Không gian công và tôn giáo

Bài viết trình bày lịch sử hình thành khái niệm không

gian công (public sphere), một khái niệm quan trọng của khoa học

xã hội Phương Tây, đặc biệt của nhà triết học và xã hội học người

Đức Jürgen Habermas, để phân tích sự biến đổi vai trò tôn giáo

trong những thập niên gần đây, nhất là hiện thực tôn giáo trong

không gian công ở Pháp và Mỹ, từ đó đưa ra một số nhận xét cũng

như viễn tượng lý thuyết xuất phát từ khái niệm không gian công

pdf 19 trang dienloan 6540
Bạn đang xem tài liệu "Không gian công và tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Không gian công và tôn giáo

Không gian công và tôn giáo
20 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
NGUYỄN XUÂN NGHĨA* 
KHÔNG GIAN CÔNG VÀ TÔN GIÁO 
Tóm tắt: Bài viết trình bày lịch sử hình thành khái niệm không 
gian công (public sphere), một khái niệm quan trọng của khoa học 
xã hội Phương Tây, đặc biệt của nhà triết học và xã hội học người 
Đức Jürgen Habermas, để phân tích sự biến đổi vai trò tôn giáo 
trong những thập niên gần đây, nhất là hiện thực tôn giáo trong 
không gian công ở Pháp và Mỹ, từ đó đưa ra một số nhận xét cũng 
như viễn tượng lý thuyết xuất phát từ khái niệm không gian công. 
Từ khóa: Biến đổi, không gian công, tôn giáo, vai trò . 
1. Dẫn nhập 
Ở các nước Phương Tây, khác với quan điểm của giai đoạn từ cuối thế 
kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khi mà giới chính trị muốn hạn chế tôn giáo 
trong lĩnh vực riêng tư của cá nhân, trong những thập niên gần đây, vai 
trò của tôn giáo trong xã hội được khẳng định nhiều hơn, mà một biểu 
hiện của vấn đề là vị thế của tôn giáo trong không gian công (public 
sphere). Đây là một chủ đề nghiên cứu rất rộng, do đó bài viết này trình 
bày giới hạn ở mấy vấn đề: khái niệm không gian công theo quan điểm 
của J. Habermas; tôn giáo trong không gian công và những tranh luận; 
hiện thực tôn giáo trong lĩnh vực công tại một số quốc gia. 
2. Khái niệm không gian công của J. Habermas 
Trong lĩnh vực khoa học xã hội, nói đến khái niệm không gian công, 
không thể không kể đến J. Habermas, nhà triết học và xã hội học số một 
của Đức hiện nay. Thật ra, khái niệm không gian công của J. Habermas 
chịu ảnh hưởng quan điểm của E. Kant. Trong tiểu luận Trả lời cho câu 
hỏi khai minh là gì?, E. Kant đã đề cập đến việc con người “sử dụng 
công cộng lý tính của mình” (de faire un public usage de sa raison)1. 
Theo E. Kant, với nguồn lực của mình, con người khó đi đến khai minh, 
mà cần có một tính công cộng: sự trao đổi tự do các tri thức khoa học, 
các lý thuyết chính trị và triết học cho phép dẫn đến một sự tiến bộ về 
*
 TS., Trường Đại học Mở, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 21 
21 
mặt đạo đức của con người. Như vậy, E. Kant đã nối kết khai minh 
(Aufklärung) và tính công cộng (Öffentlichkeit, publicité). Từ đó, J. 
Habermas cũng xác tín việc chia sẻ tri thức, trao đổi các lập luận, thoát 
khỏi mọi ràng buộc, đều có thể làm phong phú các quan điểm, mở rộng 
các chân trời tư tưởng. Như vậy, không gian công có chiều kích kép: là 
nơi xác định căn tính cá nhân và nơi phát triển tri thức. 
Không gian công là một chủ đề quan trọng trong tư tưởng của J. 
Habermas. Ông đề cập đến vấn đề này từ luận án (được giảng dạy chính 
thức ở bậc đại học) Không gian công: Khảo cổ học về tính công cộng như 
một chiều kích cấu thành xã hội tư sản (1962)2 cho đến những bài viết 
gần đây về không gian công Châu Âu. Trong luận án nêu trên, ông đề cập 
đến khía cạnh sử học, xã hội học và triết học của khái niệm này. J. 
Habermas phân biệt không gian công về văn chương và chính trị. Vào thế 
kỷ XVIII, ở Châu Âu đã xuất hiện những câu lạc bộ văn chương, mà 
trước hết là ở Anh. Ở đó, người ta trao đổi, bàn luận về các tác phẩm văn 
chương, mà loại hình thông dụng là tiểu thuyết. Ở dạng sơ khai, tiểu 
thuyết là tập hợp các thư từ, ghi chép của cá nhân. Các tiểu thuyết như 
vậy là cầu nối giữa lĩnh vực riêng tư và lĩnh vực công. Tiếp đến, người ta 
tranh luận tác phẩm nào nên đọc, tinh thần tranh luận này được phát triển 
và triển khai thành bài viết đăng trên các kỳ báo về các vấn đề khoa học, 
xã hội, dần dần hình thành một không gian trong giới tư sản phê phán 
quyền lực chính trị, đặc biệt thông qua báo chí. Tiếp theo, vào các thế kỷ 
XIX và XX, cái không gian công đó không chỉ bàn đến những lợi ích 
công cộng, mà còn bị chiếm hữu và đề cập đến những lợi ích riêng tư. 
Trong không gian ấy chằng chéo hai quá trình đối nghịch: một quá trình 
truyền thông sản sinh ra quyền lực hợp pháp và một quá trình chi phối 
gian xảo đối với quần chúng bởi những quyền lực bất hợp pháp. 
Trong luận án của mình, J. Habermas đưa ra một bức tranh bi quan mà 
ông gọi là “thực dân hóa thế giới sống (colonisation du monde vécu) bởi 
những quyền lợi riêng tư”, nơi của những chi phối gian xảo, tính công 
khai giả tạo (pseudo-publicité), nơi cổ vũ cho sự tiêu thụ thay vì tranh 
luận về lợi ích chung. J. Habermas phê bình gay gắt các phương tiện 
truyền thông đại chúng, bởi lẽ từ đây chúng đảm nhận vai trò quảng cáo. 
Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, thậm chí ngay trong lĩnh vực thể 
chế, tính công cộng của các tranh luận nghị viện trở thành hoan hô nhất 
trí hay mị dân; các cuộc bầu cử thay vì những tranh luận lý lẽ, trở thành 
22 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
những trò gian xảo, trình diễn. Vào những năm 1990, trong một số bài 
viết, J. Habermas bớt bi quan hơn, nhưng ông vẫn giữ quan điểm về sự 
căng thẳng giữa tính công cộng mang tính trình diễn, gian xảo và tính 
công cộng phê phán, kế thừa truyền thống của không gian công tư sản. 
Không gian công là nơi diễn ra các tranh luận chính thức và phi chính 
thức (quốc hội, hội đồng, tòa án, phương tiện truyền thông đại chúng, hội 
đoàn). Không gian công là một trong những điều kiện cho nền dân chủ 
vì là nơi các tranh luận hình thành các quan điểm thể hiện ước vọng của 
công dân. Nó cũng cho phép phê bình quyền lực và các định chế đang tồn 
tại cũng như cho phép thể hiện những ước muốn, những nhu cầu mới 
được phản ánh từ ngoại vi đi vào trung tâm. Trong tác phẩm Quyền và 
nền dân chủ, J. Habermas cho thấy con đường đi của một chủ đề xã hội, 
cũng chỉ là một trong các con đường đi, có thể xuất phát từ ngoại vi của 
xã hội, rồi được đề cập trên các tạp chí, câu lạc bộ, hội đoàn, tiếp nữa là 
được tranh luận trên các loại diễn đàn khác nhau; có thể hình thành các 
phong trào xã hội, tồn tại trong các nhóm văn hóa (subculture). Nếu chủ 
đề này, thông qua các phong trào xã hội, tạo được âm hưởng nhất định sẽ 
được quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng và đi vào 
chương trình nghị sự, được hệ thống chính trị xử lý chính thức3. 
Tóm lại, theo J. Habermas, không gian công là những định chế xã hội 
mà ở đó cho phép các tranh luận cởi mở và duy lý giữa các công dân để 
hình thành công luận (public opinion). 
Quan điểm của J. Habermas về không gian công gặp nhiều phê phán. 
Nancy Fraser cho rằng, không gian công tư sản mang tính thống trị và 
loại trừ, vì nó kỳ thị phụ nữ và không đề cập đến các giai cấp xã hội bên 
dưới. Do vậy, không phải mọi người đều có thể thâm nhập không gian 
này. N. Fraser cũng phê bình sự phân biệt riêng và công. Khái niệm “vấn 
đề được mọi người quan tâm” (common concern) không rõ ràng, chẳng 
hạn như vấn đề bạo lực gia đình trước đây được coi là riêng tư, đến nay 
trở thành một tranh luận công cộng. Oskar Negt và Alexander Kluge đòi 
hỏi J. Habermas phải bổ sung thêm các khái niệm không gian công vô 
sản, không gian công về sản xuất4 
Sau này, J. Habermas cũng thừa nhận ít nhiều đã lý tưởng hóa không 
gian công tư sản và đánh giá thấp tính đa dạng của các loại hình không 
gian công khác. 
Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 23 
23 
Chủ đề không gian công được đề cập trong nhiều bài viết của J. 
Habermas. Đây là một chủ đề quan trọng vì nó liên quan đến các câu hỏi 
về lợi ích chung, vốn đụng chạm đến bất cứ xã hội nào, bất cứ nhóm nào 
trong xã hội. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi nhà nước - dân tộc 
(nation - state), mà còn có thể ở quy mô quốc gia, quy mô vùng, châu lục 
hay thế giới. Bởi lẽ, không gian công tạo ra một cộng đồng tinh thần cho 
bất cứ cộng đồng pháp lý nào. Trong tranh cãi liệu có căn tính (identity) 
Châu Âu để làm cơ sở cho cộng đồng Châu Âu, J. Habermas chủ trương, 
chính công dân Châu Âu phải tự tạo ra căn tính đó, và ông cũng như 
nhiều trí thức khác khai sinh ra khái niệm không gian công Châu Âu. 
Như vậy, J. Habermas có một lối tiếp cận thiết kế luận (constructivist) và 
tự nguyện về căn tính. 
Trong những bài viết sau, J. Habermas tỏ ra tin tưởng các phong trào 
nổi lên trong xã hội dân sự. Trong một xã hội đã làm quen với tự do sẽ 
hình thành một quyền lực phi chính thức từ thế giới sống, nó trở thành 
quyền lực truyền thông có thể ảnh hưởng đến quyền lực chính trị và hành 
chính. Trên bình diện liên quốc gia, J. Habermas tin tưởng vào các tổ chức 
phi chính phủ mà ông xem như là những thành tố tích cực của xã hội dân 
sự ở cấp độ toàn cầu. Sự tin tưởng như vậy xuất phát từ việc các tác nhân 
của xã hội dân sự có thể có vai trò tích cực. Trong các thập niên 80 - 90 
của thế kỷ XX, không phải hệ thống chính trị mà chính các chủ thể của xã 
hội dân sự như các trí thức, các chuyên viên, các hội đoàn đã nêu lên 
những chủ đề quan trọng cần tranh luận như: vấn đề hạt nhân, nghiên cứu 
sinh học, vấn đề sinh thái, vấn đề nghèo đói ở thế giới đang phát triển, 
những vấn đề dân tộc và văn hóa, các đòi hỏi về giới tính, v.v 
Tóm lại, không gian công là nơi người ta nêu thành vấn đề những vấn 
nạn về lợi ích chung, cũng là nơi người ta đem lại những đóng góp cho 
các cuộc tranh luận công cộng. 
3. Tôn giáo trong không gian công và những tranh luận 
Trong những thập niên vừa qua, vai trò của tôn giáo trong không gian 
công nhận được sự quan tâm ngày càng gia tăng của giới học thuật cũng 
như của xã hội nói chung. Vì đây là chủ đề rất phức tạp và bao gồm nhiều 
vấn đề, nên ở mục này, bài viết chỉ đề cập đến vai trò của tôn giáo trong 
các tranh luận chính trị giữa công dân của các xã hội có nền dân chủ 
tranh luận (deliberative democracy). 
24 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
Một giả định căn bản của nền dân chủ tranh luận là các chính sách có 
tính bắt buộc có thể có tính chính đáng (legitimacy) chỉ khi chúng được 
sự tán thành của các công dân qua một quá trình tranh luận công khai, 
không bị giới hạn và bao gồm mọi thành phần xã hội, ở đó mọi công dân 
đều có được những biện minh dựa trên những lý lẽ mà mỗi người có thể 
chấp nhận một cách hợp lý đối với các chính sách bắt buộc mà họ phải 
tuân thủ. Trong tiểu luận Tôn giáo trong không gian công5, J. Habermas 
chấp nhận những lý lẽ cá nhân đưa ra có thể dựa trên những lập trường 
nhận thức luận khác nhau. Đây là khó khăn cho nền dân chủ dựa trên 
thảo luận. 
Trong tranh luận về vai trò của tôn giáo trong không gian công có một 
quan điểm tự do mà đại diện là John Rawls. Theo đó, những công dân 
tham gia vào tranh luận chính trị phải tự giới hạn mình vào việc sử dụng 
các lý lẽ có thể được chấp nhận một cách công khai bằng cách ủng hộ 
những chính sách mà họ biện hộ hay bỏ phiếu tán thành thay vì đưa ra 
những lý lẽ đặt cơ sở trên những học thuyết tôn giáo hay những học 
thuyết toàn diện (comprehensive doctrine). Như vậy, theo điều kiện nổi 
tiếng này của J. Rawls, các lý do tôn giáo có thể có trong các tranh luận 
công cộng về những vấn đề chính trị cơ bản, với điều kiện các lý do 
chính trị thích hợp phải được đưa ra để ủng hộ bất kỳ chính sách nào mà 
các lý lẽ tôn giáo muốn ủng hộ. 
Quan điểm của J. Rawls cởi mở hơn so với quan điểm của một số tác 
giả, như Audi chẳng hạn, là trong tranh luận chính trị chỉ chấp nhận các 
lý lẽ thế tục. Tuy nhiên, quan điểm của J. Rawls đặt ra một gánh nặng đối 
với công dân có tôn giáo (religious citizen), để phân biệt với công dân thế 
tục (secular citizen)). Bởi J. Rawls đòi hỏi các công dân có tôn giáo phải 
trình bày lý lẽ của mình bằng lý lẽ không có tính tôn giáo. Về vấn đề này, 
trong tiểu luận nói trên, J. Habermas cho thấy, ông tán đồng sự cần thiết 
phải tuân theo đặc trưng của tính chính đáng về nền dân chủ và sự cần 
thiết hòa nhập chính trị của các công dân có tôn giáo vào nền dân chủ. 
Ông phân biệt không gian công chính thức (formal public sphere) và 
không gian công phi chính thức (informal public sphere). Không gian 
công chính thức bao gồm ở cấp độ định chế như quốc hội, tòa án, các bộ 
ngành, cơ quan hành chính, còn gọi là lĩnh vực của quyết định chính trị 
(sphere of political decision). Ở lĩnh vực này, ông chấp nhận quan điểm 
của J. Rawls. Không gian công phi chính thức, còn gọi là lĩnh vực hình 
thành công luận (sphere of opinion formation) bao gồm các hội đoàn, các 
Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 25 
25 
diễn đàn, các phương tiện truyền thông đại chúng Theo J. Habermas: 
“Sự mong đợi mọi công dân có tôn giáo khi bỏ phiếu phải để chính họ, 
kỳ cùng, bị hướng dẫn bởi những đắn đo mang tính thế tục là không biết 
đến những thực tại của đời sống tôn giáo, một đời sống bị chi phối bởi 
niềm tin”6. Qua câu nói này, ông muốn phê bình quan điểm của J. Rawls. 
Do đó, ông đề nghị, trong không gian công phi chính thức, các tranh luận 
chính trị nên loại bỏ đòi hỏi cung cấp các lý lẽ không tôn giáo để chứng 
minh. Những công dân có tôn giáo khi tham gia các tranh luận chính trị, 
vì không có khả năng diễn tả bằng các lý lẽ không tôn giáo, có thể chỉ 
đưa ra lý do thuần túy tôn giáo để biện hộ những chính sách mà họ ủng 
hộ với hy vọng rằng, các chuyên gia của bộ máy chính trị và hành chính 
sẽ chuyển thành các lý lẽ không tôn giáo. Sự phiên sang các lý lẽ không 
tôn giáo không còn chỉ đặt trên vai các công dân có tôn giáo. 
Xã hội dân chủ dựa trên những tiền đề biện minh mang tính thế tục và 
trung lập với các niềm tin tôn giáo, do đó các lý lẽ tôn giáo không thể đi 
vào không gian công mang tính chính trị (không gian công chính thức) 
với hình thức ban đầu của chúng. Với lối tiếp cận thảo luận (deliberative 
approach) của mình và lối hiểu tích cực về tính khoan dung (khoan dung 
không chỉ là thỏa hiệp), chấp nhận, trân trọng nhau, mà còn phải học hỏi 
lẫn nhau. J. Habermas quan niệm, nội dung tôn giáo cần được diễn giải 
bằng ngôn ngữ thế tục. Việc diễn giải này có thể giúp những công dân thế 
tục hiểu được những khái niệm tôn giáo. Ví dụ, khái niệm “con người 
được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa” theo ngôn ngữ thế tục là 
“mọi người đều có phẩm giá như nhau, do đó xứng đáng được kính trọng 
vô điều kiện”7. Cũng như trước đây, E. Kant đã diễn giải tội tổ tông là 
“cái ác có gốc rễ trong bản tính tự nhiên của con người”8. 
Dĩ nhiên, các tranh luận đều có giới hạn, bởi lẽ có những nội dung của 
niềm tin tôn giáo không phải là đối tượng của tranh luận duy lý. J. 
Habermas thừa nhận lý tính thế tục không thể và cũng không được tuyên 
bố về những chân lý của niềm tin tôn giáo: “Khi những công dân thế tục 
đảm trách vai trò chính trị, họ không có quyền phủ nhận các hình tượng 
tôn giáo về thế giới không mang trong mình khả tính về chân lý, cũng 
không được phản kháng những người đồng công dân của họ quyền mang 
lại những đóng góp bằng ngôn ngữ tôn giáo vào các cuộc tranh luận”9. 
Nghĩa vụ diễn giải phải được tất cả công dân chia sẻ. Điều này đòi hỏi 
một quá trình học hỏi lẫn nhau. Một mặt, công dân có tôn giáo phải có 
26 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
thái độ phản tư, thay đổi nhận thức về tính hiện đại, có nghĩa là chấp 
nhận các tôn giáo khác cũng có thể đi đến chân lý, chấp nhận thẩm ... eadow kiện John Roberts, Giám đốc Pháp luật Tòa án Tối 
cao Mỹ, vì cho rằng câu “So help us God” trong diễn văn nhậm chức của 
Tổng thống Obama là vi hiến. Tòa án Tối cao cho rằng, sự khiếu nại là 
không thích hợp20. Trước đây, M. Meadow cũng bị thất bại như vậy khi 
kiện Tổng thống Bush. 
“Bức tường phân ly” ở Mỹ rất nghiêm khắc. Do đó, khác với Pháp, 
nơi mỗi năm chi nhiều tỷ Euro cho các cơ sở tôn giáo, việc tài trợ cho các 
cơ sở tôn giáo là điều không thể có ở Mỹ. Các cơ sở tôn giáo ở Mỹ phải 
tìm nguồn tài chính cho riêng mình. 
Vấn đề tài trợ công cho hoạt động từ thiện tôn giáo ở Mỹ 
Từ năm 2001, Tổng thống Bush đặt ra tổ chức White House Office of 
Faith - Based and Community Initiatives/ OFBCI (tạm dịch: Văn phòng 
Nhà trắng về Sáng kiến Cộng đồng và Dựa trên Niềm tin). Dưới thời 
Tổng thống Obama, tổ chức này đổi thành White House Office of Faith - 
Based and Neighborhood Partnerships. Sáng kiến nhằm củng cố các tổ 
chức dựa trên niềm tin tôn giáo, phát triển khả năng các tổ chức này trong 
việc cung cấp những dịch vụ xã hội được liên bang tài trợ, với lý do các 
tổ chức này nắm vững các tình huống thực tế, do đó dễ đáp ứng nhu cầu 
của những cá nhân ở địa phương. Như vậy, các tổ chức dựa trên niềm tin 
tôn giáo có thể cạnh tranh trong các hợp đồng của chính quyền nhằm 
cung cấp các dịch vụ xã hội. 
Tuy nhiên, để tránh sự liên kết giữa nhà nước và các tôn giáo đang 
thống trị, Nhà Trắng đặt ra ba hạn chế cho các tổ chức dựa trên niềm tin 
tôn giáo để bảo vệ nguyên tắc phân ly giữa nhà nước và tôn giáo: Một là, 
không được dùng tài trợ trực tiếp của chính quyền để hỗ trợ các hoạt 
động thuần túy tôn giáo như thực hành nghi lễ, giảng dạy giáo lý, cầu 
nguyện và truyền đạo. Hai là, các hoạt động từ thiện được tài trợ phải 
Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 33 
33 
được tách biệt rõ ràng giữa các dịch vụ xã hội tài trợ, như nồi cháo từ 
thiện hay cung cấp áo quần, với các dịch vụ tôn giáo. Ba là, các tổ chức 
dựa trên niềm tin tôn giáo không được phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo 
khi cung cấp dịch vụ21. 
Sự tài trợ này khá quan trọng. Đến năm 2005, hai tỷ USD đã chi qua 
các hình thức tài trợ liên bang cho các hoạt động từ thiện tôn giáo. Điều 
này dấy lên những chống đối, ngay cả ở một bộ phận các tổ chức tôn 
giáo, vì họ muốn bảo vệ nguyên tắc phân ly nhà nước và tôn giáo. 
Vấn đề người lao động có tôn giáo và không gian công 
Xã hội Mỹ càng ngày càng đa dạng hơn về tôn giáo, một mặt do điều 
khoản tự do hành đạo trong Hiếp pháp (free exercice clause), mặt khác do 
nguồn gốc dân nhập cư có nhiều tôn giáo khác biệt từ nhiều quốc gia trên 
thế giới. Hơn nữa, nước Mỹ có đạo luật Quyền công dân (Civil Rights Act) 
năm 1964 cấm phân biệt chủng tộc, giới tính và tôn giáo nơi công cộng. Vì 
vậy, nhiều người lao động lên tiếng đòi được thể hiện quyền tự do tôn giáo 
trong công việc. Theo quy định của luật, họ có quyền được thu xếp công 
việc cho phù hợp với nhu cầu hành đạo, điều mà không phải mọi lãnh đạo 
và đồng nghiệp nơi họ làm việc đồng ý. Dưới đây là một số tranh chấp và 
vụ án điển hình liên quan đến vấn đề này: 
- Từ năm 2002 đến năm 2007, hơn 4.800 khách du lịch ở Sân bay 
Quốc tế Minneapolis St. Paul bị những người tài xế taxi theo Islam giáo 
nhập cư từ Somalia từ chối phục vụ, vì họ nhìn thấy hoặc nghi ngờ hành 
khách cất rượu trong hành lý. Tranh chấp này hiện chưa được giải quyết 
ngã ngũ. 
- Clarence Thomas, kỹ sư lắp ống dẫn dầu, thuộc Nhà máy lọc dầu 
Conoco Phillips ở Linden, Bang New Jersey bị yêu cầu phải đi làm vào 
các buổi sáng Chủ nhật hằng tuần tại công ty. Thomas cho biết, lúc đầu 
anh được thông báo có thể lấy thời gian nghỉ phép để nghỉ vào thời gian 
đó, nhưng sau đó ngay cả việc dàn xếp lịch như vậy cũng bị từ chối. Đến 
nay, tranh chấp này vẫn chưa được phân xử. 
- Bilan Nur, người Somalia nhập cư, 22 tuổi, bị đuổi việc vào tháng 
12/2001 vì từ chối bỏ khăn choàng đầu trong cả tháng lễ Ramadan. Cô đã 
kiện Công ty Alamo Rent A Car. EEOC (US Equal Employment 
Opportunity Commission/ Ủy ban vì Sự bình đẳng Cơ hội Làm việc) 
34 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
được ủy quyền khởi kiện Alamo. Công ty Alamo thậm chí phải trả 
250.000 USD để giải quyết vụ việc này22. 
- Ở Detroit, EEOC khởi kiện Công ty Điều dưỡng tại gia HCR Manor 
Care vì sa thải một y tá đeo thanh kiếm kirpan cùng trang phục công sở. 
Kirpan là thanh kiếm lưỡi cùn có vỏ bọc bên ngoài dài 3 inch, một trong 
những biểu tượng thiêng liêng của Sikh giáo. Ngày 8/6/2010, Manor Care 
chịu bồi thường 30.000 USD và huấn luyện nghề nghiệp cho mọi nhân 
viên để dàn xếp vụ kiện tụng trên23. 
Một số quan điểm của lãnh đạo các cơ quan, xí nghiệp 
Người Mỹ có đầu óc kinh doanh và đề cao hiệu năng. Do đó, mặc dù 
không phải mọi lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp đều đồng thuận trong việc 
tạo điều kiện cho người lao động là tín đồ các tôn giáo có thể thể hiện 
nhu cầu tôn giáo của mình ở nơi làm việc, nhưng trong những năm gần 
đây có một số thay đổi trong nhận thức. 
Hãng sản xuất xe hơi Ford Motor Co. và nhiều hãng khác khuyến 
khích thành lập các nhóm đồng cảm theo định hướng tôn giáo để thành 
viên trong nhóm có thể gặp nhau cùng cầu nguyện hoặc nói chuyện. Tập 
đoàn Texas Instruments Inc. đã xây dựng các phòng tịnh tâm (serenity 
rooms) để người lao động trong các nhà máy lắp ráp có thể cầu nguyện. 
Một số phòng tịnh tâm còn được trang bị khu rửa chân để người lao động 
theo Islam giáo có thể tẩy thể trước khi cầu nguyện theo quy định của tôn 
giáo này. Khi IBM thắt chặt an ninh sau vụ tấn công khủng bố ngày 
11/9/2001, một phụ nữ Islam giáo mới được tuyển dụng lo sợ có thể bị 
mất việc vì không muốn chụp ảnh mà không choàng khăn che mặt để làm 
thẻ ra vào. Nhưng hãng máy tính khổng lồ này đã tạo điều kiện cho cô 
bằng cách cấp hai thẻ nhân viên, một thẻ có ảnh chỉ để lộ đôi mắt để cô 
có thể đeo nơi công cộng, còn thẻ kia có ảnh không choàng mạng che mặt 
và chỉ có nhân viên bảo vệ nữ mới được phép xem24. 
Tuy nhiên, luật pháp Mỹ cũng quy định việc tạo điều kiện thuận lợi 
cho nhân viên thực hành tôn giáo không tạo nên sự bất tiện nghiêm trọng 
trong hoạt động kinh doanh sản xuất. Tòa án Tối cao Mỹ trong vụ Hãng 
hàng không Trans World Inc. kiện Hardison đưa ra phán quyết rằng, bất 
kỳ những vấn đề gì lớn hơn chi phí tối thiểu với chủ sử dụng lao động 
đều là những khó khăn không đáng có25. 
Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 35 
35 
5. Một vài nhận xét về không gian công và tôn giáo dưới góc độ xã 
hội học 
Sự phân biệt không gian công và không gian riêng của tôn giáo là một 
chủ đề được tranh luận từ thế kỷ XVIII ở Châu Âu ẩn chứa một xung đột 
về quyền lực liên quan đến quan niệm về vị thế của tôn giáo trong định 
hướng chính trị, văn hóa và xã hội của các quốc gia hiện đại, như trường 
hợp của Pháp. Quá trình hiện đại hóa được gắn liền với quá trình thế tục 
hóa với một đặc trưng là việc riêng tư hóa (privatization) tôn giáo. Nhưng 
thực chất, tôn giáo là vấn đề riêng tư hay công cộng vẫn là một câu hỏi 
chưa được trả lời rõ ràng. 
Dưới góc độ luật học, triết học có thể xem các xác tín tôn giáo là việc 
riêng tư, liên quan đến cá nhân. Nhưng dưới góc độ xã hội học, phải thấy 
rằng, tôn giáo là một hiện thực xã hội. Tôn giáo tồn tại qua tổ chức tôn 
giáo, hoạt động tôn giáo cho dù có những quyền lực công nhận hay 
không công nhận sự tồn tại của chúng thì chúng vẫn tồn tại, vẫn là những 
thực thể. 
Các sự kiện đã trình bày cho thấy, không gian riêng và không gian 
công có những ranh giới khác nhau tùy theo các tác nhân trong những 
tình huống đặc thù. Chúng là những biểu trưng dao động, thay đổi qua 
lịch sử và trong tương quan các lực chi phối. Cách mạng Pháp, đặc biệt 
Luật phân ly năm 1905 đã đẩy tôn giáo từ một định chế bao trùm xã hội 
vào vị thế của một định chế riêng biệt cũng như các định chế khác, hơn 
thế nữa vào lĩnh vực riêng tư cá nhân. Nhưng ngày nay, khi tôn giáo 
không còn là một đối trọng của quyền lực chính trị, tôn giáo lại được mời 
gọi đóng vai trò lớn hơn trong không gian công. Lấy trường hợp các 
nước Đông Âu từ sau Thế chiến thứ II đến những năm 1990, tôn giáo bị 
giới hạn vào lĩnh vực riêng tư của chọn lựa cá nhân. Nhưng với sự tan rã 
của các quốc gia thuộc khối Đông Âu, các tôn giáo lại tham gia vào 
không gian công, đóng góp cho các lĩnh vực giáo dục, xã hội. 
Nhìn chung, trong tương quan giữa tôn giáo và không gian công, có 
hai mô hình chính yếu: mô hình duy thế tục, muốn đẩy tôn giáo vào lĩnh 
vực riêng tư và mô hình hậu thế tục (post - secular)26, gắn tôn giáo với 
chức năng tạo ý nghĩa vững chắc cho cuộc sống đầy biến động hôm nay, 
là nguồn lực cho cá nhân và xã hội. Giữa hai mô hình chính yếu trên tồn 
tại nhiều biến thể đa dạng./. 
CHÚ THÍCH: 
36 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
1 E. Kant (J. F. Poirier dịch, 1991), Réponse à la question: Qu’est-ce que les 
Lumières, Flammarion, Paris. 
2 J. Habermas (M. B. de Launay dịch, 1978), L'Espace public: Archéologie de la 
publicité comme dimension constitutive de la société bourgeoise, Payot, Paris. 
3 J. Habermas (R. Rochlitz, C. Bouchindhomme dịch,1997), Droit et democratie, 
Gallimard, Paris. 
4  
5 J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, European Journal of 
Philosophy, No. 24: 1. 
6 J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, bđd: 9. 
7 J. Habermas (2008), Between Naturalism and Religion, Polity Press: 45. 
8 E. Kant (A. Tremesaygues dịch, 1923), La Religion dans les Limites de la 
Raison, Paris: 37, trong Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen 
Habermas về tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 6: 23. 
9 J. Habermas (2004), “Prépolitiques de l’État démocratique: Pluralisme et 
morale”, Esprit, Juillet: 18. 
10 J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, bđd: 14 - 15; C. Lafont (2009), 
“Religion and public sphere: What are the deliberative obligations of democratic 
citizenship?”, Philosophy Social Criticism, Vol. 35: 131 - 132. 
11 P. Portier (2012), “Religion and Democracy in the Thought of Jurgen 
Habermas”, Culture and Society, No. 48: 426 - 432, trong Nguyễn Xuân Nghĩa 
(2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, bđd: 17-19. 
12 “Laicité en France”, 
 J. Baubérot 
(2004), Histoire de la laicite en France, PUF, Que Sais-je?. 
13 Commission Stasi (2004), Laicité et République, La Documentation Francaise, 
Paris: 31. 
14 J. P. Willaime (2009), “La Laicité 100 ans après”, trong L. Chatellier, C. 
Langlois & J.P. Willaime, Lumières, Religion et Laicité, Riveneuve ed. 
15 “Separation of church and state”, 
 Sébastien Fath 
(2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, modèle américain”, 
Questions Internationales, No. 29. 
16 Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ chống lại khối Xô Viết theo chủ nghĩa 
vô thần. 
17 Nguyễn Xuân Nghĩa (2011), “Các quan điểm về tôn giáo dân sự”, Nghiên cứu 
Tôn giáo, số 2. 
18 Theo tôi, nên hiểu establisment theo nghĩa là chính thức hóa một tôn giáo (lấy 
làm quốc giáo), hơn là thuật ngữ thiết lập. Trong cuộc tranh luận ở Quốc hội Mỹ 
về vấn đề này, người ta không dám dùng thuật ngữ “tôn giáo quốc gia” vì tránh 
hiểu lầm là Anh giáo do muốn tránh né sự đụng độ giữa những người ủng hộ và 
những người phản đối hình thức liên bang của Mỹ. 
19  
20 Amandine Barb (2010), “Le renouveau du militantisme athée aux États-Unis”, 
Sciences humaines, No. 214: 31. Xem thêm: 
Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 37 
37 
21 Sébastien Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, 
modèle américain”, bđd. 
22 Xem:  
23 Xem: 
protecting-sikh-employees-right-to-wear-kirpan-at-work/. 
24 Gustav Niebuhr (2008), “The Interfaith Movement”, in Freedom of Faith - 
Religious Minorities in United States, US Departement of State. 
25 Xem:  
26 J. Habermas (2008), “A Post - Secular Society - What Does that Means”? Paper 
presented at Istanbul Seminars by Reset Dialogues on Civilizations, Istanbul, 2nd 
- 6th June. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. A. Barb (2010), “Le renouveau du militantisme athée aux États-Unis”, Sciences 
humaines, No. 214. 
2. J. Baubérot (2004), Histoire de la laicite en France, PUF, Que Sais-je? 
3. Commission Stasi (2004), Laicité et République, La Documentation Francaise, 
Paris. 
4. S. Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, modèle 
américain”, Questions Internationales, No. 29. 
5. S. Haber (2001), Jurgen Habermas, une introduction, La Découverte, Paris. 
6. J. Habermas (R. Rochlitz, C. Bouchindhomme dịch, 1997), Droit et democratie, 
Gallimard, Paris. 
7. J. Habermas (2004), “Prépolitiques de l’État démocratique: Pluralisme et 
morale”, Esprit, Juillet. 
8. J. Habermas (2004), "Les Fondements Prépolitiques de l’État démocratique. 
Pluralisme et morale", Esprit, Juillet. 
9. J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, European Journal of 
Philosophy, No. 14. 
10. J. Habermas (2008), “A Post - Secular Society - What Does that Means?” Paper 
presented at Istanbul Seminars by Reset Dialogues on Civilizationsm Istanbul, 
2nd - 6th June. 
11. J. Habermas (2008), Between Naturalism and Religion, Polity Press. 
12. E. Kant (A. Tremesaygues dịch, 1913), La Religion dans les Limites de la 
Raison, Paris. 
13. E. Kant (J.F. Poirier dịch, 1991), Réponse à la question: Qu’est-ce que les 
Lumières, Flammarion, Paris. 
14. Lafont (2009), “Religion and public sphere: What are the deliberative obligations 
of democratic citizenship?” Philosophy Social Criticism, Vol. 35, No. 1 - 2. 
15. Nguyễn Xuân Nghĩa (2011), “Các quan điểm về tôn giáo dân sự”, Nghiên cứu 
Tôn giáo, số 2. 
16. Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, 
Nghiên cứu Tôn giáo, số 6. 
38 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 
17. G. Niebuhr (2008), “The Interfaith Movement”, in Freedom of Faith - Religious 
Minorities in United States, US. Departement of State. 
18. P. Portier (2011), “Religion and Democracy in the Thought of Jurgen 
Habermas”, Culture and Society, No. 48. 
19. “Public Sphere”,  
20. “Laicité en France”, 
21. “Separation of church and state”, 
22. J. P. Willaime (2009), “La Laicité 100 ans après” trong L. Chatellier, C. 
Langlois, J.P. Willaime, Lumières, Religion et Laicité, Riveneuve ed. 
Abstract 
PUBLIC SPHERE AND RELIGION 
The article uses the concept of the public sphere, an important concept 
of Western social sciences, particularly of German philosopher and 
sociologist, Jürgen Habermas, to analyze the transformation of the role of 
religion in recent decades. Firstly, the article presents the history of the 
concept and role of religion in the public sphere. The next important part 
highlights some features of religion in the public sphere in France and 
United States. In the conclusion, the article gives some remarks and 
theoretical perspectives suggested by this concept. 
Key words: Jürgen Habermas, public sphere, religion, France, United 
States. 

File đính kèm:

  • pdfkhong_gian_cong_va_ton_giao.pdf