Không gian công và tôn giáo
Bài viết trình bày lịch sử hình thành khái niệm không
gian công (public sphere), một khái niệm quan trọng của khoa học
xã hội Phương Tây, đặc biệt của nhà triết học và xã hội học người
Đức Jürgen Habermas, để phân tích sự biến đổi vai trò tôn giáo
trong những thập niên gần đây, nhất là hiện thực tôn giáo trong
không gian công ở Pháp và Mỹ, từ đó đưa ra một số nhận xét cũng
như viễn tượng lý thuyết xuất phát từ khái niệm không gian công
Bạn đang xem tài liệu "Không gian công và tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Không gian công và tôn giáo
20 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 NGUYỄN XUÂN NGHĨA* KHÔNG GIAN CÔNG VÀ TÔN GIÁO Tóm tắt: Bài viết trình bày lịch sử hình thành khái niệm không gian công (public sphere), một khái niệm quan trọng của khoa học xã hội Phương Tây, đặc biệt của nhà triết học và xã hội học người Đức Jürgen Habermas, để phân tích sự biến đổi vai trò tôn giáo trong những thập niên gần đây, nhất là hiện thực tôn giáo trong không gian công ở Pháp và Mỹ, từ đó đưa ra một số nhận xét cũng như viễn tượng lý thuyết xuất phát từ khái niệm không gian công. Từ khóa: Biến đổi, không gian công, tôn giáo, vai trò . 1. Dẫn nhập Ở các nước Phương Tây, khác với quan điểm của giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khi mà giới chính trị muốn hạn chế tôn giáo trong lĩnh vực riêng tư của cá nhân, trong những thập niên gần đây, vai trò của tôn giáo trong xã hội được khẳng định nhiều hơn, mà một biểu hiện của vấn đề là vị thế của tôn giáo trong không gian công (public sphere). Đây là một chủ đề nghiên cứu rất rộng, do đó bài viết này trình bày giới hạn ở mấy vấn đề: khái niệm không gian công theo quan điểm của J. Habermas; tôn giáo trong không gian công và những tranh luận; hiện thực tôn giáo trong lĩnh vực công tại một số quốc gia. 2. Khái niệm không gian công của J. Habermas Trong lĩnh vực khoa học xã hội, nói đến khái niệm không gian công, không thể không kể đến J. Habermas, nhà triết học và xã hội học số một của Đức hiện nay. Thật ra, khái niệm không gian công của J. Habermas chịu ảnh hưởng quan điểm của E. Kant. Trong tiểu luận Trả lời cho câu hỏi khai minh là gì?, E. Kant đã đề cập đến việc con người “sử dụng công cộng lý tính của mình” (de faire un public usage de sa raison)1. Theo E. Kant, với nguồn lực của mình, con người khó đi đến khai minh, mà cần có một tính công cộng: sự trao đổi tự do các tri thức khoa học, các lý thuyết chính trị và triết học cho phép dẫn đến một sự tiến bộ về * TS., Trường Đại học Mở, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 21 21 mặt đạo đức của con người. Như vậy, E. Kant đã nối kết khai minh (Aufklärung) và tính công cộng (Öffentlichkeit, publicité). Từ đó, J. Habermas cũng xác tín việc chia sẻ tri thức, trao đổi các lập luận, thoát khỏi mọi ràng buộc, đều có thể làm phong phú các quan điểm, mở rộng các chân trời tư tưởng. Như vậy, không gian công có chiều kích kép: là nơi xác định căn tính cá nhân và nơi phát triển tri thức. Không gian công là một chủ đề quan trọng trong tư tưởng của J. Habermas. Ông đề cập đến vấn đề này từ luận án (được giảng dạy chính thức ở bậc đại học) Không gian công: Khảo cổ học về tính công cộng như một chiều kích cấu thành xã hội tư sản (1962)2 cho đến những bài viết gần đây về không gian công Châu Âu. Trong luận án nêu trên, ông đề cập đến khía cạnh sử học, xã hội học và triết học của khái niệm này. J. Habermas phân biệt không gian công về văn chương và chính trị. Vào thế kỷ XVIII, ở Châu Âu đã xuất hiện những câu lạc bộ văn chương, mà trước hết là ở Anh. Ở đó, người ta trao đổi, bàn luận về các tác phẩm văn chương, mà loại hình thông dụng là tiểu thuyết. Ở dạng sơ khai, tiểu thuyết là tập hợp các thư từ, ghi chép của cá nhân. Các tiểu thuyết như vậy là cầu nối giữa lĩnh vực riêng tư và lĩnh vực công. Tiếp đến, người ta tranh luận tác phẩm nào nên đọc, tinh thần tranh luận này được phát triển và triển khai thành bài viết đăng trên các kỳ báo về các vấn đề khoa học, xã hội, dần dần hình thành một không gian trong giới tư sản phê phán quyền lực chính trị, đặc biệt thông qua báo chí. Tiếp theo, vào các thế kỷ XIX và XX, cái không gian công đó không chỉ bàn đến những lợi ích công cộng, mà còn bị chiếm hữu và đề cập đến những lợi ích riêng tư. Trong không gian ấy chằng chéo hai quá trình đối nghịch: một quá trình truyền thông sản sinh ra quyền lực hợp pháp và một quá trình chi phối gian xảo đối với quần chúng bởi những quyền lực bất hợp pháp. Trong luận án của mình, J. Habermas đưa ra một bức tranh bi quan mà ông gọi là “thực dân hóa thế giới sống (colonisation du monde vécu) bởi những quyền lợi riêng tư”, nơi của những chi phối gian xảo, tính công khai giả tạo (pseudo-publicité), nơi cổ vũ cho sự tiêu thụ thay vì tranh luận về lợi ích chung. J. Habermas phê bình gay gắt các phương tiện truyền thông đại chúng, bởi lẽ từ đây chúng đảm nhận vai trò quảng cáo. Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, thậm chí ngay trong lĩnh vực thể chế, tính công cộng của các tranh luận nghị viện trở thành hoan hô nhất trí hay mị dân; các cuộc bầu cử thay vì những tranh luận lý lẽ, trở thành 22 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 những trò gian xảo, trình diễn. Vào những năm 1990, trong một số bài viết, J. Habermas bớt bi quan hơn, nhưng ông vẫn giữ quan điểm về sự căng thẳng giữa tính công cộng mang tính trình diễn, gian xảo và tính công cộng phê phán, kế thừa truyền thống của không gian công tư sản. Không gian công là nơi diễn ra các tranh luận chính thức và phi chính thức (quốc hội, hội đồng, tòa án, phương tiện truyền thông đại chúng, hội đoàn). Không gian công là một trong những điều kiện cho nền dân chủ vì là nơi các tranh luận hình thành các quan điểm thể hiện ước vọng của công dân. Nó cũng cho phép phê bình quyền lực và các định chế đang tồn tại cũng như cho phép thể hiện những ước muốn, những nhu cầu mới được phản ánh từ ngoại vi đi vào trung tâm. Trong tác phẩm Quyền và nền dân chủ, J. Habermas cho thấy con đường đi của một chủ đề xã hội, cũng chỉ là một trong các con đường đi, có thể xuất phát từ ngoại vi của xã hội, rồi được đề cập trên các tạp chí, câu lạc bộ, hội đoàn, tiếp nữa là được tranh luận trên các loại diễn đàn khác nhau; có thể hình thành các phong trào xã hội, tồn tại trong các nhóm văn hóa (subculture). Nếu chủ đề này, thông qua các phong trào xã hội, tạo được âm hưởng nhất định sẽ được quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng và đi vào chương trình nghị sự, được hệ thống chính trị xử lý chính thức3. Tóm lại, theo J. Habermas, không gian công là những định chế xã hội mà ở đó cho phép các tranh luận cởi mở và duy lý giữa các công dân để hình thành công luận (public opinion). Quan điểm của J. Habermas về không gian công gặp nhiều phê phán. Nancy Fraser cho rằng, không gian công tư sản mang tính thống trị và loại trừ, vì nó kỳ thị phụ nữ và không đề cập đến các giai cấp xã hội bên dưới. Do vậy, không phải mọi người đều có thể thâm nhập không gian này. N. Fraser cũng phê bình sự phân biệt riêng và công. Khái niệm “vấn đề được mọi người quan tâm” (common concern) không rõ ràng, chẳng hạn như vấn đề bạo lực gia đình trước đây được coi là riêng tư, đến nay trở thành một tranh luận công cộng. Oskar Negt và Alexander Kluge đòi hỏi J. Habermas phải bổ sung thêm các khái niệm không gian công vô sản, không gian công về sản xuất4 Sau này, J. Habermas cũng thừa nhận ít nhiều đã lý tưởng hóa không gian công tư sản và đánh giá thấp tính đa dạng của các loại hình không gian công khác. Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 23 23 Chủ đề không gian công được đề cập trong nhiều bài viết của J. Habermas. Đây là một chủ đề quan trọng vì nó liên quan đến các câu hỏi về lợi ích chung, vốn đụng chạm đến bất cứ xã hội nào, bất cứ nhóm nào trong xã hội. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi nhà nước - dân tộc (nation - state), mà còn có thể ở quy mô quốc gia, quy mô vùng, châu lục hay thế giới. Bởi lẽ, không gian công tạo ra một cộng đồng tinh thần cho bất cứ cộng đồng pháp lý nào. Trong tranh cãi liệu có căn tính (identity) Châu Âu để làm cơ sở cho cộng đồng Châu Âu, J. Habermas chủ trương, chính công dân Châu Âu phải tự tạo ra căn tính đó, và ông cũng như nhiều trí thức khác khai sinh ra khái niệm không gian công Châu Âu. Như vậy, J. Habermas có một lối tiếp cận thiết kế luận (constructivist) và tự nguyện về căn tính. Trong những bài viết sau, J. Habermas tỏ ra tin tưởng các phong trào nổi lên trong xã hội dân sự. Trong một xã hội đã làm quen với tự do sẽ hình thành một quyền lực phi chính thức từ thế giới sống, nó trở thành quyền lực truyền thông có thể ảnh hưởng đến quyền lực chính trị và hành chính. Trên bình diện liên quốc gia, J. Habermas tin tưởng vào các tổ chức phi chính phủ mà ông xem như là những thành tố tích cực của xã hội dân sự ở cấp độ toàn cầu. Sự tin tưởng như vậy xuất phát từ việc các tác nhân của xã hội dân sự có thể có vai trò tích cực. Trong các thập niên 80 - 90 của thế kỷ XX, không phải hệ thống chính trị mà chính các chủ thể của xã hội dân sự như các trí thức, các chuyên viên, các hội đoàn đã nêu lên những chủ đề quan trọng cần tranh luận như: vấn đề hạt nhân, nghiên cứu sinh học, vấn đề sinh thái, vấn đề nghèo đói ở thế giới đang phát triển, những vấn đề dân tộc và văn hóa, các đòi hỏi về giới tính, v.v Tóm lại, không gian công là nơi người ta nêu thành vấn đề những vấn nạn về lợi ích chung, cũng là nơi người ta đem lại những đóng góp cho các cuộc tranh luận công cộng. 3. Tôn giáo trong không gian công và những tranh luận Trong những thập niên vừa qua, vai trò của tôn giáo trong không gian công nhận được sự quan tâm ngày càng gia tăng của giới học thuật cũng như của xã hội nói chung. Vì đây là chủ đề rất phức tạp và bao gồm nhiều vấn đề, nên ở mục này, bài viết chỉ đề cập đến vai trò của tôn giáo trong các tranh luận chính trị giữa công dân của các xã hội có nền dân chủ tranh luận (deliberative democracy). 24 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 Một giả định căn bản của nền dân chủ tranh luận là các chính sách có tính bắt buộc có thể có tính chính đáng (legitimacy) chỉ khi chúng được sự tán thành của các công dân qua một quá trình tranh luận công khai, không bị giới hạn và bao gồm mọi thành phần xã hội, ở đó mọi công dân đều có được những biện minh dựa trên những lý lẽ mà mỗi người có thể chấp nhận một cách hợp lý đối với các chính sách bắt buộc mà họ phải tuân thủ. Trong tiểu luận Tôn giáo trong không gian công5, J. Habermas chấp nhận những lý lẽ cá nhân đưa ra có thể dựa trên những lập trường nhận thức luận khác nhau. Đây là khó khăn cho nền dân chủ dựa trên thảo luận. Trong tranh luận về vai trò của tôn giáo trong không gian công có một quan điểm tự do mà đại diện là John Rawls. Theo đó, những công dân tham gia vào tranh luận chính trị phải tự giới hạn mình vào việc sử dụng các lý lẽ có thể được chấp nhận một cách công khai bằng cách ủng hộ những chính sách mà họ biện hộ hay bỏ phiếu tán thành thay vì đưa ra những lý lẽ đặt cơ sở trên những học thuyết tôn giáo hay những học thuyết toàn diện (comprehensive doctrine). Như vậy, theo điều kiện nổi tiếng này của J. Rawls, các lý do tôn giáo có thể có trong các tranh luận công cộng về những vấn đề chính trị cơ bản, với điều kiện các lý do chính trị thích hợp phải được đưa ra để ủng hộ bất kỳ chính sách nào mà các lý lẽ tôn giáo muốn ủng hộ. Quan điểm của J. Rawls cởi mở hơn so với quan điểm của một số tác giả, như Audi chẳng hạn, là trong tranh luận chính trị chỉ chấp nhận các lý lẽ thế tục. Tuy nhiên, quan điểm của J. Rawls đặt ra một gánh nặng đối với công dân có tôn giáo (religious citizen), để phân biệt với công dân thế tục (secular citizen)). Bởi J. Rawls đòi hỏi các công dân có tôn giáo phải trình bày lý lẽ của mình bằng lý lẽ không có tính tôn giáo. Về vấn đề này, trong tiểu luận nói trên, J. Habermas cho thấy, ông tán đồng sự cần thiết phải tuân theo đặc trưng của tính chính đáng về nền dân chủ và sự cần thiết hòa nhập chính trị của các công dân có tôn giáo vào nền dân chủ. Ông phân biệt không gian công chính thức (formal public sphere) và không gian công phi chính thức (informal public sphere). Không gian công chính thức bao gồm ở cấp độ định chế như quốc hội, tòa án, các bộ ngành, cơ quan hành chính, còn gọi là lĩnh vực của quyết định chính trị (sphere of political decision). Ở lĩnh vực này, ông chấp nhận quan điểm của J. Rawls. Không gian công phi chính thức, còn gọi là lĩnh vực hình thành công luận (sphere of opinion formation) bao gồm các hội đoàn, các Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 25 25 diễn đàn, các phương tiện truyền thông đại chúng Theo J. Habermas: “Sự mong đợi mọi công dân có tôn giáo khi bỏ phiếu phải để chính họ, kỳ cùng, bị hướng dẫn bởi những đắn đo mang tính thế tục là không biết đến những thực tại của đời sống tôn giáo, một đời sống bị chi phối bởi niềm tin”6. Qua câu nói này, ông muốn phê bình quan điểm của J. Rawls. Do đó, ông đề nghị, trong không gian công phi chính thức, các tranh luận chính trị nên loại bỏ đòi hỏi cung cấp các lý lẽ không tôn giáo để chứng minh. Những công dân có tôn giáo khi tham gia các tranh luận chính trị, vì không có khả năng diễn tả bằng các lý lẽ không tôn giáo, có thể chỉ đưa ra lý do thuần túy tôn giáo để biện hộ những chính sách mà họ ủng hộ với hy vọng rằng, các chuyên gia của bộ máy chính trị và hành chính sẽ chuyển thành các lý lẽ không tôn giáo. Sự phiên sang các lý lẽ không tôn giáo không còn chỉ đặt trên vai các công dân có tôn giáo. Xã hội dân chủ dựa trên những tiền đề biện minh mang tính thế tục và trung lập với các niềm tin tôn giáo, do đó các lý lẽ tôn giáo không thể đi vào không gian công mang tính chính trị (không gian công chính thức) với hình thức ban đầu của chúng. Với lối tiếp cận thảo luận (deliberative approach) của mình và lối hiểu tích cực về tính khoan dung (khoan dung không chỉ là thỏa hiệp), chấp nhận, trân trọng nhau, mà còn phải học hỏi lẫn nhau. J. Habermas quan niệm, nội dung tôn giáo cần được diễn giải bằng ngôn ngữ thế tục. Việc diễn giải này có thể giúp những công dân thế tục hiểu được những khái niệm tôn giáo. Ví dụ, khái niệm “con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa” theo ngôn ngữ thế tục là “mọi người đều có phẩm giá như nhau, do đó xứng đáng được kính trọng vô điều kiện”7. Cũng như trước đây, E. Kant đã diễn giải tội tổ tông là “cái ác có gốc rễ trong bản tính tự nhiên của con người”8. Dĩ nhiên, các tranh luận đều có giới hạn, bởi lẽ có những nội dung của niềm tin tôn giáo không phải là đối tượng của tranh luận duy lý. J. Habermas thừa nhận lý tính thế tục không thể và cũng không được tuyên bố về những chân lý của niềm tin tôn giáo: “Khi những công dân thế tục đảm trách vai trò chính trị, họ không có quyền phủ nhận các hình tượng tôn giáo về thế giới không mang trong mình khả tính về chân lý, cũng không được phản kháng những người đồng công dân của họ quyền mang lại những đóng góp bằng ngôn ngữ tôn giáo vào các cuộc tranh luận”9. Nghĩa vụ diễn giải phải được tất cả công dân chia sẻ. Điều này đòi hỏi một quá trình học hỏi lẫn nhau. Một mặt, công dân có tôn giáo phải có 26 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 thái độ phản tư, thay đổi nhận thức về tính hiện đại, có nghĩa là chấp nhận các tôn giáo khác cũng có thể đi đến chân lý, chấp nhận thẩm ... eadow kiện John Roberts, Giám đốc Pháp luật Tòa án Tối cao Mỹ, vì cho rằng câu “So help us God” trong diễn văn nhậm chức của Tổng thống Obama là vi hiến. Tòa án Tối cao cho rằng, sự khiếu nại là không thích hợp20. Trước đây, M. Meadow cũng bị thất bại như vậy khi kiện Tổng thống Bush. “Bức tường phân ly” ở Mỹ rất nghiêm khắc. Do đó, khác với Pháp, nơi mỗi năm chi nhiều tỷ Euro cho các cơ sở tôn giáo, việc tài trợ cho các cơ sở tôn giáo là điều không thể có ở Mỹ. Các cơ sở tôn giáo ở Mỹ phải tìm nguồn tài chính cho riêng mình. Vấn đề tài trợ công cho hoạt động từ thiện tôn giáo ở Mỹ Từ năm 2001, Tổng thống Bush đặt ra tổ chức White House Office of Faith - Based and Community Initiatives/ OFBCI (tạm dịch: Văn phòng Nhà trắng về Sáng kiến Cộng đồng và Dựa trên Niềm tin). Dưới thời Tổng thống Obama, tổ chức này đổi thành White House Office of Faith - Based and Neighborhood Partnerships. Sáng kiến nhằm củng cố các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo, phát triển khả năng các tổ chức này trong việc cung cấp những dịch vụ xã hội được liên bang tài trợ, với lý do các tổ chức này nắm vững các tình huống thực tế, do đó dễ đáp ứng nhu cầu của những cá nhân ở địa phương. Như vậy, các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo có thể cạnh tranh trong các hợp đồng của chính quyền nhằm cung cấp các dịch vụ xã hội. Tuy nhiên, để tránh sự liên kết giữa nhà nước và các tôn giáo đang thống trị, Nhà Trắng đặt ra ba hạn chế cho các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo để bảo vệ nguyên tắc phân ly giữa nhà nước và tôn giáo: Một là, không được dùng tài trợ trực tiếp của chính quyền để hỗ trợ các hoạt động thuần túy tôn giáo như thực hành nghi lễ, giảng dạy giáo lý, cầu nguyện và truyền đạo. Hai là, các hoạt động từ thiện được tài trợ phải Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 33 33 được tách biệt rõ ràng giữa các dịch vụ xã hội tài trợ, như nồi cháo từ thiện hay cung cấp áo quần, với các dịch vụ tôn giáo. Ba là, các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo không được phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo khi cung cấp dịch vụ21. Sự tài trợ này khá quan trọng. Đến năm 2005, hai tỷ USD đã chi qua các hình thức tài trợ liên bang cho các hoạt động từ thiện tôn giáo. Điều này dấy lên những chống đối, ngay cả ở một bộ phận các tổ chức tôn giáo, vì họ muốn bảo vệ nguyên tắc phân ly nhà nước và tôn giáo. Vấn đề người lao động có tôn giáo và không gian công Xã hội Mỹ càng ngày càng đa dạng hơn về tôn giáo, một mặt do điều khoản tự do hành đạo trong Hiếp pháp (free exercice clause), mặt khác do nguồn gốc dân nhập cư có nhiều tôn giáo khác biệt từ nhiều quốc gia trên thế giới. Hơn nữa, nước Mỹ có đạo luật Quyền công dân (Civil Rights Act) năm 1964 cấm phân biệt chủng tộc, giới tính và tôn giáo nơi công cộng. Vì vậy, nhiều người lao động lên tiếng đòi được thể hiện quyền tự do tôn giáo trong công việc. Theo quy định của luật, họ có quyền được thu xếp công việc cho phù hợp với nhu cầu hành đạo, điều mà không phải mọi lãnh đạo và đồng nghiệp nơi họ làm việc đồng ý. Dưới đây là một số tranh chấp và vụ án điển hình liên quan đến vấn đề này: - Từ năm 2002 đến năm 2007, hơn 4.800 khách du lịch ở Sân bay Quốc tế Minneapolis St. Paul bị những người tài xế taxi theo Islam giáo nhập cư từ Somalia từ chối phục vụ, vì họ nhìn thấy hoặc nghi ngờ hành khách cất rượu trong hành lý. Tranh chấp này hiện chưa được giải quyết ngã ngũ. - Clarence Thomas, kỹ sư lắp ống dẫn dầu, thuộc Nhà máy lọc dầu Conoco Phillips ở Linden, Bang New Jersey bị yêu cầu phải đi làm vào các buổi sáng Chủ nhật hằng tuần tại công ty. Thomas cho biết, lúc đầu anh được thông báo có thể lấy thời gian nghỉ phép để nghỉ vào thời gian đó, nhưng sau đó ngay cả việc dàn xếp lịch như vậy cũng bị từ chối. Đến nay, tranh chấp này vẫn chưa được phân xử. - Bilan Nur, người Somalia nhập cư, 22 tuổi, bị đuổi việc vào tháng 12/2001 vì từ chối bỏ khăn choàng đầu trong cả tháng lễ Ramadan. Cô đã kiện Công ty Alamo Rent A Car. EEOC (US Equal Employment Opportunity Commission/ Ủy ban vì Sự bình đẳng Cơ hội Làm việc) 34 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 được ủy quyền khởi kiện Alamo. Công ty Alamo thậm chí phải trả 250.000 USD để giải quyết vụ việc này22. - Ở Detroit, EEOC khởi kiện Công ty Điều dưỡng tại gia HCR Manor Care vì sa thải một y tá đeo thanh kiếm kirpan cùng trang phục công sở. Kirpan là thanh kiếm lưỡi cùn có vỏ bọc bên ngoài dài 3 inch, một trong những biểu tượng thiêng liêng của Sikh giáo. Ngày 8/6/2010, Manor Care chịu bồi thường 30.000 USD và huấn luyện nghề nghiệp cho mọi nhân viên để dàn xếp vụ kiện tụng trên23. Một số quan điểm của lãnh đạo các cơ quan, xí nghiệp Người Mỹ có đầu óc kinh doanh và đề cao hiệu năng. Do đó, mặc dù không phải mọi lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp đều đồng thuận trong việc tạo điều kiện cho người lao động là tín đồ các tôn giáo có thể thể hiện nhu cầu tôn giáo của mình ở nơi làm việc, nhưng trong những năm gần đây có một số thay đổi trong nhận thức. Hãng sản xuất xe hơi Ford Motor Co. và nhiều hãng khác khuyến khích thành lập các nhóm đồng cảm theo định hướng tôn giáo để thành viên trong nhóm có thể gặp nhau cùng cầu nguyện hoặc nói chuyện. Tập đoàn Texas Instruments Inc. đã xây dựng các phòng tịnh tâm (serenity rooms) để người lao động trong các nhà máy lắp ráp có thể cầu nguyện. Một số phòng tịnh tâm còn được trang bị khu rửa chân để người lao động theo Islam giáo có thể tẩy thể trước khi cầu nguyện theo quy định của tôn giáo này. Khi IBM thắt chặt an ninh sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001, một phụ nữ Islam giáo mới được tuyển dụng lo sợ có thể bị mất việc vì không muốn chụp ảnh mà không choàng khăn che mặt để làm thẻ ra vào. Nhưng hãng máy tính khổng lồ này đã tạo điều kiện cho cô bằng cách cấp hai thẻ nhân viên, một thẻ có ảnh chỉ để lộ đôi mắt để cô có thể đeo nơi công cộng, còn thẻ kia có ảnh không choàng mạng che mặt và chỉ có nhân viên bảo vệ nữ mới được phép xem24. Tuy nhiên, luật pháp Mỹ cũng quy định việc tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên thực hành tôn giáo không tạo nên sự bất tiện nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh sản xuất. Tòa án Tối cao Mỹ trong vụ Hãng hàng không Trans World Inc. kiện Hardison đưa ra phán quyết rằng, bất kỳ những vấn đề gì lớn hơn chi phí tối thiểu với chủ sử dụng lao động đều là những khó khăn không đáng có25. Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 35 35 5. Một vài nhận xét về không gian công và tôn giáo dưới góc độ xã hội học Sự phân biệt không gian công và không gian riêng của tôn giáo là một chủ đề được tranh luận từ thế kỷ XVIII ở Châu Âu ẩn chứa một xung đột về quyền lực liên quan đến quan niệm về vị thế của tôn giáo trong định hướng chính trị, văn hóa và xã hội của các quốc gia hiện đại, như trường hợp của Pháp. Quá trình hiện đại hóa được gắn liền với quá trình thế tục hóa với một đặc trưng là việc riêng tư hóa (privatization) tôn giáo. Nhưng thực chất, tôn giáo là vấn đề riêng tư hay công cộng vẫn là một câu hỏi chưa được trả lời rõ ràng. Dưới góc độ luật học, triết học có thể xem các xác tín tôn giáo là việc riêng tư, liên quan đến cá nhân. Nhưng dưới góc độ xã hội học, phải thấy rằng, tôn giáo là một hiện thực xã hội. Tôn giáo tồn tại qua tổ chức tôn giáo, hoạt động tôn giáo cho dù có những quyền lực công nhận hay không công nhận sự tồn tại của chúng thì chúng vẫn tồn tại, vẫn là những thực thể. Các sự kiện đã trình bày cho thấy, không gian riêng và không gian công có những ranh giới khác nhau tùy theo các tác nhân trong những tình huống đặc thù. Chúng là những biểu trưng dao động, thay đổi qua lịch sử và trong tương quan các lực chi phối. Cách mạng Pháp, đặc biệt Luật phân ly năm 1905 đã đẩy tôn giáo từ một định chế bao trùm xã hội vào vị thế của một định chế riêng biệt cũng như các định chế khác, hơn thế nữa vào lĩnh vực riêng tư cá nhân. Nhưng ngày nay, khi tôn giáo không còn là một đối trọng của quyền lực chính trị, tôn giáo lại được mời gọi đóng vai trò lớn hơn trong không gian công. Lấy trường hợp các nước Đông Âu từ sau Thế chiến thứ II đến những năm 1990, tôn giáo bị giới hạn vào lĩnh vực riêng tư của chọn lựa cá nhân. Nhưng với sự tan rã của các quốc gia thuộc khối Đông Âu, các tôn giáo lại tham gia vào không gian công, đóng góp cho các lĩnh vực giáo dục, xã hội. Nhìn chung, trong tương quan giữa tôn giáo và không gian công, có hai mô hình chính yếu: mô hình duy thế tục, muốn đẩy tôn giáo vào lĩnh vực riêng tư và mô hình hậu thế tục (post - secular)26, gắn tôn giáo với chức năng tạo ý nghĩa vững chắc cho cuộc sống đầy biến động hôm nay, là nguồn lực cho cá nhân và xã hội. Giữa hai mô hình chính yếu trên tồn tại nhiều biến thể đa dạng./. CHÚ THÍCH: 36 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 1 E. Kant (J. F. Poirier dịch, 1991), Réponse à la question: Qu’est-ce que les Lumières, Flammarion, Paris. 2 J. Habermas (M. B. de Launay dịch, 1978), L'Espace public: Archéologie de la publicité comme dimension constitutive de la société bourgeoise, Payot, Paris. 3 J. Habermas (R. Rochlitz, C. Bouchindhomme dịch,1997), Droit et democratie, Gallimard, Paris. 4 5 J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, European Journal of Philosophy, No. 24: 1. 6 J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, bđd: 9. 7 J. Habermas (2008), Between Naturalism and Religion, Polity Press: 45. 8 E. Kant (A. Tremesaygues dịch, 1923), La Religion dans les Limites de la Raison, Paris: 37, trong Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 6: 23. 9 J. Habermas (2004), “Prépolitiques de l’État démocratique: Pluralisme et morale”, Esprit, Juillet: 18. 10 J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, bđd: 14 - 15; C. Lafont (2009), “Religion and public sphere: What are the deliberative obligations of democratic citizenship?”, Philosophy Social Criticism, Vol. 35: 131 - 132. 11 P. Portier (2012), “Religion and Democracy in the Thought of Jurgen Habermas”, Culture and Society, No. 48: 426 - 432, trong Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, bđd: 17-19. 12 “Laicité en France”, J. Baubérot (2004), Histoire de la laicite en France, PUF, Que Sais-je?. 13 Commission Stasi (2004), Laicité et République, La Documentation Francaise, Paris: 31. 14 J. P. Willaime (2009), “La Laicité 100 ans après”, trong L. Chatellier, C. Langlois & J.P. Willaime, Lumières, Religion et Laicité, Riveneuve ed. 15 “Separation of church and state”, Sébastien Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, modèle américain”, Questions Internationales, No. 29. 16 Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ chống lại khối Xô Viết theo chủ nghĩa vô thần. 17 Nguyễn Xuân Nghĩa (2011), “Các quan điểm về tôn giáo dân sự”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2. 18 Theo tôi, nên hiểu establisment theo nghĩa là chính thức hóa một tôn giáo (lấy làm quốc giáo), hơn là thuật ngữ thiết lập. Trong cuộc tranh luận ở Quốc hội Mỹ về vấn đề này, người ta không dám dùng thuật ngữ “tôn giáo quốc gia” vì tránh hiểu lầm là Anh giáo do muốn tránh né sự đụng độ giữa những người ủng hộ và những người phản đối hình thức liên bang của Mỹ. 19 20 Amandine Barb (2010), “Le renouveau du militantisme athée aux États-Unis”, Sciences humaines, No. 214: 31. Xem thêm: Nguyễn Xuân Nghĩa. Không gian công và tôn giáo. 37 37 21 Sébastien Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, modèle américain”, bđd. 22 Xem: 23 Xem: protecting-sikh-employees-right-to-wear-kirpan-at-work/. 24 Gustav Niebuhr (2008), “The Interfaith Movement”, in Freedom of Faith - Religious Minorities in United States, US Departement of State. 25 Xem: 26 J. Habermas (2008), “A Post - Secular Society - What Does that Means”? Paper presented at Istanbul Seminars by Reset Dialogues on Civilizations, Istanbul, 2nd - 6th June. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A. Barb (2010), “Le renouveau du militantisme athée aux États-Unis”, Sciences humaines, No. 214. 2. J. Baubérot (2004), Histoire de la laicite en France, PUF, Que Sais-je? 3. Commission Stasi (2004), Laicité et République, La Documentation Francaise, Paris. 4. S. Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, modèle américain”, Questions Internationales, No. 29. 5. S. Haber (2001), Jurgen Habermas, une introduction, La Découverte, Paris. 6. J. Habermas (R. Rochlitz, C. Bouchindhomme dịch, 1997), Droit et democratie, Gallimard, Paris. 7. J. Habermas (2004), “Prépolitiques de l’État démocratique: Pluralisme et morale”, Esprit, Juillet. 8. J. Habermas (2004), "Les Fondements Prépolitiques de l’État démocratique. Pluralisme et morale", Esprit, Juillet. 9. J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, European Journal of Philosophy, No. 14. 10. J. Habermas (2008), “A Post - Secular Society - What Does that Means?” Paper presented at Istanbul Seminars by Reset Dialogues on Civilizationsm Istanbul, 2nd - 6th June. 11. J. Habermas (2008), Between Naturalism and Religion, Polity Press. 12. E. Kant (A. Tremesaygues dịch, 1913), La Religion dans les Limites de la Raison, Paris. 13. E. Kant (J.F. Poirier dịch, 1991), Réponse à la question: Qu’est-ce que les Lumières, Flammarion, Paris. 14. Lafont (2009), “Religion and public sphere: What are the deliberative obligations of democratic citizenship?” Philosophy Social Criticism, Vol. 35, No. 1 - 2. 15. Nguyễn Xuân Nghĩa (2011), “Các quan điểm về tôn giáo dân sự”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2. 16. Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 6. 38 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014 17. G. Niebuhr (2008), “The Interfaith Movement”, in Freedom of Faith - Religious Minorities in United States, US. Departement of State. 18. P. Portier (2011), “Religion and Democracy in the Thought of Jurgen Habermas”, Culture and Society, No. 48. 19. “Public Sphere”, 20. “Laicité en France”, 21. “Separation of church and state”, 22. J. P. Willaime (2009), “La Laicité 100 ans après” trong L. Chatellier, C. Langlois, J.P. Willaime, Lumières, Religion et Laicité, Riveneuve ed. Abstract PUBLIC SPHERE AND RELIGION The article uses the concept of the public sphere, an important concept of Western social sciences, particularly of German philosopher and sociologist, Jürgen Habermas, to analyze the transformation of the role of religion in recent decades. Firstly, the article presents the history of the concept and role of religion in the public sphere. The next important part highlights some features of religion in the public sphere in France and United States. In the conclusion, the article gives some remarks and theoretical perspectives suggested by this concept. Key words: Jürgen Habermas, public sphere, religion, France, United States.
File đính kèm:
- khong_gian_cong_va_ton_giao.pdf