Luận án Nghiên cứu thực trạng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc và giải pháp can thiệp
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc kế thừa, phát huy và phát triển nền Y học cổ truyền (YHCT) Việt Nam; vì mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế, ngày 27/2/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “Đông” và thuốc “Tây”[1]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ: Hoàn thiện và củng cố mạng lưới YHCT. Vận động, khuyến khích và hướng dẫn nhân dân nuôi, trồng và sử dụng các loại cây, con làm thuốc chữa bệnh [2]. Nghị quyết số: 46 - NQ/TW, ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, tiếp tục khẳng định: phát triển đồng thời y tế phổ cập và y tế chuyên sâu; kết hợp Đông y và Tây y [3]. Ngày 04/7/2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số: 24 - CT/TW về “phát triển nền Đông y Việt Nam và Hội đông y Việt Nam trong tình hình mới” (Chỉ thị 24 - CT/TW) [4]. Nhằm thể chế hóa Chỉ thị 24 - CT/TW, ngày 30/11/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 2166/QĐ - TTg về việc “Ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ về phát triển y, dược cổ truyền Việt Nam đến năm 2020”[5]. Mục tiêu cụ thể trong Kế hoạch hành động của Chính phủ là đến năm 2020: 100% viện có giường bệnh, bệnh viện đa khoa, chuyên khoa, có Khoa y dược cổ truyền (YDCT); 100% Phòng khám đa khoa và trạm y tế xã, phường, thị trấn có Tổ YDCT do thầy thuốc Y dược cổ truyền của trạm y tế phụ trách; khám, chữa bệnh bằng YHCT: tuyến trung ương đạt 15%, tuyến tỉnh đạt 20%, tuyến huyện đạt 25% và tuyến xã đạt 40% [5].
Đồng thời, nhiều tổ chức và hội nghị quốc tế về YHCT đã lên tiếng kêu gọi coi trọng, phát huy và phát triển YHCT vì tính sẵn có, hiệu quả và giá cả hợp lý với thu nhập của số đông người dân (Chiến lược YHCT của WHO 2014 – 2023; Hội nghị YHCT các nước ASEAN lần thứ 2, năm 2010 tại Hà Nội ) [6], [7].
Một số đề tài nghiên cứu can thiệp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng YHCT tuyến tỉnh và tuyến xã đã và đang được triển khai ở một số địa phương, riêng tuyến huyện chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này.
Vĩnh Phúc là một tỉnh có địa hình đặc trưng của cả 3 vùng: đồng bằng, trung du, miền núi. Ngành Y tế của tỉnh Vĩnh Phúc đã có những chuyển biến tích cực cả về lượng và chất, trong đó YHCT đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trên địa bàn [8].
Song, tình hình sử dụng YHCT tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc ra sao? Các yếu tố nào có ảnh hưởng đến việc sử dụng YHCT tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện? Làm thế nào để cải thiện việc sử dụng YHCT trong chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến huyện? Để trả lời cho các câu hỏi này chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu thực trạng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc và giải pháp can thiệp” nhằm mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng khám chữa bệnh bằng Y học cổ truyền và một số yếu tố ảnh hưởng tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện, tỉnh Vĩnh Phúc 2011- 2012.
2. Đánh giá hiệu quả thử nghiệm giải pháp can thiệp nhằm cải thiện hoạt động khám chữa bệnh bằng Y học cổ truyền của bệnh viện đa khoa tuyến huyện, tỉnh Vĩnh Phúc 2013 – 2014.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu thực trạng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc và giải pháp can thiệp
ĐẶT VẤN ĐỀ Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc kế thừa, phát huy và phát triển nền Y học cổ truyền (YHCT) Việt Nam; vì mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế, ngày 27/2/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “Đông” và thuốc “Tây”[1]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ: Hoàn thiện và củng cố mạng lưới YHCT. Vận động, khuyến khích và hướng dẫn nhân dân nuôi, trồng và sử dụng các loại cây, con làm thuốc chữa bệnh [2]. Nghị quyết số: 46 - NQ/TW, ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, tiếp tục khẳng định: phát triển đồng thời y tế phổ cập và y tế chuyên sâu; kết hợp Đông y và Tây y [3]. Ngày 04/7/2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số: 24 - CT/TW về “phát triển nền Đông y Việt Nam và Hội đông y Việt Nam trong tình hình mới” (Chỉ thị 24 - CT/TW) [4]. Nhằm thể chế hóa Chỉ thị 24 - CT/TW, ngày 30/11/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 2166/QĐ - TTg về việc “Ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ về phát triển y, dược cổ truyền Việt Nam đến năm 2020”[5]. Mục tiêu cụ thể trong Kế hoạch hành động của Chính phủ là đến năm 2020: 100% viện có giường bệnh, bệnh viện đa khoa, chuyên khoa, có Khoa y dược cổ truyền (YDCT); 100% Phòng khám đa khoa và trạm y tế xã, phường, thị trấn có Tổ YDCT do thầy thuốc Y dược cổ truyền của trạm y tế phụ trách; khám, chữa bệnh bằng YHCT: tuyến trung ương đạt 15%, tuyến tỉnh đạt 20%, tuyến huyện đạt 25% và tuyến xã đạt 40% [5]. Đồng thời, nhiều tổ chức và hội nghị quốc tế về YHCT đã lên tiếng kêu gọi coi trọng, phát huy và phát triển YHCT vì tính sẵn có, hiệu quả và giá cả hợp lý với thu nhập của số đông người dân (Chiến lược YHCT của WHO 2014 – 2023; Hội nghị YHCT các nước ASEAN lần thứ 2, năm 2010 tại Hà Nội) [6], [7]. Một số đề tài nghiên cứu can thiệp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng YHCT tuyến tỉnh và tuyến xã đã và đang được triển khai ở một số địa phương, riêng tuyến huyện chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này. Vĩnh Phúc là một tỉnh có địa hình đặc trưng của cả 3 vùng: đồng bằng, trung du, miền núi. Ngành Y tế của tỉnh Vĩnh Phúc đã có những chuyển biến tích cực cả về lượng và chất, trong đó YHCT đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trên địa bàn [8]. Song, tình hình sử dụng YHCT tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc ra sao? Các yếu tố nào có ảnh hưởng đến việc sử dụng YHCT tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện? Làm thế nào để cải thiện việc sử dụng YHCT trong chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến huyện? Để trả lời cho các câu hỏi này chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu thực trạng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc và giải pháp can thiệp” nhằm mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng khám chữa bệnh bằng Y học cổ truyền và một số yếu tố ảnh hưởng tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện, tỉnh Vĩnh Phúc 2011- 2012. 2. Đánh giá hiệu quả thử nghiệm giải pháp can thiệp nhằm cải thiện hoạt động khám chữa bệnh bằng Y học cổ truyền của bệnh viện đa khoa tuyến huyện, tỉnh Vĩnh Phúc 2013 – 2014. Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. Y học cổ truyền của một số quốc gia và Việt Nam 1.1.1. Y học cổ truyền của một số quốc gia Y học cổ truyền (YHCT) theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Đó là tổng hợp các tri thức và kỹ năng thực hành trên cơ sở những lý thuyết, đức tin và kinh nghiệm bản địa của những nền văn hóa khác nhau, có thể giải thích được hoặc không, được sử dụng để duy trì sức khỏe, cũng như trong dự phòng, chẩn đoán, cải thiện hoặc điều trị bệnh tật về thể chất và tinh thần [6], [9]. Theo đánh giá của WHO năm 2008 có 80% dân số Châu Phi được chăm sóc sức khỏe bằng YHCT và trên 50% người dân Châu Âu và Nam Mỹ đã sử dụng y học bổ sung/thay thế (CAM) trong một năm qua khi được hỏi... YHCT đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kinh tế và y tế [10], [11]. Trung Quốc: Trung Quốc là một trong các quốc gia có nền YHCT phát triển mạnh nhất thế giới, năm 2011, Chính phủ Trung Quốc đưa ra kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (2011-2015) về phát triển YHCT đảm bảo YHCT được bảo vệ, hỗ trợ và phát triển tích cực. Theo báo cáo của bộ Y tế Trung Quốc tại Hội nghị YHCT các nước ASEAN (Association of South – East Asian) lần thứ hai, ngày 31-10-2010 tại Hà Nội (Hội nghị YHCT các nước ASEAN lần thứ hai); Hiến pháp của Trung Quốc năm 1982 ghi rõ: phát triển nền y học của Trung Quốc theo hướng kết hợp y học hiện đại (YHHĐ) và YHCT trong hệ thống chăm sóc sức khỏe (CSSK) quốc gia. Thống kê của Bộ Y tế Trung Quốc năm 2009, cả nước có 3115 bệnh viện YHCT với 400.000 bác sĩ YHCT và 409.000 giường bệnh, điều trị cho 302 triệu bệnh nhân ngoại trú và trên 9 triệu bệnh nhân nội trú. Ngoài ra còn có 245 bệnh viện với mô hình kết hợp giữa YHCT và YHHĐ và 95% số bệnh viện đa khoa có khoa YHCT. Trung Quốc có 27 trường Đại học YHCT (thời gian đào tạo 5 năm), 52 trường trung học YHCT và 81 trường Đại học Y khoa có khoa YHCT. Năm 2009, đã có 300.000 sinh viên theo học tại các trường Đại học YHCT, trong đó có 3.000 sinh viên nước ngoài. Trong những năm qua đã có khoảng 9.000 dược phẩm mới từ YHCT của Trung Quốc ra đời và đem lại doanh thu cho đất nước khoảng 180 tỷ nhân dân tệ mỗi năm. Y học cổ truyền Trung Quốc được nhiều nước trên thế giới (khoảng trên 120 quốc gia) đưa vào chương trình chăm sóc sức khỏe của quốc gia [11], [12], [13]. Nhật Bản: Nhật Bản là nước có truyền thống YHCT lâu đời, từ thế kỷ thứ V Y học cổ truyền Trung Quốc đã vào Nhật Bản qua con đường bán đảo Triều Tiên. Song, sau năm 1868, YHCT Nhật Bản bị lụi dần do thể chế cầm quyền, nhất là từ năm 1912-1926, thời Minh Trị, YHCT bị cấm hoạt động (chỉ cho Tây y hoạt động). Mặc dù vậy, YHCT Nhật Bản vẫn tiếp tục tồn tại và được người dân sử dụng trong cộng đồng, YHCT Nhật Bản bao gồm YHCT Trung Quốc và y học dân gian của Nhật Bản, được người Nhật Bản gọi là Kampo. Sau năm 1950, YHCT Nhật Bản dần được phục hồi. Y học cổ truyền được đưa vào giảng trong trường đại học Y khoa hoặc trường đại học có khoa Y từ năm 1986. Để trở thành một Kampo, người thầy thuốc phải tốt nghiệp trường đại học y trở thành bác sỹ y học hiện đại (YHHĐ) và có thời gian thực tế lâm sàng 03 năm, sau đó học thêm 03 năm về YHCT. Trên 90% bác sỹ Nhật Bản thường xuyên kết hợp YHHĐ với thuốc YHCT trong khám và điều trị bệnh cho người dân tại cộng đồng và việc kê đơn thuốc YHCT của các bác sỹ trên cơ sở các bài thuốc YHCT ghi trong dược điển (kể cả sự gia giảm của bài thuốc). Trên lâm sàng, YHCT Nhật Bản được đưa vào khám và điều trị kết hợp với YHHĐ trong 25 chuyên ngành (lão khoa, nhi khoa, tiêu hóa, xương khớp, sản khoa, phụ khoa, da liễu, tiết niệu, tim mạch, thận, phổi.). Một trong những nguyên nhân giúp cho YHCT được người dân sử dụng nhiều là: từ năm 1976 Nhật Bản đã đưa 148 bài thuốc Kampo và 6 phương pháp châm cứu vào mục chi trả của bảo hiểm y tế quốc gia và Kampo còn đáp ứng được các yếu tố tâm linh và tinh thần của người Nhật [11], [14], [15]. Singapore: Theo báo cáo của bộ Y tế Singapore tại Hội nghị YHCT các nước ASEAN lần thứ 02: từ năm 1995, Vụ YHCT của Bộ Y tế Singapore đã được thành lập. Đến năm 2000, đạo luật về đội ngũ hành nghề YHCT đã được Quốc hội Singapore thông qua. Tính đến ngày 31-12-2009, Singapore có 2.421 cán bộ đăng ký hành nghề YHCT. Việc khám bệnh, chữa bệnh bằng YHCT được người Singapore tin dùng. Singapore có ba chủng tộc chính, chủ yếu là người Trung Quốc (74,7%), người Malaysia chiếm 13,6%, người Ấn Độ chiếm 8,9%. Y học cổ truyền tại nước này gồm các phương pháp chữa bệnh chính là: YHCT Trung Quốc (sử dụng châm cứu và nguyên liệu thuốc Trung Quốc); Y học cổ truyền Malaysia (sử dụng dược liệu thuốc của Malaysia hoặc Jamu chủ yếu từ Indonesia và Malaysia); Y học cổ truyền Ấn Độ (sử dụng dược liệu thuốc hoặc Ayurveda chủ yếu từ Ấn Độ) [7], [16], [17]. Thái Lan: Bộ Y tế Công cộng Thái Lan đã lồng ghép các loại thuốc thảo dược vào chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu từ khi có Kế hoạch phát triển Y tế Quốc gia lần thứ 4 (1977-1981) bằng cách lựa chọn 60 cây thuốc sử dụng trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Cẩm nang về các cây thuốc được lựa chọn đã in thành sách xuất bản và cấp cho các tình nguyện viên về thôn bản trong cả nước để thúc đẩy việc trồng cây thuốc tại cộng đồng và giáo dục người dân hiểu về lợi ích của các cây thuốc, góp phần điều trị các bệnh và các triệu chứng thông thường để tăng cường việc tự chăm sóc sức khỏe. Năm 1993 Viện nghiên cứu thuốc YHCT được thành lập. Đến năm 2002 Vụ YHCT của Bộ Y tế Công cộng Thái Lan được thành lập nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về YHCT. Mô hình lồng ghép YHCT vào chăm sóc sức khỏe ban đầu và tăng cường sử dụng các cây thuốc trong chăm sóc sức khỏe ban đầu đã được Thái Lan liên tục sử dụng trong khoảng 30 năm (tính đến 2010) tương tự như phương pháp tiếp cận của WHO/SEAR để thúc đẩy việc sử dụng các cây thuốc, thuốc thảo dược và các chế phẩm thuốc YHCT được lựa chọn tại các cấp cơ sở. Theo báo cáo của Bộ Y tế Công cộng Thái Lan tại Hội nghị YHCT các nước ASEAN lần thứ 02; ngày 03- 03-2007, Quốc hội Thái Lan đã thông qua Luật Y tế Quốc gia, Điều 47 của Luật ghi rõ: “việc tăng cường, hỗ trợ, sử dụng và phát triển những kiến thức công nghệ và thực hành địa phương liên quan đến sức khỏe, thuốc YHCT của Thái Lan, thuốc bản địa và các thuốc thay thế khác phải là một trong các yếu tố thiết yếu của Điều lệ Hệ thống Y tế Quốc gia”. Tính đến tháng 9/2009, số bác sĩ hành nghề YHCT được cấp phép ở Thái Lan thuộc các lĩnh vực: hành nghề YHCT 17.001; hành nghề dược học cổ truyền 23.409; hành nghề nữ hộ sinh cổ truyền 5.735; hành nghề massage Thái Lan 332; hành nghề ứng dụng YHCT Thái Lan 660. Đến năm 2010, Thái Lan có 13 trường Đại học giảng dạy YHCT, trong đó có 5 trường đào tạo cử nhân YHCT và 8 trường đào tạo bác sĩ YHCT ứng dụng, thời gian đào tạo là 4 năm. Tính đến tháng 4/2010, tại nước này đã có 15 cơ sở sản xuất thuốc YHCT được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn GMP ASEAN (Good Manufacturing Practice ASEAN – thực hành sản xuất thuốc tốt của Hiệp hội các nước Đông Nam Á) và 27 cơ sở được nhận chứng chỉ GMP (Good Manufacturing Practice - thực hành sản xuất thuốc tốt) [7], [16], [18]. Philippines: Năm 1992 nhiều người dân Philippine không có khả năng chi trả tiền thuốc chữa bệnh bằng YHHĐ, ngành Y tế đã vực dậy chương trình YHCT và đến năm 1997 Luật Thuốc YHCT và thuốc thay thế đã được phê duyệt. Viện Chăm sóc sức khỏe bằng thuốc YHCT và thuốc thay thế (Philippine Institute of Traditional and Alternative Health Care - PITAHC) được thành lập có nhiệm vụ cung cấp và phân phối sản phẩm chăm sóc sức khỏe truyền thống và thay thế. Đồng thời, phối hợp với bảo hiểm y tế địa phương cho phép thanh toán chi trả của người bệnh bằng các hình thức chữa bệnh bằng châm cứu hay các hình thức thay thế khác [17], [19], [20]. Indonesia: Indonesia YHCT có từ thế kỷ XV dựa trên kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm độc đáo riêng của mỗi bộ tộc, các vị thuốc thảo dược được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng và có tới 2,7% dân số Indonesia sử dụng YHCT trong CSSK. Chính phủ Indonesia đã xây dựng chiến lược phát triển thuốc YHCT gồm 3 bước: bước (1) tìm hiểu cây thuốc bản địa; bước (2) chuẩn hóa cây thuốc và vị thuốc; bước (3) thử nghiệm lâm sàng và sản xuất [17], [20]. Brunei: Việc thực hành và sử dụng YHCT của các cộng đồng địa phương tại Brunei đã có từ đầu thế kỷ XIV và trở thành một phần của di sản quốc gia và văn hóa của đất nước Brunei. Các thầy thuốc hành nghề YHCT bao gồm các lương dược Malaysia, “sin she” của Trung Quốc và “healers Ayuvedic guru/yoga trị liệu” của Ấn Độ, các thầy lang tôn giáo, tâm linh và những người khác, tất cả đều cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoae ban đầu ở dạng này hay dạng khác cho cộng đồng. Các thầy lang truyền thống được phép hành nghề dài hạn về thuốc YHCT/thuốc bổ sung/ thuốc thay thế (TM/CAM) miễn là không trái pháp luật và quy định hiện hành về quản lý và thực hành của y học allopathic và một số hướng dẫn do Bộ y tế Brunei quy định. Bộ Y tế Brunei đã thành lập và phát triển một hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại giúp cho người dân Brunei đều được hưởng lợi từ các dịch vụ y tế của hệ thống này trong những năm gần đây [7], [17]. Malaysia: Đạo luật Y tế năm 1971 của Malaysia thừa nhận công tác thực hành về YHCT. Y học cổ truyền của Malaysia được điều chỉnh theo văn hóa của mỗi chủng tộc Mã Lai, Trung Quốc, Ấn Độ và các dân tộc bản địa. Malaysia công nhận các hoạt động khác của YHCT như phép chữa vi lượng đồng căn hay thuốc bổ sung. Sự lồng ghép các hoạt động YHCT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia đã trở nên rõ ràng khi Bộ Y tế Malaysia thành lập Bộ phận quản lý Y học cổ truyền và Y học bổ sung năm 2004. Bộ Y tế Malaysia đã ban hành chính sách quốc gia về YHCT và y học bổ sung, trong đó nhấn mạnh việc đảm bảo chất lượng và sử dụng an toàn trong thực hành YHCT và y học bổ sung (T&CM) và các sản phẩm nhằm đạt được lợi ích tối đa mà dịch vụ y tế mang đến trong chăm sóc sức khỏe con người. Bốn nội dung được nhấn mạnh trong chính sách quốc gia về YHCT của Malaysia: giáo dục, đào tạo; dược liệu tươi sống; các sản phẩm thuốc và công tác nghiên cứu trong YHCT. Thông qua sự áp dụng YHCT và T&CM (được Tổ chức Y tế thế giới thừa nhận), Bộ Y tế Malaysia xem xét bổ sung vào chính sách quốc gia về YHCT và T&CM năm 2007. Mục tiêu cụ thể nhấn mạnh về công tác giáo dục và đào tạo: Đảm bảo đội ngũ hành nghề YHCT đều trải qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính thức và được công nhận; đảm bảo đội ngũ cán bộ YHHĐ có hiểu biết về T&CM để thừa nhận cùng tồn tại và hiểu biết lành mạnh giữa T&CM và YHHĐ; đồng thời, đảm bảo giúp cộng đồng có hiểu biết chính xác và phù hợp về YHCT và T&CM để đưa ra những quyết định và sự lựa chọn các phương pháp CSSK phù hợp [7], [17]. Australia: Tại Australia, YHCT hay y học bổ sung/thay thế (Complementary- Alternative Medicine - CAM) bao gồm cả y học bản địa của Australia, tồn tại song hành cùng nền y học phương Tây (YHHĐ) và góp phần vào sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của người dân Australia. Y học cổ truyền/y học thay thế được toàn bộ các cộng đồng người Australia tin dùng. Một nghiên cứu tại Australia cho biết 68,9% số người trưởng thành ít nhất đã một lần sử dụng YHCT/ y học thay thế và có 44,1% đã đến khám, điều trị tại các cơ sở của các thầy thuốc YHCT trong 12 tháng qua. Tại Australia có 17 phương thức về y học thay thế/YHCT khác nhau đang được người dân sử dụng gồm: 1. Chương trình y học thay thế: (1) Châm cứu, (2) vi lượng đồng căn, (3) luyện tập thân thể. 2. Can thiệp tinh thần thể chất: (4) Thiền định, (5) Yoga. 3. Liệu pháp sinh học: (6) Xoa bóp dầu thơm, (7) Thảo dược Trung Quốc, (8) Y học thực dưỡng Trung y, (9) Dinh dưỡng lâm sàng giàu vitamin và khoáng chất, (10) Thảo dược Tây phương. 4. Tác động cơ thể: (11) Mass ... oa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc và thực sự đã tạo ra một bước chuyển biến tích cực sau can thiệp. Kỹ năng thực hành châm cứu, xoa bóp và bấm huyệt: Kỹ năng thực hiện các thủ thuật này của thầy thuốc Khoa YHCT- BVĐK huyện Yên Lạc sau can thiệp tốt hơn so với các thầy thuốc của Khoa YHCT - BVĐK Tam Dương (điểm trung bình của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc đều trên 9,7 điểm; các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK Tam Dương chỉ đạt dưới 7,5 điểm). So với thời điểm trước can thiệp kỹ năng châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc đã được cải thiện hơn (điểm trung bình kỹ năng châm cứu tăng 2,5 điểm; kỹ năng xoa bóp, bấm huyệt tăng 3,7 điểm). Trong khi tiến hành điều tra trước can thiệp, quan sát chấm điểm kỹ năng thao tác châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc, chúng tôi thống nhất trao đổi trực tiếp những điểm hạn chế trong kỹ thuật thực hành, giúp các thầy thuốc điều chỉnh kịp thời để thực hiện tốt hơn. Đồng thời, chúng tôi tiến hành tập huấn theo hướng cầm tay chỉ việc (theo đề nghị của Ban giám đốc Bệnh viện huyện Yên Lạc) cho các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc. Điều này không được triển khai tại Khoa YHCT - BVĐK huyện Tam Dương trong quá trình điều tra khảo sát. Vì vậy, kỹ năng châm cứu, XB - BH của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc sau can thiệp đã được nâng lên. Kỹ năng tư vấn cho người bệnh: Kỹ năng tư vấn cho bệnh nhân của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc sau can thiệp điểm trung bình đạt 9,71 điểm cao hơn so với điểm trung bình của của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Tam Dương gần 3,2 điểm, cao hơn so với trước thời điểm trước can thiệp là > 4,3 điểm. Qua điều tra trước can thiệp chúng tôi nhận thấy các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc đã tiến hành tư vấn cho người bệnh trong khi khám bệnh và trong khi tiến hành các thủ thuật châm cứu, xoa bóp – bấm huyệt. Nội dung tư vấn của các thầy thuốc phần lớn là hướng dẫn người bệnh phối hợp với thầy thuốc trong lúc điều trị, kể cả hướng dẫn phối hợp sử dụng thuốc Nam để người bệnh tự thu hái bào chế sử dụng. Song, các nội dung tư vấn cho người bệnh về dinh dưỡng, luyện tập, thay đổi thói quen sinh hoạt, bảo vệ môi trường theo quan điểm của YHCT trong quá trình điều trị và sau quá trình điều trị, nhằm giúp người bệnh phục hồi sức khỏe nhanh và bệnh không tái phát, chưa được quan tâm đúng mức. Thông qua tập huấn và trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã trao đổi trực tiếp với các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc về vấn đề này. Vì vậy, sau can thiệp kỹ năng tư vấn của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc đã có chuyển biến tốt hơn. 4.2.2.2. Tăng cường về cơ sở vật chất, trang thiết bị và thuốc tại Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc sau can thiệp Sau can thiệp cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế của Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc được nâng lên: số giường bệnh thực kê tăng 21 giường, diện tích phòng làm việc tăng 27m², máy điện châm tăng 11 chiếc, bộ giác hơi tăng 1 bộ, đèn hồng ngoại tăng 3 chiếc, bàn ghế tăng 9 chiếc so với thời điểm trước can thiệp. Khoa YHCT - BVĐK huyện Tam Dương gần như không có sự đầu tư thêm về cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế (trừ 1 máy điện châm và 01 bộ giác hơi được Bệnh viện Châm cứu TW tặng thông qua Đề tài). Quá trình can thiệp đã giúp Ban Lãnh đạo của BVĐK huyện Yên Lạc nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của YHCT nói chung và Khoa YHCT trong BVĐK tuyến huyện nói riêng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Chính vì vậy, một trong các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng YHCT là tăng cương cơ sở vật chất, trang thiết bị cho Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc đã được thực hiện. Về thuốc Y học cổ truyền: Sau can thiệp, số vị thuốc sử dụng tại Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc đã đa dạng hơn so với Khoa YHCT - BVĐK huyện Tam Dương là 32 vị (kể cả các vị thuốc Nam các thầy thuốc hướng dẫn cho bệnh nhân tự thu hái sử dụng), Yên lạc là 190 vị, Tam Dương là 158 vị. Việc khai thác các vị thuốc Nam trên địa bàn hoặc các vị thuốc Nam do cơ sở nuôi, trồng đưa vào chữa bệnh tại Khoa hoặc bộ phận YHCT - BVĐK tuyến huyện không được thực hiện. Điều này đã được tác giả Đỗ Thị Phương phát hiện trong nghiên cứu: về thực trạng sử dụng YHCT và tác dụng của tám chế phẩm thuốc Nam ở một số cộng đồng dân cư năm 1996 cho thấy, các vị thuốc Nam không được sử dụng điều trị cho người bệnh tại các trạm y tế xã và các trung tâm y tế huyện [70]. Số vị thuốc sử dụng và hướng dẫn người bệnh sử dụng tại Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc sau can thiệp tăng lên chưa nhiều so với đơn vị đối chứng (Khoa YHCT - BVĐK huyện Tam Dương). Điều này, có thể do thời gian can thiệp ngắn (một năm) và vấn đề tăng cường nguồn dược liệu có chất lượng cho các bệnh viện đa khoa tuyến huyện nói riêng và cho hoạt động YHCT nói chung, đòi hỏi phải có một quá trình chuyển đổi về mặt chính sách. Đó là việc điều chỉnh các chính sách đã có nhưng chưa tạo đà cho YHCT phát triển và ban hành một số chính sách mới, nhằm phát huy và phát triển nền YHCT Việt Nam từ Trung ương đến địa phương mới có thể giải quyết được. 4.2.2.3. Cải thiện về kết quả thực hiện chỉ tiêu khám chữa bệnh bằng YHCT của BVĐK huyện Yên Lạc và huyện Tam Dương. Tỷ lệ khám chữa bệnh bằng YHCT/tỷ lệ khám chữa bệnh chung tại Bệnh viện đa khoa huyện Yên Lạc năm 2014 đạt 18,73%, tăng 14,23% so với năm 2011 và tăng hơn so với BVĐK huyện Tam Dương là 8,77% (tỷ lệ này của BVĐK huyện Tam Dương năm 2014 là 9,96%). Điều này cho thấy, can thiệp đã đem lại được hiệu quả về khám chữa bệnh bằng YHCT. 4.2.2.4. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và kỹ năng trong khám chữa bệnh bằng YHCT tính theo điểm trung bình Trên cơ sở điểm trung bình kiến thức: bài thuốc cổ phương, vị thuốc bài cổ phương, bài nghiệm phương, kiến thức về huyệt vị, chế phẩm thuốc và điểm trung bình kỹ năng: châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, tư vấn; sử dụng công thức tính (HQCT)% = CSHQYL - CSHQ TD , tính được hiệu quả can thiệp đối với kiến thức và kỹ năng thực hành của các thầy thuốc Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc sau can thiệp đạt: kiến thức chỉ định bài thuốc cổ phương 23,16%, vị thuốc bài cổ phương 40,71%, bài nghiệm phương 69,98%, kiến thức về huyệt vị 13,73%, chế phẩm thuốc 11,74%; kỹ năng châm cứu 16,51%, kỹ năng xoa bóp, bấm huyệt 49,35%, kỹ năng tư vấn 62,60%. Sau một năm tiến hành can thiệp tại Khoa YHCT của BVĐK huyện Yên Lạc, kiến thức và kỹ năng thực hành của các thầy thuốc Khoa YHCT thuộc BVĐK huyện Yên Lạc (đơn vị can thiệp) so với kiến thức và kỹ năng thực hành của các thầy thuốc YHCT thuộc Khoa YHCT tại BVĐK huyện Tam Dương (đơn vị làm chứng) đã có tiến bộ với hiệu quả can thiệp (HQCT) là từ 11,74% - 69,98%. Điều này có thể được giải thích, trước can thiệp việc chỉ định bài nghiệm phương trong điều trị của các y, bác sỹ Khoa YHCT thuộc BVĐK huyện Yên Lạc cho bệnh nhân ít được quan tâm và sau khi can thiệp việc này đã được các thầy thuốc quan tâm hơn. Việc sử dụng các chế phẩm thuốc YHCT nhập từ các công ty thanh toán qua bảo hiểm y tế thuận lợi hơn, do đó được các thầy thuốc quan tâm thường xuyên sử dụng cho người bệnh. Chính vì vậy, HQCT về kiến thức chế phẩm thuốc thay đổi không đáng kể, chỉ đạt 11,74%, trong khi đó kiến thức chỉ định bài nghiệm phương thay đổi rõ rệt, HQCT đạt gần 70% (69,98%). 4.3. Một số hạn chế của nghiên cứu Trong nghiên cứu này, thời gian can thiệp còn ngắn, đối tượng can thiệp ít, quy mô can thiệp hẹp chủ yếu là các thầy thuốc tại Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc. Chính vì vậy, kết quả can thiệp chưa thật đại diện cho tỉnh Vĩnh Phúc, một số nội dung can thiệp, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền cũng như của người dân trên địa bàn về YHCT chưa đánh giá được. Việc lạm dụng thuốc và kỹ thuật của YHHĐ trong khám bệnh và điều trị bệnh tại Khoa YHCT của các BVĐK tuyến huyện có hay không, chưa được chỉ ra. Mặc dù, trên thực tế trong quá trình nghiên cứu thực trạng khi khám cho người bệnh, phần thiết chẩn, nhất là xem mạch gần như các thầy thuốc YHCT tại các Khoa hoặc bộ phận YHCT - BVĐK tuyến huyện không thực hiện được. Trong khi đó hầu hết các bệnh nhân vào điều trị tại Khoa hoặc Bộ phận YHCT - BVĐK tuyến huyện đều được thầy thuốc chỉ định chụp XQ, siêu âm và làm các xét nghiệm cận lâm sàng. Tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định sử dụng thuốc YHHĐ trong kết hợp điều trị đang tăng cao; việc chỉ định đó đã phù hợp chưa? có thực sự cần thiết không? Đây là vấn đề phải có thời gian và tiến hành nghiên cứu sâu mới có thể trả lời được. Việc phối hợp chặt chẽ giữa Khoa hoặc bộ phận YHCT với các khoa khác trong BVĐK tuyến huyện, nhằm phát huy thế mạnh của YHCT chưa được nghiên cứu đánh giá. Vì một số bệnh điều trị bằng YHCT có hiệu quả như mất ngủ, hen, ... nhưng khi bệnh nhân mắc các bệnh này vào bệnh viện lại được đưa vào điều trị tại các khoa khác (mất ngủ điều trị tại khoa Nội, hen điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu). KẾT LUẬN 1. Thực trạng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại 9 BVĐK tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc và một số yếu tố ảnh hưởng 1.1. Thực trạng khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền tại 9 BVĐK tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc Nguồn nhân lực YHCT của 9 BVĐK tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc thiếu nhiều về số lượng (bình quân 4,1 người/1BVĐK), trình độ chuyên môn hạn chế (Bác sỹ YHCT chỉ chiếm 13,51%), kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp chưa tốt (điểm trung bình đều < 6 điểm). Tỷ lệ khám chữa bệnh bằng YHCT so với tổng số bệnh nhân khám chữa bệnh chung tại 9 bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc còn thấp (năm 2011 chỉ đạt 4,20%). Các bệnh tật được điều trị bằng YHCT tại các Khoa hoặc Bộ phận YHCT của 9 BVĐK tuyến huyện, tỉnh Vĩnh Phúc chưa phong phú, chỉ có 18 loại bệnh, trong đó chủ yếu tập trung ở hai nhóm bệnh dây thần kinh ngoại biên (chiếm tỷ lệ gần 49%) và cơ, xương, khớp (chiếm tỷ lệ gần 27%). Tất cả bệnh nhân điều trị tại khoa YHCT được điều trị bằng thuốc uống YHCT và gần 2/3 (71,78%) bằng châm cứu. 1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động YHCT tại tỉnh Vĩnh Phúc Tỷ lệ người dân thích khám chữa bệnh bằng YHCT và hài lòng với phương pháp điều trị bằng YHCT đạt trên 98%. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý Ngành Y tế nắm bắt được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển YHCT chưa cao, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý biết cả hai văn bản (Chỉ thị 24 - CT/TW và Quyết định 2166/QĐ – TTg) chỉ đạt 35,04%. Một số văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự tạo điều kiện phát huy thế mạnh của nền YHCT Việt Nam và sự sáng tạo của thầy thuốc YHCT. 2. Đánh giá hiệu quả thử nghiệm giải pháp can thiệp nhằm cải thiện hoạt động khám bệnh, chữa bệnh bằng YHCT tại Khoa YHCT của BVĐK huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc Sau một năm triển khai hoạt động can thiệp tại Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được hiệu quả bước đầu: - Nhân lực và cơ sở trang thiết bị phục vụ khám bệnh, chữa bệnh tại Khoa YHCT - BVĐK huyện Yên Lạc đều được cải thiện: thầy thuốc tăng 05 người, tăng 27 m2 diện tích phòng bệnh, 21 giường bệnh, 11 máy điện châm, 3 đèn hồng ngoại và tăng 1 bộ giác hơi. - Kiến thức và kỹ năng của các thầy thuốc YHCT tại khoa YHCT của BVĐK huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc được cải thiện rõ rệt sau can thiệp. Hiệu quả can thiệp về: kiến thức chỉ định bài thuốc cổ phương đạt 23,16%, vị thuốc bài cổ phương đạt 40,71%, bài nghiệm phương đạt 69,98%, kiến thức về huyệt vị đạt 13,73%, về chế phẩm thuốc đạt 11,74%. Hiệu quả can thiệp về: kỹ năng châm cứu đạt 16,51%, xoa bóp, bấm huyệt đạt 49,35% và kỹ năng tư vấn đạt 62,60%. Tỷ lệ khám chữa bệnh bằng YHCT trên khám chữa bệnh chung sau can thiệp tăng 14,23%. KHUYẾN NGHỊ 1. Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc thực sự có nhu cầu được khám bệnh, chữa bệnh bằng YHCT. Đương thời, cố Bộ trưởng Y tế Vũ Văn Cẩn, báo cáo tại Ủy ban Y tế và xã hội của Quốc hội đã nêu “không những ở nông thôn mà cả ở thành phố lớn, nơi có nhiều bệnh viện lớn, nhiều bệnh nhân vẫn mong được chữa bệnh bằng Y học dân tộc”[98]. Chính vì vậy, Ủy Ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc cần tăng cường kiểm tra đôn đốc việc triển khai thực hiện Quyết định 2166/QĐ - TTg, ngày 30 tháng 11 năm 2010 của Thủ Tướng Chính phủ về phát triển y dược cổ truyền Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu tuyến huyện phải đạt 25% khám chữa bệnh bằng YHCT, so với tổng số khám chữa bệnh chung vào năm 2020 (tỷ lệ này năm 2014 tỉnh Vĩnh Phúc mới đạt 6,10% tương đương 24,40% mục tiêu Chính phủ đề ra đến năm 2020). Giải pháp can thiệp tăng cường chất lượng khám chữa bệnh bằng YHCT tại Khoa YHCT - BVĐK tuyến huyện của tỉnh Vĩnh Phúc cần được tiếp tục duy trì và nghiên cứu sâu hơn: + Về vai trò của Khoa YHCT - BVĐK tuyến huyện đối với việc nâng cao tay nghề cho các thầy thuốc YHCT các trạm y tế tuyến xã, phường. + Về thực trạng nhu cầu sử dụng thuốc Nam trong điều trị bằng YHCT tại các BVĐK tuyến huyện để có điều chỉnh các chính sách cho phù hợp, nhằm khuyến khích việc khai thác và nuôi, trồng các cây, con sẵn có trên địa bàn làm thuốc. + Hàng năm cần đánh giá nhu cầu đào tạo và tổ chức bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho các thầy thuốc YHCT cả về lý thuyết và thực hành. Cần xây dựng các giải pháp luân chuyển, điều phối và thu hút các thầy thuốc có nhiều kinh nghiệm và tay nghề tốt phục vụ cho hoạt động khám chữa bệnh bằng YHCT tại tuyến huyện. 2. Công tác lãnh đạo, quản lý đối với hoạt động y học cổ truyền nói chung và y học cổ truyền tuyến huyện nói riêng Các cấp ủy Đảng phải định kỳ tiến hành kiểm tra các cấp ủy cấp dưới trực thuộc về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 24 - CT/TW, ngày 04-7-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về “phát triển nền đông y Việt Nam và Hội đông y Việt Nam trong tình hình mới” và Thông báo Kết luận số 154 - TB/TW. Quốc hội cần sớm điều chỉnh Điều 6, Khoản 8 trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh hoặc ban hành Luật Khám chữa bệnh Y học cổ truyền. Chính phủ tăng cường kiểm tra đôn đốc ủy ban nhân các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện nghiêm túc các mục tiêu đã đề ra trong Quyết định 2166/QĐ - TTg, ngày 30 tháng 11 năm 2010 về việc “Ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ về phát triển y dược cổ truyền Việt Nam đến năm 2020”, trong đó có mục tiêu về khám bệnh, chữa bệnh bằng YHCT trên tỷ lệ chung đến năm 2020 tuyến huyện phải đạt 25%. Bộ Y tế cần sớm điều chỉnh Điều 26, Khoản 4, Điểm đ trong Thông tư 41/2011/TT - BYT và bổ sung các quy định thanh toán bảo hiểm y tế đối với thuốc YHCT cho phù hợp, nhằm phát huy việc sử dụng thuốc Nam nuôi, trồng và thu hái tại địa phương phục vụ cho công tác điều trị. 3. Cơ chế tài chính trong khám chữa bệnh bằng YHCT (1). Nên thực hiện phương thức chi trả BHYT theo định suất và hiệu quả điều trị. (2). Chỉ thực hiện tự chủ một phần tài chính đối với các BVĐK tuyến huyện nơi có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển. Hai nội dung trên, nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng thuốc và kỹ thuật cao của YHHĐ trong khám chữa bằng YHCT và khuyến khích YHCT phát triển; nhất là việc sử dụng các vị thuốc Nam trong điều trị. Điều này cũng đã được Tổ chức Y tế thế giới [99] và Tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam cảnh báo [100].
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_thuc_trang_kham_chua_benh_bang_y_hoc_co_t.docx
- bia24trenghlish 22.12.2016.doc
- bia24trVietngu 22.12.2016.doc
- bialuanvan27.11.2017.doc
- Ketlmoitvie&english27.11.2017.docx
- loicamdoan27.11.2017.doc
- loicamonluanvan 27.11.2017.doc
- mucluc 27.11.2017.docx
- p01phongvancacthaythuoc.doc
- p02p03Phieupvbenhnhan.doc
- p04Phongvanlanhdaomoi.doc
- p05phongvandieuduong11.doc
- p06nguonduoclieucung.doc
- p07thongkechephamthuoc.doc
- p08Phieukhaosdng.doc
- p09phieutrangbiyte.doc
- p10dieutracosovatchat.doc
- phuluclv11..16.doc
- Tailieuthamkhao 27.11.2017.doc
- Tom tat 24trtviet 27.11.2017.doc
- tomtat24trenghlish 27.11.2017.doc
- viettat 27.11.2017.doc