùng bốn 
phương, tạo lập công danh, đứng trong trời 
đất. “Chí nam nhi” và tư tưởng “hưởng lạc” 
tồn tại như những cái đối lập không thể 
dung hòa. Có thể nói, Nguyễn Công Trứ rất 
thành công trong việc xử lý cái “mâu thuẫn 
chết người” ấy. Ông vừa đề cao “chí nam 
nhi”, đã rất thành công trong dấn thân trả 
“nợ nam nhi”, lại vừa coi trọng “hưởng 
lạc”, “hưởng nhàn”, và đã tận hưởng thú 
vui ấy trong suốt mấy chục năm mỗi khi có 
thể. Dường như “hưởng lạc” không hại 
được “chí nam nhi” của ông và ông càng 
thực hiện được “chí nam nhi” bao nhiêu thì 
“hưởng lạc” của ông lại càng đạt đến trình 
độ cao bấy nhiêu, trở thành “triết lý hưởng 
lạc” riêng có của ông. 
Ban đầu, quan niệm “hưởng nhàn”, 
“hưởng lạc” hay “hành lạc” của ông chưa 
khác biệt với quan niệm của các thế hệ kẻ sĩ 
đi trước. Đó là lối sống tao nhã, lấy cái 
thanh tịnh nơi làng quê, “thâm sơn cùng 
cốc” làm bối cảnh, với “bầu rượu túi thơ”, 
“vịnh hoa thưởng nguyệt” để thể hiện sự 
viên mãn, thanh bạch của mình. “Hưởng 
lạc” cũng là một phần tất yếu của cuộc 
sống, nhưng nằm vào giai đoạn thứ ba của 
cuộc đời kẻ sỹ, sau khi đã hoàn thành việc 
trả “nợ nam nhi”. Về khuynh hướng tư 
tưởng, “hưởng nhàn” gần với quan niệm 
tiêu dao, phóng niệm của Đạo gia. Nhưng 
dần dần, ở Nguyễn Công Trứ đã hình thành 
triết lí “hành lạc” có nội dung khác hẳn, bao 
gồm từ những thú vui tao nhã đến những 
thú vui trần tục nhất, là một bộ phận tất yếu 
của cuộc sống con người. Ông viết: “Nhân 
sinh bất hành lạc/Thiên tuế diệc vi thương”; 
“Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy/Nếu 
không chơi thiệt ấy ai bù”, “Cuộc hành lạc 
vẫy vùng cho phỉ chí”. Và “hành lạc” có nội 
dung, hình thức phong phú, là vẻ đẹp của 
cuộc sống. Ông viết: “Đường ăn chơi mỗi 
vẻ mỗi hay”, “Có yến yến hường hường 
mới thú/ Khi đắc ý mắt đi mày lại”. Triết lí 
“hành lạc” của ông trong là một tuyên ngôn 
về hưởng thụ những thú vui trong đời, mà 
cho đến ngày nay vẫn ít có người sánh 
được, làm được như ông. 
Chính vì những tuyên ngôn như thế mà 
không ít người, xưa và nay, cho rằng hành 
lạc của Nguyễn Công Trứ là sự suy đồi, 
biểu hiện lối sống thiếu lý tưởng cao đẹp, 
không lối thoát của con người trong chế độ 
phong kiến đã đến giai đoạn khủng hoảng. 
Theo khuôn mẫu chung thì nhận xét đó có 
sự hợp lý nhất định, nhưng sự suy đồi, 
khuynh hướng “hưởng lạc” của người đời 
thời nào chẳng có, sự khác biệt có chăng 
chỉ là ở mức độ và cách biểu hiện mà thôi. 
Đối với Nguyễn Công Trứ, có lẽ “hành lạc” 
không phải là một sự “suy đồi” như vậy, 
giống về hành vi nhưng không cùng bản 
chất. “Hành lạc” ở ông không đơn thuần là 
thực hiện hành vi nhằm thỏa mãn tính dục; 
Nguyễn Bình Yên 
73 
thái độ của ông không giống với thái độ, lối 
hành xử của những kẻ chơi bời lỗ mãng, ăn 
bám, phá phách hay hành vi của những vua 
quan sa đọa, chỉ biết “hưởng lạc” mà quên 
cả trách nhiệm của mình. “Hành lạc” trong 
ông là một cuộc chơi hay, đúng hơn là một 
phương thức sống của kẻ sĩ bên cạnh “chí 
nam nhi”, bổ sung cho “chí nam nhi”. Ông 
viết: “Chơi cho lịch mới là chơi/ Chơi cho 
đài các cho người biết tay/Tài tình dễ mấy 
xưa nay”. Đó là cái “chơi” của giới thượng 
lưu được xã hội đương thời thừa nhận như 
một giá trị. Ví dụ, 73 tuổi ông còn cưới 
nàng hầu trẻ thì ngày nay người ta cho 
rằng đó là hôn nhân không dựa trên tình 
yêu, là coi thường phụ nữ. Nhưng đó lại là 
giá trị được xã hội đa thê thừa nhận. 
“Hưởng lạc” của ông còn là sự thụ hưởng 
các giá trị nghệ thuật, của văn hóa, văn 
nghệ mà hát ả đào, hát ca trù là một đại 
diện điển hình ông đắm say. Những đóng 
góp của ông vào hình thức nghệ thuật, văn 
hóa phi vật thể này cũng là một nét “hưởng 
lạc” của ông. Nếu xét theo góc độ của chủ 
nghĩa cá nhân phương Tây thì tư tưởng 
“hưởng lạc” của ông đi sau một bước, 
nhưng so với Việt Nam, nó đã đi trước thời 
đại hàng trăm năm. 
Công khai triết lý hưởng lạc cũng là một 
nét độc đáo trong quan niệm nhân sinh của 
ông, song cũng vì thế mà trong triều đình 
cũng như ngoài xã hội đều có bộ phận xét 
nét, dị nghị ông. Người đồng tình, mến 
mộ, muốn được như ông cũng nhiều. Kẻ 
phản đối, ghen ghét, lên án, muốn xa lánh 
và hạ bệ ông cũng lắm. Có người coi lối 
sinh hoạt phong lưu tình cảm, “hưởng 
lạc”của ông là biểu hiện của sự “đổ đốn”, 
suy đồi đạo đức của người quân tử, là biểu 
hiện của sự khủng hoảng, suy tàn của chế 
độ phong kiến. 
Triết lý nhân sinh Nho giáo dù có những 
giá trị nhân văn sâu sắc đến mấy cũng 
không tránh khỏi những hạn chế của chế độ 
mà nó phản ánh. Triết lý “hưởng lạc” của 
ông vừa có những nét tiến bộ đi trước thời 
đại hàng trăm năm khi nó đề cao tự do cá 
nhân, vừa chứa đựng những hạn chế sâu sắc 
bởi tính chất phụ quyền, “trọng nam khinh 
nữ”, coi người phụ nữ vốn “mắt đi mày lại” 
với ông chỉ là một thứ đồ chơi trong cái “nợ 
tang bồng” mà thôi. Những xét nét, dị nghị 
của xã hội từ khi ông còn “chức cao vọng 
trọng” đến khi ông nghỉ hưu không phải là 
không có căn cứ. 
Trong tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về 
nhân sinh có sự dung hợp tư tưởng Nho, 
Phật, Lão với mức độ đậm nhạt khác nhau 
trong từng giai đoạn của cuộc đời ông. Khát 
vọng dấn thân cống hiến, lập công danh 
theo đạo quân thần Nho giáo là động lực 
thúc đẩy ông thời trai trẻ và khi làm quan. 
Giai đoạn cuối đời, lý tưởng ấy đã suy giảm 
nghiêm trọng. Trong Bài ca ngất ngưởng, 
bản tổng kết cuộc đời, ông chỉ ra rằng, chốn 
quan trường chỉ là cái “lồng” chật hẹp, hạn 
chế “chí nam nhi”, khiến ông không thể 
thỏa chí vẫy vùng để trả “nợ tang bồng” 
như ông từng mong ước. Cuối đời ông đến 
với tư tưởng Lão và Phật như một lẽ tự 
nhiên. Ông không phải là người đầu tiên 
hay người cuối cùng trong giới nho sĩ đến 
với Lão và Phật. Song, Lão và Phật chỉ bổ 
sung cho Nguyễn Công Trứ những gì mà 
Nho giáo chưa đáp ứng được. Các giáo lý 
ấy không đủ sức mạnh kéo ông ra khỏi đạo 
Nho để đi vào một con đường khác giống 
như một số trường hợp đã xảy ra. Chính vì 
vậy, khi tự do tự tại “hưởng lạc”, “hưởng 
nhàn”, triết lý “hưởng lạc” của ông mang 
màu sắc của cả Lão và Phật. Có ý kiến cho 
rằng cuối đời ông có phần thiên về Phật, 
bởi thơ ông có rất nhiều ý, lời mang đậm 
màu sắc Phật giáo, còn màu sắc Lão giáo có 
phần ít hơn. Nhưng cửa Phật dường như 
cũng trở nên chật hẹp hoặc quá buồn tẻ đối 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
74 
với ông. Vì thế mà khi lên chùa lễ Phật, ông 
còn mang theo cả kép hát, ả đào; làm khuấy 
động cả không gian vốn yên tĩnh của nhà 
chùa. Có thể nói chí khí của ông quá lớn, 
“tam giáo” quá chật hẹp, đời lại quá phức 
tạp và mênh mông, nên cuối đời Nguyễn 
Công Trứ dường như đi vào bế tắc để rồi 
phải thốt lên rằng: “Ngồi buồn mà trách 
ông xanh/ Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại 
cười/Kiếp sau xin chớ làm người/Làm cây 
thông đứng giữa trời mà reo”. Song, hình 
như cái tính “ngất ngưởng” vẫn đi cùng 
ông, khi ông nhắn nhủ người đời như một 
lời thách thức rằng: “Giữa trời vách đá cheo 
leo/Ai mà chịu rét thời trèo với thông”! Cái 
đặc sắc đến trái nghịch trong tư tưởng của 
ông phần lớn từ đó mà ra. 
4. Kết luận 
Cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ 
được tạo nên bởi những chuỗi sự kiện và 
những tư tưởng, tuy vẫn thuộc phạm trù 
Nho giáo phong kiến, nhưng chứa đựng 
những giá trị tích cực, nhân văn sâu sắc. 
Nguyễn Công Trứ là một mẫu mực của “kẻ 
sĩ” từ trong tư tưởng đến trong hành động. 
Ông là tấm gương của thực hiện “cương 
thường”, luôn kiên định lẽ sống của mình, 
hết lòng vì nước, vì dân, liêm chính và luôn 
hoàn thành tốt công vụ được giao. Nếu bỏ 
sang một bên cái hạn chế lịch sử giai cấp thì 
hoạt động công vụ (nhận bất cứ nhiệm vụ gì 
khi được giao, “thăng” không kiêu, “giáng” 
không nản, tìm mọi biện pháp để hoàn 
thành nhiệm vụ), đạo đức công vụ (tận tuỵ, 
liêm chính, vì lợi ích chung, lợi ích của 
nhân dân) của ông vẫn là tấm gương cho 
cán bộ, đảng viên ngày nay học tập, noi 
theo. Nguyễn Công Trứ là một mẫu mực về 
khát vọng sáng tạo và thực hiện sáng tạo 
nhằm cải biến thực tiễn vì lợi ích của đất 
nước, nhân dân. Ông dũng cảm dâng lên 
Gia Long kế sách trị quốc từ khi chỉ là hàn 
sĩ vô danh. Ông đề xuất và chỉ đạo công 
cuộc khai hoang ở nhiều nơi, lấn biển ở Bắc 
Bộ thành công, có giải pháp phát triển 
thương nghiệp trong nông nghiệp, nông 
thôn nhằm phát triển kinh tế và ổn định 
chính trị xã hội. Triết lí “hành lạc”, “hưởng 
lạc” của Nguyễn Công Trứ là một hiện 
tượng vượt qua không gian xã hội phong 
kiến, có những yếu tố tích cực nhất định 
(phát triển toàn diện cá nhân, tôn trọng tự 
do cá nhân). Đó là một triết lí chưa được 
mài giũa, trình bày dưới dạng học thuyết, 
cho nên cũng còn chứa đựng nhiều yếu tố 
tiêu cực (khuyến khích tâm lý hưởng thụ; 
chưa chỉ ra được mối liên hệ giữa lao động 
cống hiến và hưởng thụ, hoàn cảnh kinh tế 
xã hội của chúng). Vì vậy, khi phân tích 
triết lí “hành lạc” của ông, cần có sự quan 
tâm hướng dẫn sâu sắc, cẩn trọng của người 
có trách nhiệm cầm bút, giảng dạy trên diễn 
đàn xã hội cũng như trong nhà trường. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Hữu Sơn (2019) “Xu thế sáng tác 
hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công 
Trứ”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1. 
[2] Trần Nho Thìn (2009), “Nhân cách của 
Nguyễn Công Trứ, nhìn từ quan điểm bản thể 
luận”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3. 
[3] Nguyễn Công Trứ (2000), Tổng tập văn học 
Việt Nam, tập 14, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[4] 
nam-ngay-mat-cua-nguyen-cong-tru-con-
nhieu-dieu-vo-le-ve-ong-dang-cho-phia-truoc-
2603, truy cập ngày 6/4/2018. 
[5] 
tru-nhung-bai-hay-nhat, truy cập ngày 15/10/2018. 
[6] 
nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/nguyen-
cong-tru-mot-ca-nhan-mot-danh-nhan, truy cập 
ngày 11/8/2018. 
Nguyễn Bình Yên 
75 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_nguyen_cong_tru_ve_nhan_sinh.pdf