Luận án Nghiên cứu bào chế viên felodipin 5 mg giải phóng kéo dài theo cơ chế thẩm thấu

Felodipin là thuốc điều trị tăng huyết áp với nhiều ưu điểm như: Tác dụng

chọn lọc trên cơ trơn hệ tiểu động mạch làm giảm huyết áp, không gây hạ huyết áp

thế đứng nên an toàn, phù hợp để sử dụng dài ngày và với người cao tuổi, không

có nguy cơ tích lũy thuốc khi điều trị kéo dài,. Tuy nhiên, felodipin rất ít tan

trong nước, liều sử dụng nhỏ nên cần được kiểm soát tốc độ giải phóng. Bên cạnh

đó, các chế phẩm chứa felodipin do phải sử dụng thường xuyên và kéo dài nên dễ

gây khó khăn trong việc tuân thủ điều trị và các tác dụng bất lợi cho người bệnh.

Thuốc giải phóng kéo dài qua đường uống được phát triển nhằm giảm số

lần dùng thuốc, giảm dao động nồng độ dược chất trong máu, tăng hấp thu, nên

giúp làm tăng hiệu quả điều trị và giảm tác dụng không mong muốn. Có nhiều

phương pháp khác nhau để bào chế dạng thuốc giải phóng kéo dài như: Bào chế

dưới dạng cốt trơ khuếch tán hoặc cốt trương nở, bao màng polymer khuếch tán

hoặc kết hợp cả hai kỹ thuật trên, bào chế thuốc dưới dạng bơm thẩm thấu,.

Trong số đó, sử dụng nguyên lý bơm thẩm thấu là một hướng có nhiều ưu điểm rõ

rệt và thiết thực so với các thuốc giải phóng kéo dài khác như: Thích hợp với hầu

hết các loại dược chất, giải phóng dược chất theo động học bậc không, tốc độ giải

phóng hầu như không bị ảnh hưởng bởi điều kiện ở đường tiêu hóa, Hiện nay,

hai hệ phân phối thuốc có kiểm soát theo cơ chế thẩm thấu được sử dụng rộng rãi

là bơm thẩm thấu quy ước và bơm thẩm thấu kéo - đẩy, trong đó bơm thẩm thấu

kéo - đẩy có nhiều ưu điểm về kiểm soát giải phóng dược chất và phù hợp với các

dược chất có độ tan khác nhau, đặc biệt là các dược chất liều thấp và ít tan trong

nước.

Chính vì vậy, để tiến tới chủ động sản xuất thuốc trong nước với chất lượng

cao, việc nghiên cứu phát triển dạng thuốc giải phóng kéo dài chứa felodipin ứng

dụng công nghệ bơm thẩm thấu kéo - đẩy là hướng đi có tính khả thi, có ý nghĩa

lớn với khoa học bào chế và thực tế lâm sàng.

pdf 139 trang dienloan 9620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bào chế viên felodipin 5 mg giải phóng kéo dài theo cơ chế thẩm thấu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bào chế viên felodipin 5 mg giải phóng kéo dài theo cơ chế thẩm thấu

Luận án Nghiên cứu bào chế viên felodipin 5 mg giải phóng kéo dài theo cơ chế thẩm thấu
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Felodipin là thuốc điều trị tăng huyết áp với nhiều ưu điểm như: Tác dụng 
chọn lọc trên cơ trơn hệ tiểu động mạch làm giảm huyết áp, không gây hạ huyết áp 
thế đứng nên an toàn, phù hợp để sử dụng dài ngày và với người cao tuổi, không 
có nguy cơ tích lũy thuốc khi điều trị kéo dài,... Tuy nhiên, felodipin rất ít tan 
trong nước, liều sử dụng nhỏ nên cần được kiểm soát tốc độ giải phóng. Bên cạnh 
đó, các chế phẩm chứa felodipin do phải sử dụng thường xuyên và kéo dài nên dễ 
gây khó khăn trong việc tuân thủ điều trị và các tác dụng bất lợi cho người bệnh. 
Thuốc giải phóng kéo dài qua đường uống được phát triển nhằm giảm số 
lần dùng thuốc, giảm dao động nồng độ dược chất trong máu, tăng hấp thu, nên 
giúp làm tăng hiệu quả điều trị và giảm tác dụng không mong muốn. Có nhiều 
phương pháp khác nhau để bào chế dạng thuốc giải phóng kéo dài như: Bào chế 
dưới dạng cốt trơ khuếch tán hoặc cốt trương nở, bao màng polymer khuếch tán 
hoặc kết hợp cả hai kỹ thuật trên, bào chế thuốc dưới dạng bơm thẩm thấu,... 
Trong số đó, sử dụng nguyên lý bơm thẩm thấu là một hướng có nhiều ưu điểm rõ 
rệt và thiết thực so với các thuốc giải phóng kéo dài khác như: Thích hợp với hầu 
hết các loại dược chất, giải phóng dược chất theo động học bậc không, tốc độ giải 
phóng hầu như không bị ảnh hưởng bởi điều kiện ở đường tiêu hóa, Hiện nay, 
hai hệ phân phối thuốc có kiểm soát theo cơ chế thẩm thấu được sử dụng rộng rãi 
là bơm thẩm thấu quy ước và bơm thẩm thấu kéo - đẩy, trong đó bơm thẩm thấu 
kéo - đẩy có nhiều ưu điểm về kiểm soát giải phóng dược chất và phù hợp với các 
dược chất có độ tan khác nhau, đặc biệt là các dược chất liều thấp và ít tan trong 
nước. 
Chính vì vậy, để tiến tới chủ động sản xuất thuốc trong nước với chất lượng 
cao, việc nghiên cứu phát triển dạng thuốc giải phóng kéo dài chứa felodipin ứng 
dụng công nghệ bơm thẩm thấu kéo - đẩy là hướng đi có tính khả thi, có ý nghĩa 
lớn với khoa học bào chế và thực tế lâm sàng. Đề tài luận án “Nghiên cứu bào 
chế viên felodipin 5 mg giải phóng kéo dài theo cơ chế thẩm thấu” được tiến 
2 
hành với các mục tiêu sau: 
1. Bào chế được viên nén felodipin 5 mg giải phóng kéo dài 12 giờ theo 
cơ chế bơm thẩm thấu kéo - đẩy ở quy mô 10.000 viên/lô. 
2. Xây dựng được tiêu chuẩn cơ sở và đánh giá độ ổn định của chế 
phẩm nghiên cứu. 
3. Bước đầu đánh giá tương đương sinh học của chế phẩm nghiên cứu 
so với viên đối chiếu Felutam CR 5 mg. 
3 
CHƯƠNG 1 
TỔNG QUAN 
1.1. FELODIPIN VÀ NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ FELODIPIN TÁC DỤNG 
KÉO DÀI 
1.1.1. Felodipin 
1.1.1.1. Công thức hóa học 
- Công thức cấu tạo: 
- Công thức phân tử: C18H19Cl2NO4 
- Khối lượng phân tử (MW): 384,25 
- Tên khoa học: ( ) Ethyl methyl 4-(2,3-dichlorophenyl)-1,4-dihydro-2,6-
dimethyl-3,5-pyridinedicarboxylat [1]. 
1.1.1.2. Tính chất lý hóa 
Felodipin (FE) ở dạng bột tinh thể màu vàng nhạt đến vàng; rất ít tan trong 
nước, tan trong aceton, methanol; điểm nóng chảy 145 °C [2], [3]. Trong Hệ thống 
phân loại sinh dược học (BCS), FE thuộc phân nhóm 2 gồm các chất ít tan trong 
nước và thấm tốt, hệ số log P 4,36 [3], [4]. 
1.1.1.3. Phương pháp định lượng 
Theo Dược điển Mỹ (USP) 36 [1], định lượng FE trong nguyên liệu và viên 
giải phóng (GP) kéo dài bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) với 
cột kích thước 150 x 4,6 mm, hạt nhồi 5 m, detector UV, pha động là hỗn hợp 
acetonitril - methanol - dung dịch đệm phosphat pH 3 0,05 (2 : 1 : 2) với tốc độ 
dòng 1 mL/phút. 
Đa số nghiên cứu định lượng FE trong các chế phẩm bằng phương pháp 
HPLC pha đảo, sử dụng cột C18 kích thước 250 x 4,6 mm [5], [6], [7], [8] hoặc 
cột C8 kích thước 150 x 4,6 mm [9] với hạt nhồi 5 m. Pha động thường là hỗn 
4 
hợp acetonitril với các dung môi khác như nước [6], [7] hoặc amoni acetat [8] hay 
nước và methanol [9] với tốc độ dòng duy trì 1 mL/phút. 
1.1.1.4. Dược động học 
- Hấp thu: FE hấp thu 98 - 100 % qua đường tiêu hoá sau khi uống nhưng 
chuyển hóa bước đầu qua gan, sinh khả dụng (SKD) khoảng 10 - 25 %. Tốc độ 
hấp thu tăng lên khi uống thuốc vào bữa ăn, nồng độ tối đa trong máu tăng lên tới 
60 % khi uống cùng bữa ăn có lượng carbohydrat và chất béo cao. Nồng độ đỉnh 
trong huyết tương (HT) đạt được sau khi uống 2 - 5 giờ (dạng GP ngay) [10], [11]. 
- Phân bố: Khoảng 99 % FE trong máu liên kết với protein, chủ yếu là 
albumin. Thể tích phân bố là 10 L/kg [3], [10], [11]. 
- Chuyển hóa: FE chuyển hoá mạnh qua gan thành các chất chuyển hóa 
không hoạt tính [10]. 
- Thải trừ: Thải trừ chủ yếu (khoảng 70 %) dưới dạng các chất chuyển hoá 
qua nước tiểu, phần chưa chuyển hoá đào thải qua phân. Thời gian bán thải (t1/2) là 
11 - 16 giờ. Độ thanh thải 0,8 L/phút. Không có nguy cơ tích lũy thuốc đáng kể 
khi điều trị lâu dài [3], [10], [11]. 
1.1.1.5. Tác dụng dược lý 
FE là một chất chẹn kênh calci chậm có tính chất chọn lọc thuộc dẫn chất 
1,4 - dihydropyridin. Ở nồng độ thấp, FE ức chế calci đi vào tế bào cơ trơn bằng 
cách tác động đến kênh calci chậm, dẫn đến tác dụng giãn mạch gây hạ huyết áp. 
Do tính chất chọn lọc cao đối với cơ trơn thành tiểu động mạch nên FE ở liều điều 
trị không gây tác dụng trực tiếp đến tim, đặc biệt đến tính co bóp cơ tim hoặc tính 
dẫn truyền. FE có tác dụng chống đau thắt ngực nhờ cải thiện cân bằng giữa cung 
và cầu oxy cho cơ tim, giảm sức cản động mạch vành và chống co thắt động mạch 
vành. FE không giữ nước và muối khi điều trị lâu dài, không ảnh hưởng đến 
chuyển hoá glucid và lipid [10]. 
1.1.1.6. Chỉ định, liều dùng và cách dùng 
* Chỉ định và liều dùng: 
- Điều trị tăng huyết áp: Liều khởi đầu ở người lớn là 5 mg/ngày, liều duy 
5 
trì là 2,5 - 10 mg/ngày. Liều cần điều chỉnh theo đáp ứng của người bệnh và sự 
dung nạp thuốc sau khoảng 2 tuần sử dụng. 
- Dự phòng đau thắt ngực ổn định: Khởi đầu 5 mg/ngày, tăng lên 10 
mg/ngày nếu cần [2], [10]. 
* Chống chỉ định: Quá mẫn với dihydropyridin, nhồi máu cơ tim cấp 
(trong vòng 1 tháng), suy tim mất bù hoặc chưa kiểm soát được, đau thắt ngực 
không ổn định, các biệt dược chứa dầu thầu dầu khi bị tắc ruột [10]. 
1.1.1.7. Một số chế phẩm dạng tác dụng kéo dài của felodipin 
Bảng 1.1. Một số chế phẩm dạng tác dụng kéo dài của felodipin 
Chế phẩm Hàm lượng Dạng bào chế Hãng sản xuất 
Nước sản 
xuất 
Felodil ER 5 mg 
Viên nén bao phim 
GP kéo dài 
Korea United 
Pharm. Inc. 
Hàn Quốc 
Felodipin Stada 
5mg retard 
5 mg 
Viên nén bao phim 
GP kéo dài 
Liên doanh Stada 
- Việt Nam 
Việt Nam 
Felutam CR 5 mg 
Viên GP 
có kiểm soát 
Vellpharm 
Việt Nam 
Việt Nam 
Flodicar MR 5 mg 
Viên nén bao phim 
GP kéo dài 
Pymepharco Việt Nam 
Mibeplen 5 mg 
Viên nén bao phim 
tác dụng kéo dài 
Liên doanh Hasan 
- Dermapharm 
Việt Nam 
Plendil 5 mg 
Viên nén 
GP kéo dài 
AstraZeneca AB Thụy Điển 
Plendil Plus 
FE 5 mg, 
metoprolol 
succinat 47,5 mg 
Viên nén 
GP kéo dài 
AstraZeneca AB Thụy Điển 
1.1.2. Các nghiên cứu bào chế felodipin tác dụng kéo dài 
Hệ cốt là dạng bào chế ít phức tạp nhất để đạt được GP có kiểm soát vì có 
thể sản xuất với quy trình và thiết bị thông thường, ứng dụng được cho các dược 
chất (DC) có hàm lượng từ thấp đến cao với tính chất lý hóa khác nhau [12]. Đa số 
nghiên cứu bào chế viên FE GP kéo dài hệ cốt thân nước sử dụng polymer thân 
nước có khả năng trương nở là hydroxy propyl methyl cellulose (HPMC) với độ 
nhớt khác nhau làm polymer kiểm soát GP: Hệ cốt FE được bào chế bằng phương 
6 
pháp dập thẳng, sử dụng các polymer HPMC (E4MCR và K100M) và polyethylen 
oxyd (PEO) để kéo dài GP, kết quả cho thấy công thức tối ưu chứa 41,7 % 
E4MCR GP kéo dài FE in vitro lên đến 10 giờ tương tự như viên đối chiếu 
Plendil với hệ số tương đồng 2 = 68,28 [13]; Viên nén FE GP kéo dài được bào 
chế bằng phương pháp dập thẳng với các HPMC có độ nhớt khác nhau, kết quả 
cho thấy công thức chứa 26,6 % E4MCR và 9,4% E15LV đạt yêu cầu về chỉ tiêu 
độ hòa tan theo USP và có đồ thị hòa tan được coi là giống viên đối chiếu Plendil 
với hệ số 2 = 80,08 [14]; Viên nén FE dạng cốt bao phim GP kéo dài bào chế 
bằng phương pháp tạo hạt ướt với các HPMC có độ nhớt khác nhau, sử dụng chất 
diện hoạt Cremophor RH40 làm tăng độ tan của FE, nghiên cứu đã lựa chọn được 
công thức chứa 44,1 % Methocel E50 Premium có hệ số 2 = 83,5 so với viên đối 
chiếu Plendil để nâng cấp quy trình [15]. Do FE được hấp thu ở phần trên của 
ruột non và có độ tan cao hơn trong môi trường acid nên Talukdar A. và cộng sự 
[16] đã phát triển hệ cốt lưu tại dạ dày dạng viên nổi sủi bọt, sử dụng kết hợp 
polymer ưa nước HPMC và polymer kỵ nước Carbopol để GP có kiểm soát FE ở 
đầu ruột non trong 12 giờ, giúp cải thiện độ tan và SKD, đồng thời tạo điều kiện 
hấp thu tối đa DC và giảm tác dụng không mong muốn gây kích ứng dạ dày, buồn 
nôn của FE. Lee K.R.và cộng sự [17] đã phát triển viên nén GP có kiểm soát chứa 
FE bằng cách tăng độ tan trong nước của FE với poloxamer và sử dụng polymer 
trương nở Carbopol làm vật liệu tạo cốt, giúp GP có kiểm soát FE trong 24 giờ 
đầu gần như theo động học bậc không khi hàm lượng Carbopol tăng đến 5 hoặc 
10 %. Tejaswi M. và cộng sự [18] đã bào chế viên nén dạng cốt sử dụng polymer 
tổng hợp từ tinh bột là tinh bột - urê - borat giúp GP DC chậm và kéo dài trên 24 
giờ theo động học bậc không với hiệu quả kéo dài GP tốt hơn HPMC và natri 
carboxy methylcellulose. Trong khi đó, Kumar S.K. và cộng sự [19] lại phát triển 
viên FE GP có kiểm soát hệ cốt không thân nước bào chế với các polymer kỵ 
nước như glyceryl monostearat và sáp Carnauba bằng phương pháp dập thẳng, 
mang lại hiệu quả kéo dài GP tới 24 giờ. 
Nghiên cứu GP thuốc có kiểm soát hiện nay tập trung vào việc bào chế hệ 
7 
nano hoặc hệ vi tiểu phân đồng nhất có kích thước và hình dạng định trước với 
hàm lượng DC cao [20], ví dụ như: Hệ vi tiểu phân đồng nhất có kích thước định 
sẵn bào chế bằng phương pháp mẫu hydrogel, sử dụng polymer phân hủy sinh học 
là poly (lactic-co-glycolic) acid [20]; hệ nano poly (lactic-co-glycolic) acid bào 
chế bằng kỹ thuật bốc hơi dung môi từ nhũ tương đơn [21]; hệ nano tự nhũ hóa sử 
dụng lượng dầu propylen glycol dicaprylocaprat khác nhau với chất diện hoạt là 
Cremophor, chất đồng diện hoạt glyceryl mono và dicaprat nhằm cải thiện tốc độ 
hòa tan của FE, sau đó bao màng kỵ nước để kéo dài GP [22]. 
Bên cạnh đó, các nghiên cứu bào chế dạng tác dụng kéo dài của FE còn tập 
trung phát triển hệ bình chứa đa đơn vị kết hợp lợi thế của các chế phẩm đa đơn vị 
với khả năng điều chỉnh GP DC của hệ màng bao polyme. Iovanov R.I. và cộng sự 
đã thiết kế hệ GP kéo dài loại bình chứa của FE dưới dạng pellet nạp hệ phân tán 
rắn của FE với PVP [23] hoặc hạt nạp FE [24] bao màng EC và dùng HPMC độ 
nhớt thấp làm chất tạo lỗ bằng phương pháp bao tầng sôi để kiểm soát GP DC 
trong 12 giờ. 
Tuy nhiên, hệ cốt và bình chứa có hạn chế là SKD thay đổi do các yếu tố 
sinh lý khác nhau như thức ăn, pH và nhu động đường tiêu hóa [25], [26]. Trong 
khi đó, hệ phân phối thuốc theo cơ chế thẩm thấu sử dụng áp suất thẩm thấu 
(ASTT) làm động lực GP nên GP thuốc có thể được kiểm soát ở tốc độ hằng định 
với ưu điểm là độc lập với thành phần và điều kiện thủy động học của môi trường, 
giảm thiểu ảnh hưởng của thức ăn [27], [28]. 
1.2. BƠM THẨM THẤU KÉO - ĐẨY 
1.2.1. Tổng quan về hệ thẩm thấu dùng đường uống 
1.2.1.1. Khái niệm 
Thẩm thấu là quá trình chuyển động của các phân tử chất tan từ nơi có nồng 
độ thấp sang nơi có nồng độ cao hơn qua một màng bán thấm. Sự chênh lệch áp 
suất hai bên màng đồng thời với việc di chuyển của chất tan qua màng được định 
nghĩa là ASTT. Hệ thẩm thấu là hệ phân phối thuốc sử dụng các nguyên tắc của 
ASTT để kiểm soát GP DC [29], [30], [31]. 
8 
1.2.1.2. Phân loại 
Hệ thẩm thấu dùng đường uống có thể phân loại dựa theo cấu tạo, gồm: 
- Bơm thẩm thấu một khoang: EOP. 
- Bơm thẩm thấu đa khoang: Bơm thẩm thấu kéo - đẩy (Push - pull osmotic 
pump - PPOP), bơm thẩm thấu có khoang thứ hai không giãn nở (Osmotic pump 
with non expanding second chamber). 
- Hệ đặc biệt: Bơm thẩm thấu kiểm soát bằng độ xốp của màng (Controlled 
porosity osmotic pump - CPOP), bơm thẩm thấu bùng màng (Osmotically bursting 
osmotic pump), bơm thẩm thấu dạng sandwich (Sandwiched osmotic tablet 
systems), bơm thẩm thấu OROS-CT (Oral osmotic - colon targeted), bơm thẩm 
thấu L-OROS (Liquyd - oral osmotic system), viên thẩm thấu đồng nhất 
(Monolithic osmotic tablet), bơm thẩm thấu cho các DC không tan (Osmotic pump 
for insoluble drugs) [29], [31]. 
1.2.2. Tổng quan về bơm thẩm thấu kéo - đẩy 
1.2.2.1. Cấu tạo 
PPOP là một loại bơm thẩm thấu quy ước cải tiến gồm một viên nhân hai 
hoặc ba lớp, trong đó có một lớp đẩy và một hoặc nhiều lớp chứa DC. Thông 
thường, PPOP được bào chế dưới dạng viên hai lớp gồm: 
+ Lớp thứ nhất là lớp chứa DC, polymer có MW thấp, tá dược (TD) thẩm 
thấu và các TD khác (thường chiếm 60 - 80 % trọng lượng viên). 
+ Lớp thứ hai là lớp đẩy gồm polymer trương nở có MW cao hơn, TD thẩm 
thấu, TD tạo màu và các TD thích hợp khác (thường chiếm 20 - 40 % trọng lượng 
viên). 
Hai lớp được bào chế riêng và liên kết với nhau nhờ lực nén để tạo thành 
viên nhân hai lớp. Viên nhân được bao bằng màng bán thấm, có khoan miệng GP 
trên mặt lớp DC [25], [29], [31], [32]. 
Một số dạng biến đổi của hệ này như: Hệ kéo - đẩy muộn (ứng dụng trong 
Covera HS, một công thức GP kéo dài của verapamil), hệ kéo - đẩy nhiều lớp (mô 
hình GP muộn hoặc theo nhịp), hệ dính - đẩy (mô hình GP muộn, quy ước hoặc 
9 
theo nhịp để phân phối thuốc không tan cần đưa lượng lớn) [33]. 
1.2.2.2. Cơ chế giải phóng dược chất 
Khi tiếp xúc với dịch tiêu hóa, nước được hút vào viên nhờ TD thẩm thấu 
trong cả hai lớp, hydrat hóa polymer của cả lớp DC và lớp đẩy. Bản chất polymer 
của lớp DC cho phép hòa tan hoặc phân tán DC tạo thành dung dịch hay hỗn dịch 
DC. Đồng thời, lớp đẩy trương nở tạo áp lực đẩy dung dịch hoặc hỗn dịch DC ra 
ngoài qua miệng GP đến khi GP hoàn toàn DC (Hình 1.1) [28], [29], [31], [34]. 
Hình 1.1. Quá trình giải phóng dược chất của bơm thẩm thấu kéo - đẩy 
* Nguồn: theo Babasaheb B. (2014) [35] 
1.2.2.3. Ưu nhược điểm 
- Ưu điểm: 
+ Có thể phân phối các DC dễ tan và ít tan trong nước theo động học bậc 
không đến khi GP hết DC. 
+ GP thuốc từ hệ độc lập với tính chất của DC và điều kiện sinh lí bên 
ngoài (pH của môi trường và nhu động đường tiêu hóa), ít chịu ảnh hưởng nhất 
của thức ăn (tương tác với thức ăn thường thấy trong trường hợp DC ít tan). 
+ Tốc độ GP độc lập với kích thước miệng GP trong một giới hạn. 
+ Có thể đạt được tốc độ GP cao hơn so với hệ khuếch tán có kiểm soát. 
+ Có thể bào chế dưới dạng GP muộn, GP theo nhịp, GP biến đổi và GP 
theo chương trình. 
10 
+ Giảm số lần dùng thuốc, cải thiện khả năng dung nạp cũng như sự tuân 
thủ của bệnh nhân. 
+ Giảm tác dụng không mong muốn của thuốc. 
+ Tương quan in vitro - in vivo đạt được ở mức cao. 
- Nhược điểm: 
+ Cần thiết bị dập viên ha ...  sơ bộ dự đoán tuổi 
thọ của thuốc tối thiểu là 24 tháng. 
Qua các số liệu nghiên cứu về độ ổn định cho thấy muốn có tuổi thọ dài 
hơn cần thay đổi bao bì chống ẩm tốt hơn, ví dụ ép vỉ nhôm - nhôm do trong thành 
phần viên chứa nhiều polymer thân nước (PEO). Mặc dù viên nhân được dập 
thẳng không qua quá trình tạo hạt, tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo độ ổn định 
cho dược chất, nhưng quy trình khá dài và nhiều công đoạn tiếp xúc với nhiệt như 
bao (2 lần); khoan tia laser. Do đó, để tăng độ ổn định cho dược chất, cần kiểm 
soát tốt nhiệt độ các công đoạn bào chế. 
Do khó khăn về thiết bị nghiên cứu (Tủ vi khí hậu chỉ đặt được một điều 
kiện lão hoá cấp tốc), nghiên cứu độ ổn định ở điều kiện dài hạn chưa đáp ứng 
133 
chặt chẽ điều kiện nhiệt độ, độ ẩm quy định. Điều kiện lưu mẫu theo dõi độ ổn 
định thực là điều kiện phòng thí nghiệm với nhiệt độ và độ ẩm được kiểm soát 
bằng điều hoà nhiệt độ nên có mức dao động cao hơn so với để ở tủ vi khí hậu. 
Khi tiếp tục triển khai ở qui mô lớn hơn để áp dụng vào sản xuất sẽ tiếp tục nghiên 
cứu độ ổn định dài hạn theo đúng qui định hiện hành. 
4.3. VỀ BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ TƯƠNG ĐƯƠNG SINH HỌC VIÊN 
FELODIPIN GIẢI PHÓNG KÉO DÀI BÀO CHẾ ĐƯỢC 
4.3.1. Xây dựng và thẩm định phương pháp định lượng felodipin trong huyết 
tương 
FE thuộc phân nhóm 2 trong Hệ thống phân loại sinh dược học gồm những 
chất ít tan trong nước và rất thấm, vì vậy độ tan là yếu tố hạn chế tốc độ hấp thu 
[4]. Bên cạnh đó, do hàm lượng viên nhỏ (5 mg) nên nồng độ FE hấp thu trong 
huyết tương thấp. Ngoài ra, với lượng mẫu ít, nền mẫu phức tạp, nên phương pháp 
phân tích sinh học dùng để định lượng FE trong huyết tương đòi hỏi phải đặc hiệu 
và có độ nhạy cao. Căn cứ vào kết quả tổng hợp tài liệu tham khảo và dựa trên 
nguyên lý hoạt động của phương pháp sắc ký lỏng - khối phổ, nghiên cứu đã lựa 
chọn phương pháp sắc ký lỏng siêu hiệu năng ghép nối với detector khối phổ 
(UPLC-MS/MS) để định lượng FE trong HT người trong điều kiện Việt Nam. Hệ 
UPLC sử dụng hạt nhồi kích thước nhỏ (1,8 m) làm tăng hiệu suất tách, độ nhạy và 
độ phân giải so với hệ HPLC thông thường sử dụng cột phân tích nạp hạt 3 - 5 m 
[78]. Điều kiện sắc ký và khối phổ đã được lựa chọn cho thấy có thể tách DC tốt, 
không lẫn pic tạp, phù hợp với việc phân tích mẫu. Phương pháp phân tích được 
thẩm định theo các hướng dẫn về thẩm định phương pháp định lượng thuốc trong 
dịch sinh học của FDA cùng một số tài liệu trong và ngoài nước với các chỉ tiêu: 
Độ đặc hiệu - chọn lọc, ảnh hưởng của nền mẫu, độ nhiễm chéo, giới hạn định 
lượng dưới, khoảng tuyến tính, xây dựng đường chuẩn trong HT người và hàm 
đáp ứng, độ đúng, độ chính xác, tỷ lệ thu hồi và độ ổn định của mẫu [58], [65], [84]. 
Việc xác định chuẩn nội ngoài dựa vào sự tương đồng về cấu trúc, đặc tính 
lý hóa và khối lượng phân tử thì còn dựa vào quá trình thực nghiệm, chất chuẩn 
134 
sẵn có tại phòng thí nghiệm,... Chuẩn nội được lựa chọn sao cho có thể chiết bằng 
cùng hệ dung môi và phân tích trong cùng điều kiện sắc ký với chất nghiên cứu. 
Bên cạnh đó, chuẩn nội phải có thời gian lưu phù hợp, thời gian lưu dài quá sẽ ảnh 
hưởng tới thời gian chạy của mẫu. Trong phân tích TĐSH, thời gian chạy mẫu rất 
quan trọng vì số lượng mẫu phân tích nhiều. Việc lựa chọn phương pháp chiết 
tách, điều kiện sắc ký, điều kiện khối phổ sau đó chọn chuẩn nội phù hợp đôi khi 
không thể theo tuần tự như trong lý thuyết. Nhiều trường hợp, khi đưa chuẩn nội 
vào phân tích lại phải thay dung môi chiết và điều kiện sắc ký để thỏa mãn được 
cả chất phân tích lẫn chuẩn nội. Trong điều kiện thực tế của phòng thí nghiệm chỉ 
có ít chất chuẩn, chuẩn nội được lựa chọn theo phương pháp loại trừ. Với dung 
môi chiết là diethyl ether - cloroform thì sẽ hướng tới chọn chuẩn nội từ những 
chất chiết được bằng hỗn hợp này, đồng thời không bị ảnh hưởng nền mẫu sau khi 
chiết. Và khi chọn pha động là hỗn hợp dung môi methanol - isopropanol - 
acetonitril - amoni acetat 2 mM thì sẽ định hướng tìm chuẩn nội từ những chất đã 
làm có điều kiện sắc ký tương tự. Theo kinh nghiệm, glibenclamid là chất tương 
đối ổn định, có thể phân tích cả ở chế độ ion âm và ion dương, chiết được theo 
nhiều quy trình nên hay chọn làm chuẩn nội trong nhiều phương pháp trước đây. 
Quá trình thẩm định cũng cho thấy chuẩn nội glibenclamid chiết tốt bằng hỗn hợp 
diethyl ether - cloroform, không ảnh hưởng tới chất phân tích, đáp ứng ổn định, 
không bị ảnh hưởng bởi nền mẫu 
Nghiên cứu đã xác định sự tương quan giữa nồng độ FE (x) có trong mẫu 
và tỷ lệ diện tích pic FE/IS (y) bằng phương pháp hồi quy tuyến tính, sử dụng hệ 
số tỷ trọng 1/nồng độ2. Kết quả thẩm định cho thấy trong khoảng nồng độ từ 0,1 
ng/mL đến 20,0 ng/mL có sự tương quan tuyến tính giữa nồng độ FE và tỷ lệ diện 
tích pic FE/IS với hệ số tương quan xấp xỉ bằng 1. Nồng độ FE xác định từ đường 
chuẩn so với giá trị lý thuyết đều đạt xấp xỉ 100 % và nằm trong giới hạn cho phép 
theo quy định của phương pháp phân tích thuốc trong dịch sinh học. 
Độ đúng và độ chính xác của phương pháp được thực hiện trên 4 lô mẫu 
thử LLQC, LQC, MQC và HQC chứa FE có nồng độ tương ứng là 0,2; 0,6; 8,0 và 
135 
16,0 ng/mL. Xác định hàm lượng FE có trong mẫu bằng phương pháp đường 
chuẩn và tỷ lệ % giữa nồng độ xác định được từ đường chuẩn so với nồng độ lý 
thuyết. Kết quả thẩm định cho thấy ở các khoảng nồng độ LQC, MQC và HQC, 
phương pháp có độ đúng trong ngày, khác ngày xấp xỉ 100 %; độ lặp lại trong 
ngày, khác ngày với giá trị RSD < 15 %; đáp ứng các yêu cầu về độ đúng, độ lặp 
lại của phương pháp phân tích thuốc trong dịch sinh học theo hướng dẫn của FDA. 
Tỷ lệ thu hồi của FE và chuẩn nội được thực hiện ở 3 nồng độ LQC, MQC 
và HQC bằng cách so sánh diện tích pic FE hoặc IS trong các lô mẫu có qua chiết 
tách và không qua chiết tách. Kết quả xác định tỷ lệ thu hồi của FE ở ba khoảng 
nồng độ là khoảng 84,33 - 86,81 %, tỷ lệ thu hồi IS là 92,86 %. 
Mẫu HT ổn định, trong quá trình xử lý mẫu (5 giờ ở nhiệt độ phòng), sau 3 
chu kì đông - rã đông và khi bảo quản ở –35 5 °C trong thời gian dài (68 ngày). 
Khoảng thời gian 68 ngày đủ để toàn bộ mẫu HT của 12 NTN được phân tích hết. 
Như vậy, nghiên cứu đã xây dựng và thẩm định được phương pháp 
UPLC/MS-MS định lượng FE trong huyết tương người có tính chọn lọc với FE và 
chuẩn nội; giá trị giới hạn định lượng dưới nhỏ (0,1 ng/mL), thấp hơn 1/20 giá trị 
Cmax; có sự tương quan tuyến tính giữa nồng độ FE và tỷ lệ diện tích pic FE/IS với 
khoảng tuyến tính rộng (0,1 - 20,0 ng/mL), độ đúng cao (96,84 % - 104,59 %), độ 
lặp lại với giá trị RSD nhỏ (6,40 % - 11,95 %), thời gian phân tích ngắn (2 phút 
cho mỗi mẫu) và mẫu ổn định trong thời gian dài (68 ngày ở –35 5 °C). Do đó có 
thể áp dụng phương pháp để định lượng FE trong huyết tương người trong các 
nghiên cứu sinh khả dụng và đánh giá TĐSH các chế phẩm chứa FE. 
4.3.2. Bước đầu đánh giá tương đương sinh học viên felodipin giải phóng kéo 
dài bào chế được so với viên đối chiếu 
Việc đánh giá sinh khả dụng in vivo với thuốc tác dụng kéo dài là bắt buộc 
để đảm bảo tính an toàn, hiệu quả và chứng minh khả năng kéo dài tác dụng của 
thuốc. Nghiên cứu sinh khả dụng in vivo tốt nhất là đánh giá trên người tình 
nguyện khỏe mạnh. Để đánh giá được TĐSH của viên nghiên cứu với viên đối 
chiếu, đề tài nghiên cứu đánh giá trên 12 NTN là số lượng tối thiểu nhất đủ để 
136 
đảm bảo độ tin cậy của số liệu theo phương pháp thống kê. Để so sánh sự khác 
biệt về số liệu sinh khả dụng giữa thuốc thử và thuốc đối chiếu trên cùng một đối 
tượng thử, giúp loại trừ sai số cá thể và giảm bớt số NTN, nghiên cứu TĐSH được 
thiết kế chéo, ngẫu nhiên, hai thuốc, hai trình tự, hai giai đoạn, đơn liều, mù đơn, 
ở trạng thái đói trên 12 NTN khỏe mạnh. Do khó khăn về kinh phí, nghiên cứu 
mới thực hiện bước đầu đánh giá tương đương sinh học trên NTN ở trạng thái đói. 
Viên bào chế được bước đầu nghiên cứu tương đương sinh học với viên đối 
chiếu Felutam CR 5 mg. Trong đánh giá TĐSH các thuốc generic, nếu thuốc phát 
minh không sẵn có trên thị trường tại thời điểm nghiên cứu, có thể dùng một thuốc 
tương đương đã được cấp phép thay thế. Với thuốc thử là chế phẩm GP kéo dài 
hoặc biến đổi, thuốc đối chiếu có thể dùng là một thuốc có chứa cùng DC dạng GP 
kéo dài hoặc biến đổi bất kỳ đã được cấp phép hiện đang lưu hành, được thử theo 
mức liều của thuốc đối chiếu [58]. Vì vậy, nghiên cứu đã chọn viên đối chiếu có 
cùng cơ chế bơm thẩm thấu kéo - đẩy được sản xuất nhượng quyền tại Việt Nam 
là viên Felutam CR và thử với cùng mức liều 5 mg như viên bào chế. 
Thời điểm và khoảng thời gian lấy mẫu phải thiết lập sao cho có thể ước 
lượng tương đối chính xác Cmax và thu được đường cong nồng độ DC theo thời 
gian đủ để ước lượng chính xác mức độ hấp thu. Một đường cong nồng độ DC - 
thời gian trong máu hoàn thiện phải bao gồm cả pha hấp thu, phân bố và thải trừ. 
Với hầu hết các thuốc, số điểm lấy mẫu thường từ 12 - 18, cần có 1 điểm trước khi 
uống thuốc (thời điểm 0), 2 điểm trước khi đạt Cmax, 3 - 5 điểm quanh Cmax và 5 - 8 
điểm pha thải trừ [58]. Thời gian lấy mẫu trong nghiên cứu là 48 giờ với 16 điểm 
lấy mẫu đã phản ánh được các quá trình hấp thu, chuyển hóa và thải trừ thuốc. 
Tiến hành phân tích các mẫu huyết tương ngay sau khi kết thúc lấy mẫu 
giai đoạn 2 của tất cả các người tình nguyện. Các mẫu huyết tương của mỗi NTN 
được phân tích trong cùng điều kiện, cùng một ngày. Xác định nồng độ FE có 
trong mẫu dựa vào đường chuẩn xây dựng trong ngày. Quá trình phân tích tuân 
thủ theo hướng dẫn phân tích mẫu trong dịch sinh học của FDA. Tổng số 384 mẫu 
của cả hai giai đoạn của 12 NTN đã được phân tích trong thời gian 3 ngày. Thời 
137 
gian tính từ thời điểm lấy mẫu đầu tiên tới khi kết thúc phân tích là 16 ngày, đảm 
bảo tất cả các mẫu được phân tích trong khoảng thời gian độ ổn định của mẫu 
huyết tương đã được thẩm định (68 ngày). 
Trên đồ thị nồng độ FE theo thời gian của cả chế phẩm thử và chế phẩm đối 
chiếu có 2 đỉnh hấp thụ do cả hai chế phẩm đều đưa một phần DC ra lớp bao ngoài 
nên lượng DC giải phóng nhanh trong giờ đầu sẽ tạo ra đỉnh hấp thụ đầu tiên. 
Kết quả đánh giá tương đương sinh học trên người tình nguyện cho thấy có 
sự biến thiên các thông số dược động học, chứng tỏ cũng có sự khác biệt về tốc độ 
và mức độ hấp thu giữa các cá thể. Các viên nghiên cứu đều duy trì nồng độ trong 
máu kéo dài với Tmax trung bình khi uống thuốc thử và thuốc đối chiếu lần lượt là 
5,50 2,28 giờ và 5,67 1,50 giờ. Kết quả phân tích phương sai cho thấy ảnh 
hưởng của thuốc nghiên cứu, trình tự thử, giai đoạn thử đến các thông số dược động 
học Cmax, AUC0-24 giờ, AUC0- không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tuy nhiên, 
sự khác nhau giữa các cá thể ảnh hưởng đến AUC0-24 giờ và AUC0- có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05 cho thấy có sự khác biệt về mức độ hấp thu giữa các cá thể. Do đó, 
trong nghiên cứu đánh giá TĐSH các chế phẩm GP kéo dài chứa FE cần tăng số 
lượng người tình nguyện không dưới 24 người để có thể thu được kết quả khách 
quan, đảm bảo ý nghĩa thống kê của nghiên cứu. 
Kết quả xác định khoảng tin cậy 90 % của tỷ số Cmax, AUC0-24 giờ, AUC0- 
giữa thuốc thử và thuốc đối chiếu tính trên số liệu đã chuyển logarit lần lượt là 
88,29 - 138,97; 95,40 - 118,51 và 85,20 - 122,02 %. Các giá trị này tương đương 
nhau theo hướng dẫn của Dược điển Việt Nam IV [30]. Giá trị Tmax của thuốc thử 
và thuốc đối chiếu khác nhau không có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy trên 
95 %. Như vậy, bước đầu có thể kết luận viên felodipin 5 mg giải phóng kéo dài 
theo cơ chế bơm thẩm thấu kéo - đẩy bào chế được tương đương sinh học ở trạng 
thái đói với viên Felutam CR theo quy định của Dược điển Việt Nam IV. 
Kết quả đánh giá cho thấy phương pháp định lượng felodipin trong huyết 
tương người và thiết kế nghiên cứu tương đương sinh học đã xây dựng phù hợp để 
đánh giá tương đương sinh học cho viên felodipin giải phóng kéo dài. 
138 
KẾT LUẬN 
Từ kết quả nghiên cứu thu được, đề tài đã hoàn thành các mục tiêu đề ra. 
1. Đã bào chế được viên felodipin 5 mg giải phóng kéo dài theo cơ chế bơm 
thẩm thấu kéo - đẩy ở quy mô 10.000 viên/lô 
Viên thẩm thấu được bào chế bằng cách dập viên hai lớp, bao màng bán 
thấm và khoan miệng giải phóng bằng tia laser, sử dụng biện pháp đưa một phần 
dược chất ra ngoài màng bao để tăng tỷ lệ dược chất giải phóng trong giờ đầu. 
- Đã xây dựng được công thức bào chế viên felodipin 5 mg giải phóng kéo 
dài 12 giờ theo cơ chế bơm thẩm thấu kéo - đẩy. Nghiên cứu sử dụng PEO có khối 
lượng phân tử thấp (200.000 Da) làm tá dược phân tán trong lớp dược chất và 
PEO có khối lượng phân tử cao (5.000.000 Da) làm polymer trương nở trong lớp 
đẩy, natri clorid đóng vai trò làm tá dược tạo áp suất thẩm thấu có mặt ở cả 2 lớp. 
Công thức lựa chọn có tỷ lệ PEO 200.000 / PEO 5.000.000 tương ứng là 90/50 mg, 
khối lượng màng bao tăng 8,5 % so với viên nhân, kích thước miệng giải phóng là 
0,8 mm và 10 % dược chất được đưa vào màng HPMC bao ngoài viên thẩm thấu. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy viên bào chế có thể giải phóng nhanh trên 10 % dược 
chất trong giờ đầu, sau đó có khả năng kiểm soát giải phóng dược chất theo động 
học bậc không trong khoảng thời gian từ 1 - 10 giờ. 
- Đã xây dựng được quy trình bào chế viên felodipin 5 mg giải phóng kéo 
dài ở quy mô 10.000 viên/lô với các thông số phù hợp. Quy trình đã được thẩm 
định các thông số trọng yếu. 
2. Đã xây dựng được tiêu chuẩn cơ sở và đánh giá độ ổn định của viên bào 
chế được 
- Đã xây dựng được các tiêu chuẩn về hình thức, định tính, định lượng, độ 
đồng đều hàm lượng và độ hòa tan cho viên nén felodipin 5mg giải phóng kéo dài. 
- Chế phẩm được theo dõi độ ổn định với ba chỉ tiêu về hình thức, hàm 
lượng và độ hòa tan ở điều kiện thực và lão hóa cấp tốc. Sau 6 tháng bảo quản ở 
điều kiện lão hóa cấp tốc và 24 tháng theo dõi ở điều kiện thực, chế phẩm của 3 lô 
139 
bào chế ở quy mô 10.000 viên/lô không thay đổi về hình thức, hàm lượng 
felodipin trong viên vẫn đạt trên 90 %, độ hòa tan có thay đổi nhưng không đáng 
kể so với thời điểm ban đầu và đạt yêu cầu về độ hòa tan theo tiêu chuẩn cơ sở đã 
xây dựng. 
3. Đã đánh giá được tương đương sinh học viên nghiên cứu với viên đối chiếu 
- Đã xây dựng và thẩm định được phương pháp UPLC-MS/MS có đủ độ 
nhạy, đặc hiệu, chính xác để định lượng nồng độ felodipin trong huyết tương người, 
đáp ứng các yêu cầu của phương pháp phân tích sinh học. 
- Đã đánh giá được tương đương sinh học viên felodipin 5 mg giải phóng 
kéo dài bào chế được trên người tình nguyện ở trạng thái đói. Bước đầu có thể kết 
luận viên bào chế tương đương sinh học với viên đối chiếu Felutam CR đang lưu 
hành trên thị trường Việt Nam theo quy định của Dược điển Việt Nam IV. 
KIẾN NGHỊ 
Để có thể ứng dụng vào thực tế sản xuất trong nước, cần có các nghiên cứu 
tiếp theo để triển khai sản xuất thử nghiệm với quy mô lớn hơn trên các thiết bị 
công nghiệp. 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_bao_che_vien_felodipin_5_mg_giai_phong_ke.pdf
  • docBìa.doc
  • docPhụ lục.doc
  • docxThong tin ket luan moi luan an - tieng Anh.docx
  • docThong tin ket luan moi luan an - tieng Viet.doc
  • docTom tat LA - Anh.doc
  • docTom tat LA - Viet.doc