Nghiên cứu sử dụng chất xúc tác Fcc đã qua sử dụng từ nhà máy lọc dầu dung quất làm phụ gia hoạt tính cho xi măng portland
Sự ra đời và hoạt động của Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã góp phần rất quan trọng
đến phát triển kinh tế - xã hội khu vực Miền Trung, từng bước đảm bảo nhu cầu nhiên
liệu và nguyên liệu hóa dầu cho đất nước. Bên cạnh đó, hằng năm Nhà máy thải ra
khoảng 2000 tấn chất thải xúc tác FCC (Fluid Catalytic Cracking), sẽ là gánh nặng cho
môi trường nếu không được xử lý và tái chế triệt để. Chất xúc tác FCC đã qua sử dụng
(sFCC, spent fluid catalytic cracking) có thể trở thành chất thải có hại do nhiễm kim loại
nặng (Pb, Ni,.), bị cốc hóa, hạt bị vỡ vụn và có thể gây bệnh bụi phổi silic. Thành phần
chính của sFCC là SiO2, Al2O3 tương tự như các hợp chất aluminosilicat trong vật liệu
xây dựng. Vì vậy, trên thế giới đã có nhiều công bố về kết quả nghiên cứu tái chế chất
thải xúc tác FCC để làm phụ gia hoạt tính, clinker trong xi măng [1-5], trong bê-tông
[6,7], trong xây dựng cầu đường [8]. Tuy nhiên, hiện chỉ mới có một số rất ít các công bố
về chất thải FCC từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất trong việc tái tạo tính axit bề mặt và
hoạt tính xúc tác cracking [9,10].
Bài báo này trình bày các kết quả khảo sát khả năng sử dụng chất thải xúc tác FCC
từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất để làm phụ gia hoạt tính cho xi măng Portland.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sử dụng chất xúc tác Fcc đã qua sử dụng từ nhà máy lọc dầu dung quất làm phụ gia hoạt tính cho xi măng portland
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/322306745 NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG CHẤT XÚC TÁC FCC ĐÃ QUA SỬ DỤNG TỪ NHÀ MÁY LỌC DẦU DUNG QUẤT LÀM PHỤ GIA HOẠT TÍNH CHO XI MĂNG PORTLAND STUDY ON REUSING OF SPENT FLUID CATALYTIC CRACKING (sFCC)... Article · January 2018 CITATIONS 0 READS 208 2 authors: Some of the authors of this publication are also working on these related projects: STUDY ON REUSING OF SPENT FLUID CATALYTIC CRACKING (sFCC) CATALYST FROM THE DUNG QUAT REFINERY AS AN ACTIVE ADDITIVE FOR PORTLAND CEMENT View project Nguyen Thanh Tu 1 PUBLICATION 0 CITATIONS SEE PROFILE Hung nguyen phi Quy Nhon University 11 PUBLICATIONS 114 CITATIONS SEE PROFILE All content following this page was uploaded by Nguyen Thanh Tu on 09 January 2018. The user has requested enhancement of the downloaded file. 1 NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG CHẤT XÚC TÁC FCC ĐÃ QUA SỬ DỤNG TỪ NHÀ MÁY LỌC DẦU DUNG QUẤT LÀM PHỤ GIA HOẠT TÍNH CHO XI MĂNG PORTLAND STUDY ON REUSING OF SPENT FLUID CATALYTIC CRACKING (sFCC) CATALYST FROM THE DUNG QUAT REFINERY AS AN ACTIVE ADDITIVE FOR PORTLAND CEMENT Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Phi Hùng* Khoa Hóa học, Trường Đại học Quy Nhơn SUMMARY Spent fluid catalytic cracking (sFCC) catalyst from the Dung Quat refinery has studied to reuse it as an active aluminosilicate additive for Portland cement. The experimental results showed that, the heat-treated sFCC materials obtain high lime absorption capacity in accordance with Vietnamese Standard TCVN 3735-1982 (100-150 mg CaO / g). The Portland cement blended (PCB) products prepared by blending pure Portland cement PC40 with 10-20 wt-% of sFCC achieve good 28-day compressive strength (R28 > 50 N/mm2), the compressive strength ratio indexes (IR) of sFCC additives meet TCVN 6882-2001’s requirements (IR > 75%). The other physico-mechanical properties such as initial setting time, final setting time, volume stability also meet requirements in TCVN 6260:2009 about quality standards of Portland cement. This leads to the statement that the spent FCC catalyst from Dung Quat refinery can be reused as an active additive for Portland cement in appropriate experimental conditions (around 20 wt-% sFCC heat- treated at 600 0C in Portland cement blended). 1. MỞ ĐẦU Sự ra đời và hoạt động của Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã góp phần rất quan trọng đến phát triển kinh tế - xã hội khu vực Miền Trung, từng bước đảm bảo nhu cầu nhiên liệu và nguyên liệu hóa dầu cho đất nước. Bên cạnh đó, hằng năm Nhà máy thải ra khoảng 2000 tấn chất thải xúc tác FCC (Fluid Catalytic Cracking), sẽ là gánh nặng cho môi trường nếu không được xử lý và tái chế triệt để. Chất xúc tác FCC đã qua sử dụng (sFCC, spent fluid catalytic cracking) có thể trở thành chất thải có hại do nhiễm kim loại nặng (Pb, Ni,...), bị cốc hóa, hạt bị vỡ vụn và có thể gây bệnh bụi phổi silic. Thành phần chính của sFCC là SiO2, Al2O3 tương tự như các hợp chất aluminosilicat trong vật liệu xây dựng. Vì vậy, trên thế giới đã có nhiều công bố về kết quả nghiên cứu tái chế chất thải xúc tác FCC để làm phụ gia hoạt tính, clinker trong xi măng [1-5], trong bê-tông [6,7], trong xây dựng cầu đường [8]. Tuy nhiên, hiện chỉ mới có một số rất ít các công bố về chất thải FCC từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất trong việc tái tạo tính axit bề mặt và hoạt tính xúc tác cracking [9,10]. Bài báo này trình bày các kết quả khảo sát khả năng sử dụng chất thải xúc tác FCC từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất để làm phụ gia hoạt tính cho xi măng Portland. 2. THỰC NGHIỆM 2.1. Vật liệu: - Chất thải xúc tác FCC từ nhà máy lọc dầu Dung Quất. - Xi măng PC40 từ Nhà máy Xi măng Constrexim Bình Định. Thành phần hóa của clinker xi măng được nêu ra ở Bảng 1 (số liệu phân tích từ Nhà máy theo TCVN 141- 2008). 2 Bảng 1. Thành phần hóa của clinker xi măng Portland Constrexim (% trọng lượng) MKN CKT SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO MgO SO3 CaOtd 0,41 0,40 21,09 5,23 4,00 65,08 1,33 0,41 0,99 (MKN: lượng mất khi nung, CKT: cặn không tan, CaOtd: CaO tự do) Xi măng gốc PC40 được tạo nên từ clinker Portland Constrexim Bình Định và thạch cao (hàm lượng SO3 43,02%) với tỷ lệ tương ứng là 96 : 4 (theo khối lượng), có các tính chất cơ lý như sau: + Cường độ chịu nén 3 ngày: 34,1 N/mm2; 28 ngày: 59,8 N/mm2. + Thời gian đông kết: bắt đầu: 104 phút; kết thúc: 116 phút. + Hàm lượng SO3: 1,93%. + Độ ổn định thể tích: 0,6 mm. - Cát xây tiêu chuẩn, hàm lượng SiO2 ≥ 98%, hàm lượng ẩm < 0,2%, kích thước hạt chủ yếu 0,2-0,5 mm. 2.2. Các phương pháp xác định thành phần, cấu trúc: Thành phần, cấu trúc của sFCC được xác định theo các phương pháp: nhiễu xạ tia X (XRD), tiến hành trên máy Siemen D-5005 với tia bức xạ Cu-K ( = 1,54056Å), bước quét là 0,020; chụp ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) trên máy JEOL JEM 100 tại phòng thí nghiệm Hiển vi điện tử (Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Hà Nội); tán sắc năng lượng tia X (EDX) được đo trên máy Hitachi S4800 tại Viện Khoa học Vật liệu Việt Nam. 2.3. Phương pháp xác định độ hoạt tính phụ gia xi măng của sFCC: Độ hoạt tính của thể hiện qua khả năng hút vôi của vật liệu sFCC được xác định theo phương pháp nhanh khi đun nóng dung dịch theo TCVN 3735-1982, dùng dung dịch chuẩn HCl 0,1 N, chất chỉ thị metyl da cam. Độ hoạt tính được biểu thị bởi số miligam vôi do 1 gam sFCC hấp thụ trong thời gian 30 ngày đêm với 15 lần chuẩn độ. 2.4. Phương pháp xác định chỉ số hoạt tính phụ gia của sFCC trong xi măng Portland hỗn hợp Các mẫu xi măng Portland hỗn hợp được tạo bởi sự phối trộn giữa xi măng gốc PC40 từ Nhà máy Xi măng Constrexim Bình Định với sFCC đã xử lý nhiệt ở các tỉ lệ khối lượng sFCC là 10, 20, 30, 40%. Sau đó xác định tính chất cơ lý của xi măng hỗn hợp để nhận xét về khả năng sử dụng làm phụ gia hoạt tính cho xi măng của sFCC. Quá trình tạo vữa và xác định tính chất cơ lý của xi măng hỗn hợp được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Vật liệu Xây dựng và Cơ lý đất, Trung tâm Phân tích và Kiểm nghiệm, Sở Khoa học và Công nghệ Bình Định. Độ bền nén (Rn) được xác định theo TCVN 6016- 6017:1995 và ISO 679:1989. Thời gian đông kết và độ ổn định thể tích được xác định theo TCVN 6017-1995. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Xác định đặc tính của chất xúc tác FCC đã qua sử dụng từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất Hình thái học của sFCC được xác định qua ảnh SEM (Hình 1a). Quan sát nhận thấy sFCC rất mịn, hầu hết các hạt có kích thước không quá 20 m. Như vậy, xúc tác FCC sau khi sử dụng đã bị vỡ vụn so với xúc tác FCC ban đầu (thường có kích thước trung bình khoảng 60-70 m [11]). Cỡ hạt rất nhỏ của sFCC sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối trộn, các phản ứng thủy hóa, thủy phân và tạo cường độ trong vai trò làm phụ gia xi măng. 3 Thành phần hóa học của sFCC được xác định theo phương pháp EDX, kết quả thể hiện trong Hình 1b. Từ bảng thành phần các nguyên tố hóa học cơ bản cho thấy, các oxit trong mẫu chất thải FCC chủ yếu là Al2O3 và SiO2, với phần trăm khối lượng tương ứng khoảng 50,74% và 43,18%, phù hợp với nguyên liệu cho các vật liệu xây dựng họ silicat. Nhận định này cũng phù hợp với kết quả XRD. (a) (b) Hình 1. (a) Ảnh SEM; (b) Phổ EDX của mẫu sFCC Giản đồ XRD của mẫu sFCC được trình bày ở Hình 2. Kết quả tính từ XRD cho thấy ngoài pha vô định hình, mẫu chứa khoảng 20% khối lượng pha tinh thể zeolit, chủ yếu là zeolit Y (Si/Al = 4,48). So sánh từ hai kết quả EDX và XRD, tính được phần trăm khối lượng của Al2O3 và SiO2 trong pha vô định hình của sFCC tương ứng khoảng 47,79% và 25,55%. Đây là thành phần quan trọng tạo nên độ hoạt tính khi làm phụ gia trong xi măng. Hình 2. Giản đồ XRD mẫu sFCC 3.2. Độ hoạt tính phụ gia xi măng của chất xúc tác FCC đã qua sử dụng Vật liệu sFCC được hoạt hóa nhiệt ở các nhiệt độ 500, 600, 700 và 800 0C (mẫu được ký hiệu tương ứng là F500, F600, F700 và F800). Để có đánh giá ban đầu về khả năng sử dụng sFCC làm phụ gia hoạt tính cho xi măng, chúng tôi kiểm tra độ hoạt tính của sFCC thông qua độ hút vôi theo phương pháp kiểm tra nhanh. Kết quả tổng lượng CaO hấp thụ sau 15 lần chuẩn độ được trình bày ở Bảng 2. Bảng 2. Độ hoạt tính của chất thải xúc tác FCC ban đầu và xử lý nhiệt Mẫu sFCC F500 F600 F700 F800 Độ hoạt tính (mg CaO/g phụ gia) 92,68 103,46 104,16 122,08 100,80 Faculty of Chemistry, HUS, VNU, D8 ADVANCE-Bruker - Mau Zeolite 01-088-2287 (C) - Aluminum Silicate - (Al1.79Al.5Si10.25O24).96 - Y: 93.02 % - d x by: 1. - WL: 1.5406 - Cubic - a 24.30000 - b 24.30000 - c 24.30000 - alpha 90.000 - beta 90.000 - gamma 90.000 - Face-c ` - File: Hung QN mau Zeolite.raw - Type: Locked Coupled - Start: 5.000 ° - End: 45.000 ° - Step: 0.020 ° - Step time: 0.8 s - Temp.: 25 °C (Room) - Time Started: 20 s - 2-Theta: 5.000 ° - Theta: 2.500 ° - Chi: Li n (C ps ) 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190 200 210 220 230 240 250 260 270 280 290 300 2-Theta - Scale 5 10 20 30 40 d= 14 .1 09 d= 8. 60 8 d= 7. 34 0 d= 5. 58 1 d= 5. 41 6 d =3 .7 10 d= 3. 34 9 d= 4. 66 6 d= 4. 30 2 0.00 1.00 2.00 3.00 4.00 5.00 6.00 7.00 8.00 9.00 10.00 keV 001 0 100 200 300 400 500 600 700 800 900 1000 C o u n ts O K a A lK a S iK a S L l S K a S K b C a K a C a K bT iL l T iK e sc T iK a T iK b T iK su m F e L l F e L a F e K e sc F e K a F e K b Fitting Coefficient : 0.2746 Element(keV) Mass% Error% Atom% O K 0.525 50.26 0.36 63.93 Al K 1.486 26.86 0.19 20.26 Si K 1.739 20.15 0.26 14.60 S K* 2.307 0.40 0.21 0.25 Ca K* 3.690 0.42 0.30 0.21 Ti K* 4.508 0.59 0.37 0.25 Fe K 6.398 1.32 0.65 0.48 Total 100.00 100.00 4 Kết quả khảo sát độ hoạt tính cho thấy, mẫu sFCC chưa nung có độ hoạt tính thuộc loại mạnh trung bình (70-100 mg CaO/gam phụ gia). Khi xử lý nhiệt, độ hoạt tính hút vôi của mẫu tăng lên đáng kể, các mẫu sFCC nung đều thuộc vùng chất phụ gia có độ hoạt tính mạnh (100-150 mg CaO/gam phụ gia) theo TCVN 3735-1982. Độ hoạt tính của sFCC tăng khi tăng nhiệt độ nung từ 500 đến 700 0C, do đẩy mạnh sự phân hủy các sản phẩm hữu cơ gây bít tắt bề mặt xúc tác như cốc, hợp chất đa vòng ngưng tụ, tạo thuận lợi cho sự tương tác giữa pha SiO2 vô định hình với CaO tạo khoáng. Tuy nhiên, khi nhiệt độ nung vượt quá 800 0C, độ hoạt tính của sFCC lại giảm đi rõ rệt, có thể ở nhiệt độ cao, sự chuyển pha của SiO2 vô định hình đã bắt đầu diễn ra dẫn đến độ hoạt động của pha này giảm. Để đánh giá đầy đủ hơn khả năng sử dụng sFCC làm phụ gia hoạt tính cho xi măng, chúng tôi tiếp tục khảo sát chỉ số hoạt tính (hoạt tính cường độ hoặc hoạt tính thủy lực) của sFCC thông qua việc xác định độ bền nén và một số thông số cơ lý khác của mẫu đúc vữa từ xi măng Porland hỗn hợp với sFCC. 3.3. Chỉ số hoạt tính phụ gia xi măng của chất xúc tác FCC đã qua sử dụng Các mẫu xi măng Portland hỗn hợp được tạo ra do sự phối trộn giữa xi măng gốc PC40 từ Nhà máy Xi măng Constrexim Bình Định với sFCC đã xử lý nhiệt (hàm lượng sFCC thay đổi 10-40% khối lượng). Sau khi phối trộn nước, tạo hình và bảo dưỡng, mẫu được thử cường độ nén, thời gian đông kết và độ ổn định thể tích theo TCVN 6016- 6017:1995; TCVN 4030:2003 và ISO 679:1989. Chỉ số hoạt tính cường độ (IR) của sFCC được tính theo TCVN 6882-2001: là tỉ số giữa độ bền nén của mẫu xi măng Portland có pha phụ gia khoáng (RB) và độ bền nén của mẫu xi măng Portland nền (gốc) không pha phụ gia (RA) sau 28 ngày đông kết mẫu, tính bằng %, theo công thức: IR = (RB/RA)*100. Cũng theo tiêu chuẩn này, chỉ số hoạt tính cường độ (IR) sau 28 ngày đông kết mẫu của phụ gia hoạt tính phải không nhỏ hơn 75%. Kí hiệu mẫu ví dụ PC-X500 có nghĩa mẫu xi măng Portland được pha trộn với sFCC đã nung ở 500 oC. Kết quả xác định cường độ nén 28 ngày (R28) và chỉ số hoạt tính cường độ (IR) của các mẫu xi măng Portland hỗn hợp được trình bày ở Bảng 3. Đồ thị biểu diễn sự biến thiên chỉ số hoạt tính cường độ theo hàm lượng sFCC ở các nhiệt độ nung sFCC khác nhau được nêu ra ở Hình 3. Bảng 3. Cường độ nén 28 ngày và chỉ số hoạt tính cường độ của mẫu xi măng chứa phụ gia sFCC với hàm lượng sFCC thay đổi (mẫu so sánh có R28 = 59,8 N/mm2) Mẫu Cường độ nén 28 ngày R28 (N/mm 2) Chỉ số hoạt tính cường độ IR (%) % khối lượng sFCC % khối lượng sFCC 10 20 30 40 10 20 30 40 PC-X500 62,3 61,7 22,1 12,8 104,18 103,18 36,96 21,40 PC-X600 59,6 59,2 46,3 26,7 99,67 99,00 77,42 44,65 PC-X700 59,6 65,6 27,3 17,3 99,67 109,70 45,65 28,93 PC-X800 63,8 54,6 32,7 14,2 106,69 91,30 54,68 23,75 5 Hình 3. Sự biến thiên chỉ số hoạt tính cường độ theo hàm lượng sFCC ở các nhiệt độ nung sFCC khác nhau Kết quả cho thấy, các mẫu phối trộn với sFCC hàm lượng 10-20% đạt độ bền nén sau 28 ngày đông kết xấp xỉ, thậm chí cao hơn ở một số mẫu so với mẫu đối chứng (dùng xi măng không trộn sFCC) có R28 = 59,8 N/mm2. Khi hàm lượng sFCC tăng lên quá 20%, cường độ nén của mẫu giảm rõ rệt. Đồ thị Hình 3 cho thấy, các mẫu PC-F500 (%sFCC=10-20), PC-F600 (%sFCC=10-30), PC-F700 (%sFCC=10-20), PC-F800 (%sFCC=10-20) có chỉ số hoạt tính cường độ IR đạt chất lượng của phụ gia hoạt tính cho xi măng theo TCVN 6882-2001 (IR ≥ 75%). Độ giảm chỉ số hoạt tính cường độ IR theo hàm lượng sFCC của mẫu PC- X600 là thấp hơn đáng kể so với các mẫu còn lại. Đối chiếu với kết quả ở Bảng 2, độ hút vôi lại cao nhất ở mẫu sFCC nung ở 700 0C. Điều đó cho thấy, xử lý nhiệt sFCC ở 600 0C là thích hợp cho việc tạo độ hoạt tính hút vôi bằng phản ứng hóa học của phụ gia. Nhiệt độ nung cao hơn là không cần thiết vì vừa tốn kém năng lượng, mà chỉ tăng khả năng hút vôi của phụ gia ở phần hấp phụ vật lý thuần túy vào mao quản, lỗ rỗng giữa các hạt. 3.4. Thời gian đông kết và độ ổn định thể tích của xi măng PC hỗn hợp với sFCC Để khẳng định thêm khả năng sử dụng sFCC làm phụ gia hoạt tính cho xi măng, các chỉ tiêu cơ lý khác (thời gian đông kết, độ ổn định thể tích) của mẫu PC-X600 cũng đã được xác định, kết quả trình bày ở Bảng 4. Bảng 4. Thời gian đông kết và độ ổn định thể tích của mẫu xi măng hỗn hợp PC-X600 với hàm lượng sFCC thay đổi Chỉ tiêu TCVN 6260:2009 PC-X600 Hàm lượng sFCC thay thế (%) 10 20 30 40 Thời gian bắt đầu đông kết (phút) ≥ 45 105 82 38 36 Thời gian kết thúc đông kết (phút) ≤ 420 123 110 61 57 Độ ổn định thể tích (mm) ≤ 10 0,6 0,2 1 0,2 6 Kết quả cho thấy, mẫu PC-X600 với hàm lượng sFCC 10-20% khối lượng đều có các chỉ tiêu thời gian bắt đầu và kết thúc đông kết, độ ổn định thể tích đáp ứng TCVN 6260:2009 về chỉ tiêu chất lượng của xi măng Portland. Tổng hợp các kết quả trên cho thấy, sFCC từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoàn toàn có thể sử dụng làm phụ gia hoạt tính cho xi măng Porland ở điều kiện thực nghiệm thích hợp là mẫu sFCC được xử lý nhiệt ở 600 0C, hàm lượng phối trộn vào xi măng khoảng 20% khối lượng. 4. KẾT LUẬN 4.1. Kết quả khảo sát đặc tính của chất xúc tác FCC đã qua sử dụng (sFCC) từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất cho thấy: sFCC rất mịn với kích thước hạt không quá 20 m, có thành phần chủ yếu là các aluminosilicat trong pha nền và khoảng 20% khối lượng pha tinh thể zeolit, chủ yếu là zeolit Y (Si/Al = 4,48), phần trăm khối lượng của Al2O3 và SiO2 trong pha vô định hình tương ứng khoảng 47,79% và 25,55%. Vật liệu sFCC xử lý nhiệt 500-800 0C có độ hoạt tính (thể hiện qua khả năng hút vôi) mạnh theo TCVN 3735-82 (100-150 mg CaO/gam phụ gia). 4.2. Các thông số cơ lý và chỉ số hoạt tính cường độ của xi măng Portland hỗn hợp giữa PC40 nền với sFCC xử lý nhiệt ở các hàm lượng khác nhau đã được xác định. Kết quả cho thấy, các mẫu phối trộn với 10-20% khối lượng sFCC đều đạt độ bền nén tốt sau 28 ngày đông kết (trên 50 N/mm2), chỉ số hoạt tính cường độ IR đạt chất lượng của phụ gia hoạt tính cho xi măng theo TCVN 6882-2001. Các thông số về thời gian bắt đầu và kết thúc đông kết, độ ổn định thể tích đều đáp ứng TCVN 6260:2009 về chỉ tiêu chất lượng của xi măng Portland. Điều đó cho phép khẳng định rằng, chất xúc tác FCC đã qua sử dụng từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoàn toàn có thể tái chế làm phụ gia hoạt tính cho xi măng Porland ở điều kiện thực nghiệm thích hợp (sFCC được xử lý nhiệt ở 600 0C, phối trộn vào xi măng khoảng 20% khối lượng). TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nancy T. C. and Janneth T. A., Using spent fluid catalytic cracking (FCC) catalyst as pozzolanic addition - a review, Ing. Investig., 30(2), pp. 35-42 (2010). [2]. Payá J., Monzó J., Borrachero M. V., Physical, chemical and mechanical properties of fluid catalytic cracking catalyst residue (FC3R) blended cements, Cem. Concr. Res. 31, pp. 57-61 (2001). [3]. Su N., Fang H. Y. Chen Z. H. and Liu F. S., Reuse of waste catalysts from petrochemical industries for cement substitution, Cem. Concr. Res. 30, pp. 1773-1783 (2000). [4]. Al-Dhamri H., Melghit K., Use of alumina spent catalyst and RFCC wastes from petroleum refinery to substitute bauxite in the preparation of Portland clinker, J Hazard Mater., 179(1-3), pp. 852-859 (2010). [5]. Hsu K.Ch., Tseng Y.S., Ku F. F. and Su N., Oil cracking catalyst as an active pozzolanic material for superplastisized mortars, Cem. Concr. Res. 31, pp. 1815-1820 (2001). [6]. Monzó J., Payá J., Borrachero M. V., Velázquez S., Soriano L., Serna P., Rigueira J., Reusing of spent FCC catalyst as a very reactive pozzolanic material: formulation of high performance concretes, Proceedings of International RILEM Conference on the Use of Recycled Materials in Buildings and Structures, Spain, p.1008 (2004). 7 [7]. Pacewska B., Wilinska I. and Kubissa J., Use of spent catalyst from catalytic cracking in fluidized bed as a new concrete additive, Thermochim. Acta, 322, pp. 175- 181 (1998). [8]. Taha R., Al-Kamyani Z., Al-Jabri K., Baawain M., Al-Shamsi K., Recycling of waste spent catalyst in road construction and masonry blocks, Journal of Hazardous Materials, Vol. 229/230, pp. 122-127 (2012). [9]. Vũ Thị Minh Hồng, Nguyễn Trung Kiên, Đào Đức Cảnh, Đặng Tuyết Phương, Vũ Anh Tuấn, Phan Vũ Anh, Hoàng Thị Thu Thuỷ, Trần Thị Kim Hoa, Nghiên cứu tăng cường tính chất axit của xúc tác FCC phế thải từ nhà máy lọc dầu Dung Quất, Tạp chí hoá học, 49(5AB), tr. 659-664 (2011). [10]. Phạm Thị Thu Giang, Vũ Văn Giang, Vũ Thị Minh Hồng, Nguyễn Trung Kiên, Đào Đức Cảnh, Hoàng Thị Thu Thủy, Trần Thị Kim Hoa, Vũ Anh Tuấn, Đặng Tuyết Phương, Chế tạo xúc tác từ FCC thải của nhà máy lọc dầu Dung Quất sử dụng để nhiệt phân rơm rạ thành dầu sinh học, Tạp chí hoá học, 49(5AB), tr. 609-613 (2011). [11]. Scherzer J., Octane-enhancing, zeolitic FCC catalysts: scientific and technical aspects, Catal. Rev. -Sci. Eng., 31(3), pp. 215-354 (1989). [12]. Đào Thị Thanh Xuân, Nguyễn Hoài Thu, Trần Văn Trí, Nguyễn Sưa, Nguyễn Hữu Trúng, Ngô Thúy Phượng, Đặng Thanh Tùng, Thiết lập điều kiện giả lập xúc tác FCC cân bằng của Nhà máy lọc dầu Dung Quất và đánh giá độ bền với kim loại V, Ni của một số loại xúc tác FCC, Viện Dầu khí Việt Nam (2011). ----- *Liên hệ tác giả: nguyenphihung@qnu.edu.vn Điện thoại: 01262.556.586 View publication stats
File đính kèm:
- nghien_cuu_su_dung_chat_xuc_tac_fcc_da_qua_su_dung_tu_nha_ma.pdf