Quan điểm về dân trong tư tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm
Tóm tắt
Ngô Thì Nhậm là một trong những nhà tư tưởng
của Việt Nam dành nhiều sự quan tâm cho dân.
Quan điểm của ông về ái dân, giáo hóa dân, con
đường giải thoát cho dân được thể hiện xuyên suốt
trong tư tưởng chính trị của ông. Bài viết bước
đầu phân tích những quan điểm về dân trong tư
tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm nhằm tạo ra
một hướng tiếp cận mới cho việc nghiên cứu tư
tưởng chính trị của ông.
Từ khóa: Ngô Thì Nhậm, tư tưởng chính trị, ái
dân, giáo hóa dân, giải thoát.
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm về dân trong tư tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm về dân trong tư tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm
11 Khoa học Xã hội & Nhân văn Số 20, tháng 12/2015 QUAN ĐIỂM VỀ DÂN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NGÔ THÌ NHẬM NGO THI NHAM’S PEOPLE VIEWPOINT IN HIS POLITICAL IDEOLOGY Tóm tắt Ngô Thì Nhậm là một trong những nhà tư tưởng của Việt Nam dành nhiều sự quan tâm cho dân. Quan điểm của ông về ái dân, giáo hóa dân, con đường giải thoát cho dân được thể hiện xuyên suốt trong tư tưởng chính trị của ông. Bài viết bước đầu phân tích những quan điểm về dân trong tư tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm nhằm tạo ra một hướng tiếp cận mới cho việc nghiên cứu tư tưởng chính trị của ông. Từ khóa: Ngô Thì Nhậm, tư tưởng chính trị, ái dân, giáo hóa dân, giải thoát. Abstract Ngo Thi Nham is one of the great Vietnamese ideologists, who has much more concerned in people. His viewpoint of “loving people”, “educating people”, “liberating people” have been well- expressed through his line of political ideology. This article is to aim at analyzing his initial viewpoints of people in his political ideology in order to create a new approach for studying people viewpoint in his political ideology. Keywords: Ngo Thi Nham, political ideology, affection for people, people education, setting free. 1. Dẫn nhập 1 Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) là một danh sĩ, nhà văn thời hậu Lê – Tây Sơn. Ông là một trong những nhà tri thức, nhà tư tưởng, nhà ngoại giao, nhà chiến lược lớn của Việt Nam thế kỷ XVIII. Ngô Thì Nhậm luôn được mọi người, mọi thời đại biết đến với tư cách là một người học rộng, am hiểu nhiều lĩnh vực, khi nghiên cứu bất kỳ vấn đề gì ông cũng nghiền ngẫm rất kỹ càng (Vũ Khiêu 2010, tr. 79). Tư tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm được hình thành và phát triển gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII; là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng, quan điểm của Nho giáo Trung Quốc, và các nhà tư tưởng Việt Nam trước đó. Xuyên suốt tư tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm là quan điểm về “dân”, trong đó nổi bật là các quan điểm về “ái dân”, “giáo hóa dân”, “con đường giải thoát cho dân”. 2. Ái dân Ngô Thì Nhậm chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “dân bản” của Nho giáo. Vì vậy, trong quan điểm về dân, ông luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của dân đối với sự ổn định của quốc 1 Tiến sĩ, Trường Đại học Đà Lạt gia. Mạnh Tử có câu: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Mạnh Kha, Tận tâm hạ), nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc), vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi, dân vốn là gốc của nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. Việc“Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng... hễ được dân chúng tự nhiên sẽ được thiên hạ... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng – Kiệt Trụ chi thất thiên hạ dã, thất kỳ dân dã đắc kỳ dân, tư đắc thiên hạ hỹ đắc kỳ tâm, tư đắc dân hỹ” (Mạnh Kha, Li lâu thượng). Kế thừa quan điểm của Mạnh Tử, khi bàn về “ái dân”, Ngô Thì Nhậm đòi hỏi người làm vua, làm quan phải luôn biết xem trọng dân, yêu dân như con, có như thế mới mong lòng dân, sức dân quy về một mối, triều đình, quốc gia sẽ vững mạnh, yên trị lâu dài: “Ngũ đế đổi họ chịu mệnh trời, Tam vương nhân thời mở vận nước. Đạo có thay đổi thời phải biến thông, như đấng thánh nhân theo đạo trời để làm vua trong nước, yêu dân như con, thì cái nghĩa cũng là một - Ngũ đế di tính nhi thụ mệnh, Tam vương thừa thời nhi khải vận, đạo hữu thiên thời duy biến thông, thánh nhân nhược thiên đạo dĩ quân quốc, tử dân kỳ ứng Nguyễn Thị Hồng Phượng1 2 Số 20, tháng 12/2015 2 Khoa học Xã hội & Nhân văn nghĩa nhất dã” (Mai Quốc Liên 2001, t.1, tr. 172). Ông xem dân là trung tâm của mối quan hệ trời – người, trời trông, trời nghe đều do ở dân, lòng dân có yên định thì ý trời mới xoay chuyển, quốc gia yên định được là cũng do bởi lòng dân:“Dân hoà cảm ở dưới thì thiên hoà ứng ở trên, hiệu nghiệm được mùa không hẹn mà đến - dân hòa cảm vu hạ, thiên hòa ưng vu thượng, lũ chi hiệu bất kỳ nhi nhiên” (trong tờ “Khải” bàn về chính sự đương thời). Triều đình muốn quy tụ được lòng dân thì phải có những chính sách hợp lòng dân, những chính sách gây ra tình trạng tham nhũng, làm cho muôn dân điêu tàn sẽ gây nên mối loạn trong dân. Từ đó, triều đình sẽ không đứng vững, ngôi báu của nhà vua bị lung lay và thậm chí sụp đổ. Là một nhà tư tưởng luôn có tấm lòng nhân nghĩa, Ngô Thì Nhậm cũng kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong việc khẳng định vai trò của dân trong việc ổn định quốc gia. Trong quan điểm về nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định:“Mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân - vã vu hữu nhân giả dân, tải châu phú châu giả diệc dân dã” (Nguyễn Trãi, tr. 203), sức dân mạnh như sức nước, quốc gia là con thuyền mà chỉ có thể dựa vào sức nước để vượt qua mọi sóng gió trên đường đi của nó, dòng nước yên bình, phẳng lặng thì thuyền sẽ thuận lợi cập bến, còn ngược lại, khi dòng nước trở nên dữ dội thì con thuyền kia sẽ có thể gặp nạn. Vì vậy, ta phải hiểu và nắm bắt được sức mạnh của dân để có thể chèo lái con thuyền quốc gia đi tới bến bờ thái bình thịnh trị. Từ tư tưởng này, Ngô Thì Nhậm nói nhiều về “ý dân”, “lòng dân” và coi việc “khoan thư sức dân” là điều hệ trọng bậc nhất trong các hoạt động chính trị. Theo ông, đó là căn cứ, là mục đích cho những chủ trương chính trị lớn. Nhân dân trong tư tưởng Ngô Thì Nhậm được xem như là cơ sở để tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, theo nghĩa đó, để chiến thắng phải “khoan thư sức dân”, tranh thủ và vận động được sự đồng lòng của người dân cả nước. Chính vì thế, giữa triều đình và dân phải có mối liên hệ khăng khít với nhau, “Kinh thư có câu: Dân không vua thì nhờ cậy vào đâu, vua không dân thì cùng ai giữ nước. Phàm những ai có thiên lương nên hiểu cái nghĩa dựa cậy lẫn nhau là như vậy – Thư vân: chúng thư hậu hà trải, hậu phi chúng vọng thủ bang. Hàm hữu thiên lương đương tri tương tu chi nghĩa tư” (Mai Quốc Liên 2001, t. 1, tr. 292). Trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm, việc được lòng dân là cơ sở của sự hoà hợp và phát triển, là điều kiện để có được sự cân bằng cả trong xã hội và tự nhiên. Từ đó, ông đề xuất những phương pháp, cách thức làm thế nào để có được lòng dân. Theo ông, việc triều đình bắt sưu cao, thuế nặng là một trong những nguyên nhân làm cho đời sống của nhân dân khổ cực, ông cho rằng cần giảm bớt sự đóng góp của dân, cần làm cho người nông dân được hài lòng, người buôn bán được thoả dạ và binh sĩ được vừa ý, ông khẳng định: “Muốn được lòng dân, cốt là phải làm cho hai xứ (Thanh, Nghệ) và bốn tuyên (Bắc Bộ) được thư thả - Đắc dân chi đạo, dĩ trí nhị xứ, tứ tuyên vi yếu lãnh (Mai Quốc Liên 2001 , t. 1, tr. 107). Mục tiêu của Ngô Thì Nhậm đã rất rõ ràng là làm gì cũng phải vì quyền lợi thực chất của “con dân”. Muôn dân đều là con đỏ của triều đình, vì vậy triều đình phải hết lòng, hết sức lo lắng cho dân, việc binh đao khói lửa chỉ khiến muôn dân phải sống trong lo lắng, sợ hãi. Vì vậy, nếu ta tránh được cảnh binh đao khói lửa thì nhân dân sẽ có điều kiện được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị, như thế mới là yêu dân, mến dân. Ông viết: “Ôi! Lấy dân đen ở góc bể, đâu không là con đỏ của triều đình, Đại Hoàng đế đã thương đạo hóa thành, đâu phải hiếu đạo hý công, sinh sự với nơi xa ở ngoài để cho dân không có tội hãm vào chỗ gươm đao - Dĩ hải ngung thương sinh, mạc triều đình xích tử, đại hoàng đế mến đạo hóa thành, đâu kỳ hiếu đại hỷ công, sinh sự viễn ngoại sử vô cô chi dân hãm ư giáo (Mai Quốc Liên 2001, t. 1, tr. 308). 33 Khoa học Xã hội & Nhân văn Số 20, tháng 12/2015 Ngô Thì Nhậm đã sáng suốt khi xác định “mấu chốt” của đạo trị nước, nhưng ông càng sáng suốt hơn khi biết phát huy sức mạnh của dân trong việc thực hiện “giáo”, “pháp” và “chính” (Nguyễn Bá Cường 2006, tr. 47). Ông cho rằng, từ kẻ hèn mọn cho đến nhân dân trong nước, thường ngày phải được cung cấp, nuôi dưỡng. Phải bằng chính sự chăm lo đến đời sống nhân dân thì triều đình mới thuyết phục được lòng người, huy động được sức dân. Làm được như vậy, triều đình mới được dân ủng hộ và hưởng ứng. Từ đó, triều đình có thể dựa vào đấy mà lập “giáo”, lo gì không có người dạy dỗ uốn nắn, dựa vào đấy mà lập “pháp”, lo gì không có người trông coi gìn giữ, dựa vào đây mà lập “chính”, lo gì không có giúp đỡ khích lệ? (Nguyễn Bá Cường 2006, tr. 47): “Dân không cần phải dắt bảo từng người mà vẫn tốt, tục không phải thay đổi hàng loạt mà vẫn hay, nhân tài không phải tìm ở nội cỏ mà tự nhiên đến, quan không cần phải đặt nhiều mà tự nhiên trị, nước không cần phải lấy của dân mà vẫn giàu, binh không cần phải xua ra trận mà vẫn mạnh - Dân bất tất đề nhĩ nhi hóa, tục bất tất phi biến nhi thành, hiền bất cầu ư thảo dã nhi tự lai, quan tại bất ư đa nhi tự trị, quốc khả dĩ bất thủ dân nhi phú, binh khả dĩ bất xua ư chiến nhi cương.” (Mai Quốc Liên 2001, t. 1, tr. 15). Theo Ngô Thì Nhậm, yêu dân, an dân là phải có tấm lòng bao dung đối với muôn dân. Người làm vua, làm quan nếu có lòng bao dung thì sẽ được những người bề tôi yêu mến, một lòng tin theo và phục tùng. Ông luôn ca ngợi và yêu mến Quang Trung, một vị vua luôn hết lòng vì dân vì nước với lòng bao dung cao cả. Ông viết: “Kính nghĩ, nay chỉ có hoàng đế bệ hạ, trọng đạo xây đắp ngũ luân, thì việc làm đâu hết là một chữ hiếu. Đức cao chiếu sáng trăm họ, thấu tình mà mở rộng nghĩa, phúc trạch tràn đầy như hạt cây tiêu. Khuôn thánh nêu cao vạn bang, chuộng người thân mà dấy lòng nhân, ân huệ mênh mông như sắn bùn che gốc rễ - Hoàng đế bệ hạ, đạo lập ngũ đôn, trị đoan nhất hiếu. Tuấn đức chiêu minh bách tính, tri kỳ tình nhi tịch kỳ nghĩa, trạch lưu thiệt chi tiêu tục, thánh biểu chính vạn bang, vi ư thân nhi hưng ư nhân, ý phổ tý căn chi lũy” (Mai Quốc Liên 2001, t. 1, tr. 296 – 297). Với Ngô Thì Nhậm, việc tha thứ lỗi lầm, ghi nhận điều tốt là việc làm cao cả. Một người biết tha thứ lỗi lầm và ghi nhận điều tốt sẽ có một cuộc sống thoải mái và không thù hận. Đó là mục tiêu mà người người đều phải cố gắng và thực hiện (Mai Quốc Liên 2001, t.1, tr.289). Trong các bản chiếu dụ mà Ngô Thì Nhậm viết thay Quang Trung cũng thể hiện rất lớn tinh thần bao dung của ông đối với muôn dân, ông đã sống và hiểu rất rõ những nỗi vất vả, khó khăn của người dân nên luôn thể hiện sự bao dung với những hạng người vì chưa được sử dụng, không nơi nương tựa, chịu cảnh đói rét mà phạm phải tội cướp bóc để sinh sống. Ngô Thì Nhậm không chỉ nhìn những hành động bên ngoài mà ông còn xét đến cả bản tâm của những người phạm tội để có thể đưa ra sự xử lý phù hợp nhất, mang tính nhân văn. Ông viết: “Thịnh ý mến thương người tài của triều đình các ngươi đã biết. Chỉ còn lại những kẻ chưa được sử dụng, ăn mặc không nơi nương tựa, đến nỗi phải lấy cướp bóc để kiếm sống. Xét bản tâm họ, chưa hẳn đã vui với việc làm sai trái ấy. Nhưng vì sự thế bức bách, không kịp tính đến phải trái thiệt hơn mà thôi – Điệp ứng tước lộc tài thịnh ý đẳng sở tri. Duy kỳ vị dự dụng giả, xuyên cật vô sở tư toại, dĩ chí miểu lược vi sinh nguyên. Kỳ sơ tâm, vị tâm lương ư vi phi. Giản bách ư sự thế, bất kíp kê kỳ thị phi lợi hại nhĩ” (Mai Quốc Liên 2001, t. 1, tr. 289). Với tinh thần đề cao tư tưởng đức trị của Nho giáo, Ngô Thì Nhậm xem trọng đạo đức của con người, đặc biệt đề cao đức, nhân, trí, dũng trong hành động. Theo ông, đã là người nhân, người dũng thì phải biết phân biệt phải trái, không nên chỉ vì lợi ích của riêng bản thân mà làm tổn hại đến người khác. Ông cho rằng:“Phàm hại người để ích mình, là việc người nhân không nỡ, tránh kẻ mạnh, khinh kẻ yếu, người dũng không thèm. Được chút lợi nhỏ no bụng, mà quên cái họa lớn bỏ 4 Số 20, tháng 12/2015 4 Khoa học Xã hội & Nhân văn mạng, kẻ trí không dung – Vị thương nhân dĩ ích kỷ, nhân giả sở bất nhẫn, tị cường, nhi vụ nhược, dũng giả sở bất. Tiết sung phục chi tiểu đắc, vong sát thân chi đại họa, trí giả sở bất” (Mai Quốc Liên 2001, t. 1, tr. 289). Lo lắng cho cuộc sống của dân, Ngô Thì Nhậm luôn tìm biện pháp để giúp dân miễn giảm sưu thuế, yên tâm sản xuất. Ông chủ trương: “Còn như những tô thuế, ngoài hai vụ chính cung ra, thứ nào có thể tạm miễn được thì miễn, để cho người nông dân được hài lòng – Nhị dụ chi, ngoài tô thuế hữu khả tạm miễn giả miễn chi dĩ ” (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 113). Đặc biệt, trong việc xử lý các loại tội phạm, Ngô Thì Nhậm cũng hết lòng chú ý nhằm thể hiện được sự bao dung của triều đình, như quan niệm: “Người nào bị tội phải nộp tiền chuộc, nhưng cùng túng không lo được, cùng những người vì thế mà trốn tránh đi nơi khác, thì cho phép xã dân cam kết sự cùng túng của họ, và đình chỉ không thu tiền chuộc nữa, để trừ cái tệ bắt lây đến hương thôn – Mỗ danh bị luận chuộc thục tội, kỳ nhân cùng vô sở xuất kíp đào vân tha , thông xã dân cam kết chỉ vật tái trang, dĩ liên đè hương thôn” (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 113). Hay việc xét án, tù tội đồ, tội lưu trở lên cũng có sự điều chỉnh mềm dẻo, linh hoạt thể hiện tính nhân đạo. Ông viết:“Lại ra lệnh cho các quan còn việc xét án, tù tội đồ, tội lưu trở lên, những kẻ chính phạm mới được bắt giam, còn những tội đồ thực, điền binh trở xuống, nặng thì cho chuộc, nhẹ thì dù phải đánh roi cũng tha hết, để cho thư nỗi ấm ức của những người oan uổng – Mệnh phan nghiện chư thần thứ, ngục tư đồ, lưu dĩ thượng, chính tội phương đắc ki giám, tự đồ hình, điền binh nhất hạ, tội giảo trọng giả hứa thục, khinh giả trượng quyết xá hành, dĩ thân oan” (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 113). Một khi sự nhân từ được thực hiện thì lòng muôn dân sẽ quy về một mối, làng trên xóm dưới không một lời giận, oán sầu. Phạt không đến con cháu, thưởng đến tận đời sau, đó là lòng nhân của thánh nhân. Quý người thiện thì lâu (quý đến tận con cháu), ghét kẻ ác thì chóng (ghét riêng kẻ đó thôi), đó là đạo làm người quân tử (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 674). Có thể nói, Ngô Thì Nhậm luôn thể hiện mình là một con người có tấm lòng vì dân vì nước thiết tha. Cả cuộc đời, sự nghiệp của ông luôn là một tấm gương sáng về tấm lòng nhân hậu, đầy sự bao dung, độ lượng. 3. Giáo hóa dân Hoạt động dưới lá cờ trọng dân, trọng nghĩa của triều đình Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm đã đưa ra chủ trương việc “xây nền, dựng nước”, xây dựng một quốc gia ổn định, phồn vinh trước tiên đòi hỏi phải có “nhân chính tốt”, và muốn có “nhân chính tốt” phải thực hiện tốt việc giáo hóa dân. Nho giáo quan niệm: “Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược” (Nguyễn Hiến Lê 1995, tr. 26). Vì thế, giáo hóa dân luôn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi một quốc gia. Tiếp thu triết lý giáo hóa dân của Nho giáo, Ngô Thì Nhậm cũng rất chú trọng tới v ... ờng, lễ nhạc để làm chuẩn mực dựng nên con người; dùng trung tín, hiếu đễ làm quy tắc dạy người. Ông viết: “Cương thường, lễ nhạc là cái thánh nhân đem ra làm chuẩn mực dựng nên con người; trung tín, hiếu đễ là cái thánh nhân lấy đó làm quy tắc dạy người – Cương thường lễ nhạc, thánh nhân sở dĩ lập nhân chi chuẩn dã; trung tín, hiếu đễ, thánh nhân sở dĩ giáo nhân chi tắc dã” (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 37). Từ đây, con người mới có thể tiến bộ, hiểu rõ được cương thường trong xã hội. Thực hiện tốt vai trò và nghĩa vụ của mình đối với bậc trên cũng như kẻ dưới mà không vi phạm vào đạo trung hiếu, giúp xã hội ngày một văn minh, quan hệ trong xã hội ngày càng trật tự, ổn định. Ngô Thì Nhậm viết: “Ta lấy đức tính tốt khuyên bảo nhau để thường tụ họp; thờ thần minh không lỗi đạo thành kính, thờ vua cha không lỗi đạo trung hiếu; ở gia đình thì làm người lương thiện, ở làng xóm thì làm người nết na; thẳng thắn nhưng không tranh giành nhau, hòa nhã 6 Số 20, tháng 12/2015 6 Khoa học Xã hội & Nhân văn để cư xử với nhau. Khiến cho văn vật đời đời sáng láng, khoa mục ngày càng hưng thịnh – Dĩ đức tính tương thân. Phụng thần minh bất thất vi tề trang, sự quân phu bất thất vi trung hiếu, xứ gia đình bất thất vi thiện lương, tại làng bất thất vi hành nghị, khản khản nhi bất tranh, ung ung dĩ tương hòa, sử văn vật thế xương, khoa mục nhật thịnh” (Mai Quốc Liên 2001, t. 1, tr. 37 - 38). Trật tự cương thường có được giữ vững thì phép nước mới ổn định, “vua tôi, trên dưới, cha con, anh em, tất cả đều có thứ tự hẳn hoi thì mới có lòng cung kính. Lễ nhạc, kỷ cương, pháp độ, hình chính, tất cả đều có quy củ rõ ràng thì mới có sự nghiêm minh – quân thần, thượng hạ, phụ tử, huynh đệ, mạc bất trật nhiên hữu tự nhi cung hưng yên. Lễ nhạc, kỷ cương, pháp độ, hành chính, mạc bất sán nhiên hữu chương nhi minh sinh yên” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 631). Trong giáo hóa dân, Ngô Thì Nhậm còn nhấn mạnh vai trò của lễ, khẳng định con người phải biết giữ lễ, tuân theo lễ bởi: “Điều đáng quý ở lễ là cẩn thận chỗ nhỏ bé mà thôi. Điều đáng quý ở con người, là biết giữ lễ mà thôi – Quý lễ cẩn vi, nhi dĩ sở quý nhân hữu lễ nhi dĩ” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 467). Với Ngô Thì Nhậm, ngay cả “việc binh, việc lễ, việc hình, việc nhạc, thánh nhân đều có phép tắc cả. Binh pháp cốt ở chỉnh tề, hình luật cốt ở răn cấm, lễ pháp cốt ở uy nghi, nhạc luật cốt ở thanh âm. Thánh nhân đã nêu ra để dạy người, rất là rõ ràng, dễ hiểu – binh, hình, lễ, nhạc, thánh nhân chi pháp luật tại vi. Binh pháp chủ chính tề, hình luật chủ giới cấm, lễ pháp chủ uy nghi, nhạc luật chủ thanh âm. Thánh nhân cử dĩ biểu nhân, tối minh bạch dễ hiểu” (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 53). Vì vậy, trong mọi hành động phải chú ý đến các quy tắc đã đề ra để thực hiện tốt công việc. Những người làm vua, làm quan phải thực hiện tốt chức trách chăm lo giáo hóa dân. Những gì có lợi cho dân phải hết mình thực hiện, không được để sơ sót mà làm dân không yên: “Lại nhắc cho ba ty và phủ huyện cái chức trách tuyên dương đức hóa, vỗ về chăm sóc cho dân. Nếu có điều gì tiện đáng làm, điều gì hại đáng bỏ, thì cho phép các địa phương trình bày rõ ràng, quan sở tại chuyển đạt lên trên sẽ liệu châm trước mà thi hành – Nhắc tam ty phủ huyện dĩ phủ huyện tuyên ủi vỗ phủ tự chi trách. Hữu sử hòa hưng, hữu tệ khả khứ, địa phương trần, sĩ quan chuyển đạt vi chi chi chước lượng thi hành” (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 112). Ngô Thì Nhậm cho rằng, giáo hóa dân là việc làm quan trọng, trong giáo hóa trước hết chủ yếu thông qua phương pháp giáo dục, nếu giáo dục rồi mà vẫn không được thì mới dùng đến hình phạt. Có như thế thì dân sẽ phục tùng, dần hướng đến việc thiện. Từ đó, ta sẽ giữ được trật tự cương thường, trung tín, hiếu đễ; giúp cho quốc gia ngày càng trật tự và tốt đẹp. Về điều này ông đã viết: “Kẻ nào dạy bảo không được thì nạt bằng uy quyền, trị bằng hình pháp. Thế là dân điêu cũng trở thành thuần, thói bạc cũng trở thành hậu. Ngày tháng thấm nhuần, ai cũng có lòng thờ trên kính vua, đâu cũng thành nếp vào hiếu ra đễ, giáo hóa tràn khắp, phong tục tốt đẹp. Đời thịnh trị của Đường, Ngu, Tam Đại, ngõ hầu lại có thể thấy được ở ngày nay – Kỳ hữu bất nhập giáo giả, nhiên hậu đổng chi dĩ uy, tề chi dĩ hình. Tự nhiên kiêu giả thuần, bạc giả hậu. Nhật thấm nguyệt tứ, tư vi tôn quân thân thượng chi phong, xuất hiếu nhập đễ chi tục. Giáo hóa đại hành, tập tục thói túy mỹ. Đường Ngu tam đại chi tích, phục kiến ư nhật hỹ” (Mai Quốc Liên 2001, t. 3, tr. 24 - 25). 4. Con đường giải thoát cho dân Ngô Thì Nhậm luôn trăn trở trước thực tại và mong muốn tìm ra con đường giải thoát người dân ra khỏi khổ ải. Nói về nỗi khổ của muôn dân, ông không chỉ dừng lại ở những ngôn từ mang nặng tính triết lý mà ông đã đặt cả sự trải nghiệm của bản thân vào trong những phân tích của mình. Ông luôn tỏ ra xót xa trước thực cảnh quê hương, con người luôn phải sống trong sự nghèo nàn, bất hạnh. Trong bài Tiêu Tương tình phiếm (Trời tạnh, thả thuyền trên sông Tiêu Tương), Ngô Thì Nhậm 77 Khoa học Xã hội & Nhân văn Số 20, tháng 12/2015 đã tỏ rõ tâm trạng của mình: Cảnh vật bao đẹp tươi Xóm làng sao xơ xác? Cá nấp sạp nhà buôn Én đậu cửa chòi gác Bóng trâu cày lưa thưa. (Cao Xuân Huy, Thạch Can 1978, t. 2, tr. 390) Đi tìm con đường giải thoát cho dân, Ngô Thì Nhậm đặc biệt quan tâm tới quan điểm về lễ của Nho giáo. Ở Nho giáo, lễ cần thiết để duy trì trật tự xã hội và có trật tự xã hội thì vua mới được tôn, nước mới được trị. Lễ Ký có đoạn viết: “Sự giáo hóa của lễ rất cơ màu, ngăn cấm điều bậy ngay lúc chưa hình ra khiến người ta ngày ngày đến gần điều thiện tránh xa điều tội mà tự mình không biết – Cố lễ chi giáo hóa dã vi, kỳ chỉ tà dã vu vị hình, sử nhân nhật si thiện viễn tội nhi bất tự tri dã” (Tài Thánh 2013, tr. 103). Phát triển lễ trong tư tưởng giáo hóa của Nho giáo, Ngô Thì Nhậm coi trọng lễ trong việc giúp dân bỏ được danh lợi, xa lìa tham, sân, si (Doãn Chính – Nguyễn Thị Hồng Phương 2010, tr. 80). Với ông, việc người dân tuân theo lễ chính là con đường ngăn ngừa những thói hư, tật xấu, giữ được lẽ phải. Ông viết: “Lễ là sự phóng nhàn lớn cho thiên hạ. Chữ nhàn có nghĩa là ngăn ngừa vậy. Rượu để khô, người khát vẫn không dám uống; thịt để khô, người đói - vẫn không dám ăn vì không dám vượt ra ngoài khuôn phép để theo lòng dục của mình, cho nên trên dưới có phân biệt, lòng dân được vững chắc. Thánh nhân dùng lễ để ngăn ngừa thói đời, khiến cho không đến nỗi như loài cầm thú – Lễ giả thiên hạ chi đại nhàn. Nhàn chi vi ngôn hạn dã. Rượu khô, nhân khát nhi bất ẩm cản; thịt khô, nhân ngạ nhi bất dám thực cái bất cản du nhàn dĩ đồ dục, cố thượng hạ biện, dân chí định. Thánh nhân dĩ thị đề phòng thế biến, sử bất bát ư cầm” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 19). Nhờ có lễ, người dân sẽ kìm chế được dục vọng, không bất chấp quy tắc mà vượt đạo 3. Có lễ sẽ giữ đúng đạo, nhất là đạo trung hiếu. Trong Xuân thu quản kiến, Ngô Thì Nhậm cũng đã chỉ ra tầm quan trọng của việc tuân theo đạo, ông đã đưa hành động của Khổng Tử vào trong những kiến giải của mình để nhấn mạnh thêm vai trò của đạo. Ông viết: “Khổng Tử lấy đạo làm thể, lấy sáu Kinh làm thuyền, cho nên dù có một trăm nhà nổi dậy như sóng gió, nhưng thuyền của Khổng tử ở giữa dòng vẫn vững vàng không lay chuyển” (Cao Xuân Huy, Thạch Can 1978, tr.188). Chính nhờ biết lấy đạo là nền tảng cho hoạt động của mình mà con người có thể vượt qua sóng gió, không bị khuất phục trước những mê lầm của cuộc sống. Ngô Thì Nhậm nói đến vai trò của đạo để nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ. Bởi, lễ như là khuôn phép và cũng là phép tắc để muôn dân nhìn vào đó mà không dám làm điều xằng bậy, nhìn vào đó để không làm trái đạo. Điều đáng quý nhất ở mỗi con người là phải biết giữ lễ, có giữ được lễ thì mới mong thoát ra khỏi dục vọng của cuộc sống: “Lễ là để ngăn ngừa tình dục, giữ gìn lẽ phải, chuộng lòng từ nhượng, bỏ mối tranh giành – Lễ dĩ hành tị tư, phu lễ dĩ trị tình, tu nghĩa chuộng, khứ tranh” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 50). Ông coi lễ là tiêu chuẩn cao nhất của đạo đức, với ông, không có lễ thì nhân tâm dù ở bất cứ dạng thức nào cũng không phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức. Bề tôi trước mặt vua phải thể hiện được quy tắc lễ đã quy định, như “việc trước mặt vua thì bầy tôi phải xưng tên – quân tiền thần danh chư” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 46) hay theo lễ, chồng phải thân hành đi đón vợ là trọng về đạo vợ chồng: “Lễ. Vợ chồng là đầu mối nhân luân, là nền tảng phong hóa, bắt đầu có cẩn thận thì kết quả mới tốt đẹp, dựng được nền tảng thì gốc cội mới bền chặt. Vợ thì phải theo chồng, lúc vu quy mà đi với người khác thì sao cho hợp lễ - Lễ. Phu thê nhân luân chi thủy, phong hóa chi cơ, cẩn kín ư sử nãi khả thành, ư chung lập kỳ cơ phương năng 3 Đạo: trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm, đạo chính là: đạo làm người, đạo trung hiếu, đạo lý sống, đạo lý của trời. 8 Số 20, tháng 12/2015 8 Khoa học Xã hội & Nhân văn cố kỳ bản. Phụ đồ phu giả dã. Quy di người bất hợp lễ” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 23). Theo Ngô Thì Nhậm, bên cạnh dùng lễ để hướng người dân đến cuộc sống tốt đẹp hơn thì đạo trung hiếu cũng là yếu tố cơ bản, không thể thiếu, lễ giúp con người không quá độ, biết yên phận, không bị khuất phục trước uy quyền. Triều đình chỉ có thể có kỷ cương khi tôi biết trung với vua, gia đình chỉ có trật tự khi con biết hiếu với cha. Đó là nền tảng trong việc thiết lập sự ổn định quốc gia. Ngô Thì Nhậm khẳng định: “Xuân Thu dạy người ta làm tôi phải trung với vua, làm con phải hiếu với cha làm căn bản, mà sở dĩ dựng được căn bản ấy là cốt ở nuôi khí hạo nhiên. Một khi đã nuôi khí hạo nhiên thì ở vào cảnh giàu sang cũng không quá độ, ở vào cảnh nghèo hèn cũng biết yên phận, bị uy quyền lấn át cũng không chịu khuất phục; có như thế thì lòng trung hiếu mới bền chặt được – Xuân Thu chi giáo dĩ thần trung ư quân, tử hiếu ư phụ vi đại căn đại bản, nhi sở dĩ lập kỳ căn bản giả tại ư dưỡng hại nhiên chi khí tắc phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất; nhi kỳ trung hiếu dã cố cố” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 12). Hiếu thuận là một đức tính không thể thiếu của những người làm con. Đối đãi với cha mẹ tử tế, hiếu thảo thì ắt cha mẹ sẽ vui lòng. Những bậc làm vua cũng không thể không có đức hiếu, vua còn là con của trời, vì vậy phải thể hiện sự hiếu thảo của mình thông qua những việc làm lợi dân, lợi nước. Có như thế trời mới vui, mới thuận lòng nhược bằng không sẽ bị trời giáng họa. Ngô Thì Nhậm viết: “Vua chúa coi trời là cha mà làm con của trời, cũng như con đối với cha mẹ vậy. Cha mẹ vui vẻ ắt là do lòng hiếu thảo của kẻ làm con có những điều làm vừa lòng cha mẹ. Nếu như lúc nào đó trong lời nói, trên vẻ mặt (cha mẹ) tỏ ý bực bội phật lòng, thì (kẻ làm con) nên ăn năn hối lỗi, mong sao (cha mẹ) được vui lòng thì mới thôi. Vua chúa thờ trời cũng như vậy. Đức đủ để trời chứng giám thì mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao được sáng rọi và ngũ hành sẽ thuận theo thứ tự của nó. Nếu đạo đức có tỳ vết, chính sự có khiếm khuyết thì trời sẽ cho xuất hiện những tai dị để quở trách, răn bảo; thấy những (thiên) tượng khác thường hiện ra rõ rệt thì nên sợ hãi mà tu tỉnh (lại), mong sao dẹp được (tai) biến mà trở lại bình thường, (như vậy mới) là đúng – Nhi biến nhân quân phụ thiên nhi chư tử, nhân tử chi ư phụ mẫu dã. Phụ mẫu hạnh tất kỳ vi tử chi hiếu hữu. Dĩ cửu đương thân tất cẩu hoặc quay vi kiến ư từ sắc nhiên. Đức túc cách thiên tắc tam quang đắc kỳ minh Ngũ hành thuận kỳ tự. Nhược hữu tì đức khuyết, chính thiên nải xuất tai dị dĩ khiển cáo chi khiến. Kỳ tượng chiêu trứ tắc đương khủng cụ tu tỉnh, kỳ vu nhĩ biến, nhi phục kỳ thường khả dã” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 640 - 641). Ngô Thì Nhậm đã đề cao việc giữ lễ, đạo trung hiếu theo tư tưởng đức trị của Nho giáo để giúp nhân dân thoát khỏi sự trái quấy. Trong Xuân Thu quản kiến đã nhiều lần ông nhấn mạnh vai trò của lễ, hướng con người đến cuộc sống tích cực. Đồng thời, ông còn đề cao cương thường lễ nghĩa trong việc giúp con người giữ mình. Ông coi: “Cương thường lễ nghĩa, đó là gốc lớn của nước. Nếu để cho những thứ đó bị tuyệt diệt thì vận mệnh sẽ bị người khác định đoạt – Cương thường lễ nghĩa, quốc chi đại bản. Điển vực chi tắc mệnh chế nhân quyền cương uy phúc quân chi sở tháo lăng thế chi tắc tháo dời ư hạ” (Mai Quốc Liên 2001, t. 4, tr. 813). Giữ được cương thường lễ nghĩa cũng là một yếu tố trong việc giữ yên chính sự. Ngô Thì Nhậm làm quan nổi tiếng liêm khiết. Trong quan điểm về dân, ông luôn đề cao đạo Nho, lấy nhân, lễ, nghĩa, đức trung hiếu làm đầu. Theo ông, yêu dân, an dân thì người đứng đầu phải biết giáo hóa dân, tìm được con đường hạnh phúc hướng dân theo. Có như vậy thì những người bề tôi mới yêu mến, một lòng tin theo và phục tùng. 5. Kết luận Những quan điểm về dân trong tư tưởng Ngô Thì Nhậm là một trong những quan điểm đặc sắc, là sự tiếp nối truyền thống trọng dân và 99 Khoa học Xã hội & Nhân văn Số 20, tháng 12/2015 Tài liệu tham khảo Cao, Xuân Huy và Thạch, Can. 1978. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập 2. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội. Doãn, Chính và Nguyễn, Thị Hồng Phương. 2010. “Ngô Thì Nhậm – Hải lượng đại thiền sư”. Triết học, số 1. Đoàn, Trung Còn (dịch giả). 1950. Tứ Thơ, Thượng Mạnh Tử. Sài Gòn: Nhà in Trí Đức Tòng Thơ. Mai, Quốc Liên (chủ biên và khảo luận). 2001. Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 1, 2, 3, 4. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Nguyễn, Bá Cường. 2006. « Tư tưởng Ngô Thì Nhậm về con người và giáo dục con người ». Triết học, số 4. Nguyễn, Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu). 1995. Luận ngữ. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học. Nguyễn, Trãi. Quân trung từ mệnh tập. Hậu tự huấn để răn đe thái tử. Tài liệu Viện Hán Nôm. Vũ, Khiêu (chủ biên). 2010. Danh nhân Thăng Long. Nhà Xuất bản Hà Nội. 张,燕贝(译注)。2009。论语。北京:中华经典戴出版。 孟,轲。2012。上海大学出版社 才,圣(经解)。2013。论语,礼记。北京:北方文化出版社。 thân dân của dân tộc Việt Nam. Quan điểm về dân trong tư tưởng chính trị của Ngô Thì Nhậm thể hiện tinh thần nhân văn cao cả với đức tính khoan dung, độ lượng của ông. Tư tưởng này đã mang đến một làn gió mới trong cái thời đại có nhiều biến động. Những quan điểm về ái dân; giáo hóa dân cũng như việc tìm ra con đường giải thoát cho muôn dân khỏi nỗi khổ đã thể hiện ở Ngô Thì Nhậm một trái tim chân thành, nhân hậu và là sự thể hiện sinh động, sâu sắc tư tưởng “lấy dân làm gốc” của ông. Là một người chứng kiến và tham gia vào những sự kiện lớn lao của lịch sử, thông qua quan điểm về dân, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện khát vọng của thời đại, xứng đáng làm kim chỉ nam cho hoạt động của các nhà tư tưởng sau này.
File đính kèm:
- tap_chi_quan_diem_ve_dan_trong_tu_tuong_chinh_tri_cua_ngo_th.pdf