Thuật ngữ kinh tế tổ chức công nghiệp và luật cạnh tranh (Anh - Việt) (tiếp)

Thuật ngữ tổng quát chỉ việc chứng nhận quyền sở hữu

thông qua bằng sáng chế (patent), bản quyền tác giả

(copyright), nhãn hiệu đăng ký (trademark). Quyền sở hữu

này cho phép người nắm giữ nó được phép độc quyền sử dụng

các vật thể trong một thời gian nhất định. Bằng việc hạn chế

sự bắt chước và sao chép, nó đã tạo ra sự độc quyền. Nhưng

tổn thất xã hội của sự độc quyền có thể được bù đắp bằng

những lợi ích do làm tăng mức độ của các hoạt động sáng tạo

vì được khuyến khích bởi lợi nhuận độc quyền.

 

pdf 53 trang dienloan 2640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thuật ngữ kinh tế tổ chức công nghiệp và luật cạnh tranh (Anh - Việt) (tiếp)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thuật ngữ kinh tế tổ chức công nghiệp và luật cạnh tranh (Anh - Việt) (tiếp)

Thuật ngữ kinh tế tổ chức công nghiệp và luật cạnh tranh (Anh - Việt) (tiếp)
105. Integration (Tích hợp) 
Xem Vertical Integration (Tích hợp theo chiều 
dọc) 
106. Intellectual Property Rights (Quyền sở hữu 
trí tuệ) 
Thuật ngữ tổng quát chỉ việc chứng nhận quyền sở hữu 
thông qua bằng sáng chế (patent), bản quyền tác giả 
(copyright), nhãn hiệu đăng ký (trademark). Quyền sở hữu 
này cho phép người nắm giữ nó được phép độc quyền sử dụng 
các vật thể trong một thời gian nhất định. Bằng việc hạn chế 
sự bắt chước và sao chép, nó đã tạo ra sự độc quyền. Nhưng 
tổn thất xã hội của sự độc quyền có thể được bù đắp bằng 
những lợi ích do làm tăng mức độ của các hoạt động sáng tạo 
vì được khuyến khích bởi lợi nhuận độc quyền. 
107. Inter- and Intra-Brand Competition (Cạnh tranh 
giữa và bên trong các nhãn hiệu) 
Xem Cạnh tranh nhãn hiệu (Brand Competition) 
108. Interlocking Directorate (Các ban giám đốc 
chung, các ban giám đốc kết hợp) 
Các ban giám đốc chung hình thành khi một người ngồi 
ở vị trí của ban giám đốc của hai hay nhiều công ty. Có mối 
quan ngại rằng sự kết hợp như vậy giữa các doanh nghiệp 
cạnh tranh (kết hợp trực tiếp) có thể được sử dụng để phối 
hợp hành vi và giảm bớt tính cạnh tranh giữa các công ty. Sự 
kết hợp trực tiếp ở Hoa Kỳ là bất hợp pháp bởi Luật Clayton, 
nhưng ở các quốc gia khác có thể được khoan dung hơn. 
Tuy nhiên, các nghiên cứu thực tế cho thấy phần lớn các 
ban giám đốc chung xảy ra là giữa các công ty tài chính và 
phi tài chính. Như vậy, đại diện của ngân hàng thường có thể 
ngồi chung một ban giám đốc với các công ty cạnh tranh với 
 70 
nhau. Nhưng những sự liên kết gián tiếp như vậy thường 
không phải là một yếu tố được xem xét đến trong luật cạnh 
tranh. 
109. International Cartel (Cácten quốc tế) 
Xem Cácten (cartel) 
110. Inverse Index (Chỉ số nghịch đảo) 
Xem Chỉ số tập trung (Concentration Indexes) 
111. Joint Monopoly Profits (Lợi nhuận độc quyền kết 
hợp) 
Xem Tối đa hóa lợi nhuận chung (Joint Profit 
Maximization) 
112. Joint Profit Maximization (Tối đa hóa lợi 
nhuận chung) 
Một tình huống mà trong đó các thành viên của cácten 
(cartel), độc quyền song phương (duoply), độc quyền 
nhóm bán (oligopoly) hoặc những điều kiện thị trường 
tương tự tham gia vào một quá trình quyết định giá cả – sản 
lượng được thiết kế để tối đa hóa lợi nhuận chung của cả 
nhóm. Chủ yếu, các công ty thành viên sẽ tìm cách để hành 
động như một doanh nghiệp độc quyền (monopoly). Cần 
lưu ý một điểm rằng, tối đa hóa lợi nhuận chung không nhất 
thiết bao hàm phải có một sự cấu kết (collusion) hoặc một 
thỏa thuận (agreement) giữa các doanh nghiệp. Doanh 
nghiệp có thể độc lập chấp nhận một chiến lược về giá cả – 
sản lượng, nhưng có tính đến phản ứng của đối thủ cạnh 
tranh và do đó sẽ sản xuất ở mức để có thể tối đa hóa lợi 
nhuận chung. 
 71 
113. Joint Venture (Liên doanh) 
Một liên doanh là một hội các công ty hoặc cá nhân 
được thành lập để thực thi một kế hoạch kinh doanh nào đó. 
Điều này tương tự như quan hệ đối tác (partnership) nhưng 
lại chỉ giới hạn vào một dự án đặc biệt (như sản xuất một 
loại sản phẩm cụ thể hoặc nghiên cứu trong một lĩnh vực cụ 
thể nào đó). Liên doanh có thể trở nên một vấn đề cần quan 
tâm trong chính sách cạnh tranh khi nó được thiết lập bởi 
các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau. Liên doanh thường 
được thực hiện trong một dự án cụ thể, khi có tính rủi ro và 
đòi hỏi một lượng vốn lớn. Như vậy, liên doanh trở nên thông 
dụng trong ngành công nghiệp khai thác tài nguyên vì chi phí 
vốn cao và khả năng thất bại lớn. Liên doanh hiện nay cũng 
ngày càng trở nên phổ biến trong lĩnh vực phát triển công 
nghệ mới. 
Trong lĩnh vực của chính sách cạnh tranh, vấn đề đặt ra 
là cần cân nhắc khả năng giảm xuống của mức độ cạnh tranh 
đối lại với lợi nhuận tiềm năng của việc kết hợp rủi ro 
(pooling of risk), chia sẻ chi phí vốn và lan truyền kiến thức. 
Hiện nay, có những cuộc tranh luận sôi nổi ở nhiều quốc gia 
về việc xem liệu có nên đưa các liên doanh vào sự phán quyết 
của luật cạnh tranh hay không. 
114. Lerner Index (Chỉ số Lerner) 
Một phương pháp đo lường được đề nghị bởi nhà kinh tế 
A.P. Lerner để đo lường sự độc quyền (monopoly) hoặc sức 
mạnh đối với thị trường (market power). Chỉ số Lerner 
(LI) được tính như sau: 
LI = 
E
1- 
cảGiá
biênphíChi-cả Giá = 
Với E là độ co giãn của nhu cầu theo giá. 
 72 
Trong trường hợp cạnh tranh hoàn hảo, LI bằng 0. Chỉ 
số này định nghĩa quyền lực độc quyền bằng độ dốc của đường 
cầu. Trong trường hợp lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp cân 
bằng thì lợi nhuận biên (marginal revenue) bằng với chi phí 
biên (marginal cost) và LI bằng với nghịch đảo của độ co 
giãn của cầu (elasticity of demand). 
LI là một số đo tĩnh và không chỉ ra xem liệu sự sai 
lệch giữa chi phí biên và giá cả là chi phí phải trả cho sự cải 
tiến hoặc xây dựng nhà xưởng mới, hay phản ánh hiệu quả 
hơn hẳn hơn là khả năng của doanh nghiệp trong việc định 
giá cao. 
115. Leveraged Boyout (Mua vay vốn ngoài) 
Xem Mua lại, Thôn tính (Buyout) 
116. Licensing (Cấp phép) 
Chỉ trường hợp cho phép làm điều gì đó một cách hợp 
pháp, chẳng hạn như sản xuất một sản phẩm. Giấy phép cấp 
cho cá nhân hay một công ty một quyền mà nó không có 
trước đó. Một số giấy phép được cấp miễn phí nhưng hầu hết 
đều đòi hỏi một khoản thanh toán. Giấy phép là một thỏa 
thuận hợp pháp có thể chứa đựng một số hạn chế về cách 
thức mà nó được sử dụng. 
Có hai trường hợp tổng quát mà giấy phép cần được 
chính sách cạnh tranh để ý tới. Đầu tiên là giấy phép của 
chính phủ cho phép gia nhập vào một ngành công nghiệp đặc 
biệt nào đó. Hệ thống giấy phép tồn tại ở nhiều ngành như 
công nghệ viễn thông (radio và TV), các nghề nghiệp chuyên 
môn (như bác sĩ) và dịch vụ (ngân hàng, đại lí). Các loại giấy 
phép khác nhau rất nhiều, nhưng nó thường đi kèm với nhiều 
hạn chế đối với doanh nghiệp. Những hạn chế (hoặc những 
điều tiết) có thể được áp dụng cho giá cả, chất lượng hoặc số 
 73 
lượng dịch vụ. Giấy phép chính phủ đại diện cho một rào 
cản gia nhập (barrier to entry) quan trọng trong những 
ngành nghề này. 
Loại thứ hai là bằng sáng chế (patent), bản quyền và 
thương hiệu mà qua đó quyền tác giả (dưới hình thức một 
giấy phép) được cung cấp bởi người sở hữu cho một bên khác 
để làm, tái sản xuất, mua hoặc bán những món đồ đó. Người 
giữ bản quyền, thương hiệu và bằng sáng chế có thể cấp phép 
cho những người khác sử dụng hoặc sản xuất hàng hóa, 
thường để nhận được một khoản phí cố định hay theo tỉ lệ. 
Trong hầu hết các trường hợp, người giữ bằng sáng chế không 
có sự phân biệt giữa việc cấp phép và sản xuất phát minh của 
anh ta bởi vì anh ta có thể tối đa hóa lợi nhuận thu được 
thông qua việc nhận được các khoản phí cấp phép. 
Tuy nhiên, người giữ bằng sáng chế không bị buộc phải 
sử dụng hoặc cấp phép sử dụng công nghệ của họ. Như vậy, 
có thể có một sự hạn chế về truyền bá công nghệ (restriction 
of technology) là cái có thể được coi như rào cản gia nhập 
(barrier to entry). Trong nhiều quốc gia, có điều khoản cho 
việc thu hồi lại bằng sáng chế hoặc áp đặt bắt buộc cấp phép 
(compulsory licensing) khi người ta có thể chứng minh rằng 
bằng sáng chế đã bị lạm dụng thông qua việc không sử dụng 
(non-use) hoặc chống lại cạnh tranh. Trên thực tế, bắt buộc 
cấp phép ít khi được sử dụng. 
117. Limit Pricing (Định giá hạn chế) 
Định giá hạn chế là thuật ngữ dùng để chỉ trường hợp 
mà một (hoặc các) công ty đi trước cản trở hoặc ngăn chặn sự 
xâm nhập hoặc bành trướng của các công ty nhỏ. Giá hạn chế 
là mức giá thấp hơn so với mức giá tối đa hóa lợi nhuận trong 
ngắn hạn (short-run profit-maximizing price) nhưng cao hơn 
mức giá cạnh tranh trong trường hợp có cạnh tranh. 
 74 
Có nhiều mô hình về định giá hạn chế và có nhiều cuộc 
tranh luận đáng kể về việc liệu các doanh nghiệp tham gia 
vào hành vi này thực sự sẽ có lợi nhuận hay không. Định giá 
hạn chế hàm ý rằng, doanh nghiệp phải hi sinh lợi nhuận 
hiện tại để ngăn cản kẻ xâm nhập và kiếm lợi nhuận trong 
tương lai. Có điều không rõ ràng là liệu chiến lược này có 
luôn tốt hơn những chiến lược khác không khi giá cả hiện tại 
(và lợi nhuận) đang cao hơn, nhưng sẽ giảm xuống theo thời 
gian khi việc xâm nhập xảy ra. 
Trong những tài liệu nghiên cứu ban đầu về định giá 
hạn chế, khả năng của những công ty đi trước trong việc thiết 
lập những giá cả như vậy được gắn với sự tồn tại của rào 
cản gia nhập (barrier to entry) có tính cấu trúc. Tuy 
nhiên, điều này đòi hỏi những giả định khá nghiêm ngặt về 
hành vi của các doanh nghiệp đi trước, đặc biệt là việc những 
doanh nghiệp này phải giữ vững mức sản lượng khi đối mặt 
với sự xâm nhập và sự đe dọa như vậy phải được các doanh 
nghiệp xâm nhập tiềm năng tin tưởng. Những tài liệu gần 
đây hơn nhấn mạnh vào rào cản gia nhập có tính chiến lược 
(strategic barriers to entry) nhất là những hành động mà 
những doanh nghiệp đi trước có thể thực hiện nhằm thuyết 
phục những kẻ xâm nhập rằng họ sẽ không gặp thuận lợi khi 
xâm nhập. 
118. Lorenz Curve (Đường cong Lorenz) 
Xem Chỉ số tập trung (Concentration Indexes) 
119. Loss-Leader Selling (Bán chịu lỗ trước) 
Một hành vi tiếp thị khi chịu lỗ để bán một hàng hóa 
hoặc dịch vụ nhằm lôi kéo các khách hàng đang mua những 
sản phẩm khác với một cái giá bình thường. Trong khi hành 
động này là bất hợp pháp ở một số nước, thì ở một số nước 
khác nó lại được nhìn nhận một cách khoan dung hơn như 
 75 
một hình thức khuyến mãi có tác dụng kích thích cạnh tranh 
để tăng lượng bán. 
120. Management Buyout (Quản lí thôn tính) 
Xem Mua lại, Thôn tính (Buyout) 
121. Marginal Cost (Chi phí biên) 
Xem Chi phí (Costs) 
122. Marginal Revenue (Thu nhập biên) 
Xem Thu nhập (Revenue) 
123. Market (Thị trường) 
Thị trường là nơi người mua và người bán tiến hành các 
giao dịch để trao đổi một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó 
và là nơi mà giá cả các hàng hóa và dịch vụ này tiến tới mức 
cân bằng. Để thị trường hoạt động một cách “trọn vẹn” (clear) 
hoặc đúng đắn, số lượng hàng hóa và dịch vụ được yêu cầu và 
cung cấp phải bằng nhau ở một mức giá nào đó. Ở vào một 
thời điểm nhất định, thị trường có thể ở mức “cân bằng” hoặc 
“không cân bằng” tuỳ thuộc vào liệu tổng cung có bằng tổng 
cầu ở một mức giá đó không. Thị trường có thể giới hạn ở 
mức độ địa phương, vùng hoặc quốc gia hay quốc tế và không 
nhất thiết đòi hỏi người mua và người bán phải trực tiếp gặp 
gỡ nhau. Công việc kinh doanh cũng có thể được tiến hành 
thông qua việc sử dụng các công cụ trung gian. Xem thêm 
Định nghĩa thị trường (Market Definition) 
124. Market Concentration (Tập trung thị trường) 
Xem Tập trung (Concentration) 
125. Market Definition (Định nghĩa thị trường) 
Điểm khởi đầu của bất cứ phân tích nào về cạnh tranh 
cũng là định nghĩa thị trường “liên quan” (relevant). Có hai 
 76 
hướng cơ bản để định nghĩa thị trường: (i) thị trường sản 
phẩm, ở đó sản phẩm được kết hợp với nhau; và (ii) thị 
trường địa lí, ở đó những khu vực địa lí được kết hợp với 
nhau. Định nghĩa thị trường quan tâm cả về cung và cầu. Về 
khía cạnh cầu, từ quan điểm của người mua, sản phẩm phải 
có khả năng thay thế được. Về khía cạnh cung, người bán 
phải bao gồm cả những người sản xuất hoặc những người có 
thể dễ dàng chuyển đổi sản xuất sang những sản phẩm liên 
quan hoặc gần có khả năng thay thế được. Định nghĩa thị 
trường nói chung bao gồm cả người bán thực tế và tiềm năng, 
có nghĩa là, những doanh nghiệp có thể nhanh chóng thay đổi 
quy trình sản xuất của nó để sản xuất các sản phẩm thay thế 
nếu giá cả được bảo đảm. Cơ sở của lí luận này nằm ở chỗ, 
những doanh nghiệp như vậy có khuynh hướng làm nản chí 
hoặc kiềm chế khả năng của những doanh nghiệp đang tồn 
tại trong việc tăng giá lên cao hơn mức giá cạnh tranh. Địa 
điểm của người mua và người bán sẽ quyết định xem liệu thị 
trường địa lí là địa phương, vùng, quốc gia hay quốc tế. Nếu 
thị trường được định nghĩa quá hẹp theo sản phẩm hoặc địa 
lí, sự cạnh tranh có ý nghĩa có thể được loại trừ khỏi phân 
tích này. Mặt khác, nếu thị trường sản phẩm và địa lí được 
định nghĩa quá rộng, mức độ của cạnh tranh có thể quá cao. 
Định nghĩa thị trường quá rộng hoặc quá hẹp có thể dẫn tới 
việc đánh giá quá cao hoặc quá thấp thị phần (market 
share) và các chỉ số đo lường sự tập trung. 
126. Market Failure (Thất bại của thị trường) 
Một thuật ngữ tổng quát mô tả một tình huống mà 
trong đó kết quả của thị trường không đạt tới hiệu quả 
Pareto (Pareto efficient). Thất bại của thị trường cung cấp 
lí do cho sự can thiệp của chính phủ. Có nhiều nguồn gốc cho 
sự thất bại của thị trường. Liên quan tới chính sách cạnh 
 77 
tranh, lí do thích hợp nhất là vì có sự tồn tại của sức mạnh 
đối với thị trường (market power) hoặc việc thiếu vắng 
cạnh tranh hoàn hảo (pefect competition). Tuy nhiên, có 
một số hình thức khác của thất bại thị trường có thể biện 
minh cho những sự điều tiết và sở hữu công cộng. 
Trong trường hợp khi một số cá nhân hoặc công ty gây 
ra một số chi phí và lợi ích cho những người khác nhưng thị 
trường lạ ... kiện thuận lợi cho sự cấu kết 
(collusion) và/hoặc hoạt động như một rào cản thương mại 
phi thuế quan. Các tiêu chuẩn cũng thường được sử dụng bởi 
các doanh nghiệp đi trước đối với các sản phẩm của họ nhằm 
làm tăng rào cản gia nhập (barriers to entry). 
Trong trường hợp dịch vụ, nhiều ngành nghề chuyên 
môn và ngành nghề kinh doanh từ các bác sĩ tới thợ mộc đều 
thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu để cấp phép cho việc hành 
nghề. Trong khi những giấy phép như vậy có vẻ làm tăng 
chất lượng trung bình của những dịch vụ này, nó cũng có tác 
động hạn chế nguồn cung và làm tăng giá. Để những tiêu 
chuẩn này làm tăng cao hiệu quả kinh tế, việc xác định tiêu 
 113 
chuẩn và quá trình chứng nhận phải minh bạch. Chúng cũng 
phải là đối tượng kiểm tra và cân bằng để ảnh hưởng của bất 
cứ nhóm lợi ích nào không thể chiếm ưu thế. Ngoài ra, những 
tiêu chuẩn này cần được xem xét và cập nhật định kì. 
189. Strategic Behaviour (Hành vi chiến lược) 
Hành vi chiến lược là một thuật ngữ tổng quát mô tả 
hành động của những doanh nghiệp có ý định tác động tới 
hoạt động của thị trường mà doanh nghiệp đó đang cạnh 
tranh. Hành vi chiến lược bao gồm những hành động tác 
động đến đối thủ cạnh tranh để hành động một cách hợp tác 
nhằm nâng cao lợi nhuận phối hợp, cũng như là những hành 
động không hợp tác để nâng cao lợi nhuận của mình với phí 
tổn của đối thủ cạnh tranh. Nhiều loại cấu kết (collusion) 
là ví dụ của hành vi hợp tác chiến lược. Các ví dụ về hành vi 
không hợp tác chiến lược bao gồm cả ngăn chặn trước (pre-
emption of facilities), phá giá phi giá cả (non-price 
predation) và việc thiết lập một cách giả tạo các rào cản 
gia nhập (barriers to entry). Hành vi chiến lược có khả 
năng xảy ra hơn trong những ngành có ít người mua và người 
bán. 
190. Subsidiary (Công ty phụ thuộc) 
Một công ty bị kiểm soát bởi một công ty khác. Sự kiểm 
soát xảy ra khi công ty kiểm soát sở hữu hơn 50% cổ phần 
thường của công ty bị kiểm soát. Khi công ty mẹ sở hữu 100% 
cổ phần thường, công ty phụ thuộc đó được gọi là bị sở hữu 
hoàn toàn (wholly-owned). Khi công ty phụ thuộc hoạt động 
trong lãnh thổ một quốc gia khác, nó được gọi là công ty phụ 
thuộc ở nước ngoài. Công ty nắm quyền được gọi là công ty 
chủ vốn (holding company) hoặc công ty mẹ (parent). 
Một công ty phụ thuộc là một công ty có những điều lệ riêng 
 114 
và không phải là một phòng ban/bộ phận của công ty kiểm 
soát. 
191. Substantial Lessening of Competition (Sút giảm 
thực sự tính cạnh tranh) 
Xem Sức mạnh đối với thị trường (Market Power) 
192. Sunk Costs (Chi phí chìm) 
Chi phí chìm là chi phí sau khi đã phát sinh thì không 
thể tái sử dụng được nữa. Chi phí chìm xảy ra bởi một số 
hoạt động cần những tài sản chuyên biệt mà những tài sản 
này không thể sẵn sàng được chuyển đổi sang sử dụng cho 
những hoạt động khác. Thị trường hàng hóa đã qua sử dụng 
cho những tài sản này như vậy chỉ có giới hạn. Chi phí chìm 
luôn luôn là chi phí cố định (xem chi phí (costs)) nhưng 
không phải mọi chi phí cố định đều là chi phí chìm. 
Các ví dụ về chi phí chìm là các đầu tư vào những thiết 
bị chỉ có thể sản xuất một loại sản phẩm đặc biệt, đầu tư 
phát triển sản phẩm chỉ cho một tầng lớp khách hàng riêng 
biệt, chi tiêu quảng cáo và chi tiêu R&D. Nói một cách tổng 
quát, đây là những tài sản đặc thù của doanh nghiệp. 
Sự vắng mặt của chi phí chìm là một yếu tố quan trọng 
cho sự tồn tại của thị trường có tính cạnh tranh (contestable 
markets). Khi chi phí chìm tồn tại, doanh nghiệp đối mặt với 
rào cản rút khỏi ngành (barrier to exit). Việc thoát khỏi 
ngành một cách tự do và không tốn chi phí là điều cần thiết 
cho tính có thể cạnh tranh (contestability). Chi phí chìm 
cũng dẫn tới rào cản gia nhập (barriers to entry). Sự tồn 
tại của chúng làm tăng những cam kết của các doanh nghiệp 
đi trước với thị trường và có thể đưa ra một tín hiệu về sự sẵn 
lòng phản ứng một cách hết sức mạnh mẽ với sự thâm nhập. 
193. Sustainable Monopoly (Độc quyền bền vững) 
 115 
Xem Tính có thể cạnh tranh (Contestability). 
194. Tacit Collusion (Thỏa thuận ngầm) 
Xem Cấu kết (Collusion), Quan hệ song hành có ý 
thức (Conscious Parallelism). 
195. Takeover (Mua lại, Tiếp quản) 
Sự giành được quyền kiểm soát một công ty bởi một 
công ty khác hoặc đôi khi bởi một cá nhân hoặc một nhóm 
các nhà đầu tư. Mua lại thường được tiến hành bởi việc mua 
cổ phần với giá cao hơn giá hiện hành và có thể được tài trợ 
bằng nhiều cách bao gồm cả trả tiền mặt và/hoặc bằng cổ 
phần của công ty đi mua lại. Tuy thuật ngữ sáp nhập 
(merger), thôn tính (acquisitions) và mua lại có thể được 
dùng một cách thay thế nhưng vẫn có sự phân biệt nhỏ giữa 
chúng. Việc mua lại có thể hoàn toàn hoặc một phần và 
không nhất thiết bao gồm việc kết hợp các hoạt động giữa 
công ty bị mua và công ty đi mua. Trên thực tế, sự mua lại 
làm nảy sinh quyền sở hữu chung và quyền kiểm soát dẫn 
đến việc các công ty có thể tối đa hóa lợi nhuận kết hợp và 
đây là nguồn gốc gây quan ngại cho các nhà chức trách về 
cạnh tranh. Xem thêm Thị trường cho quyền quản lí 
công ty (Market for Corporate Control). 
196. Tied Selling (Bán có điều kiện, Bán có ràng 
buộc) 
Để chỉ tình huống khi việc bán một loại hàng hóa được 
đặt điều kiện là phải mua một loại hàng hóa khác. Một biến 
thể là buộc mua toàn bộ (full-line forcing) trong đó người bán 
gây áp lực (hoặc bắt buộc) bắt người mua mua toàn bộ chủng 
loại sản phẩm trong khi người này lúc đầu có ý định chỉ mua 
một loại sản phẩm cụ thể nào đó. Bán có điều kiện thỉnh 
thoảng được dùng như một công cụ phân biệt giá. Mối quan 
 116 
ngại liên quan đến cạnh tranh xảy ra vì việc ràng buộc có thể 
ngăn cản cơ hội cho những công ty khác bán những sản phẩm 
có liên quan hoặc làm tăng rào cản gia nhập (barriers to 
entry) cho những công ty không cung cấp đủ chủng loại sản 
phẩm. Một quan điểm đối lập là những hành vi này là cách 
làm có hiệu quả, có nghĩa là được sử dụng để giảm bớt chi phí 
của việc sản xuất và phân phối những chủng loại sản phẩm 
và bảo đảm chất lượng sản phẩm được bán bổ sung cũng 
tương tự như chất lượng hàng đã được bán trên thị trường. Ví 
dụ, một nhà sản xuất máy tính có thể yêu cầu khách hàng 
mua đĩa của chính công ty này sản xuất để ngăn chặn sự hư 
hại hoặc sự hoạt động kém cỏi do việc thay thế bằng đĩa có 
chất lượng thấp. Càng ngày thì người ta càng nhận thấy rằng 
tùy vào các điều kiện thị trường khác nhau mà thỏa thuận 
bán có điều kiện có thể có những lí do kinh doanh xác đáng. 
Trong việc quản lí chính sách cạnh tranh, ngày càng có nhiều 
nhà kinh tế đề nghị rằng cần chấp nhận cách tiếp cận quy 
tắc hợp lí (rule of reason) cho việc bán có điều kiện. 
197. Total Costs (Tổng chi phí) 
Xem Chi phí (Costs) 
198. Trade Mark (Thương hiệu) 
Để chỉ những thứ như từ ngữ, vật biểu tượng hoặc những 
dấu hiệu khác được doanh nghiệp sử dụng để phân biệt sản 
phẩm và dịch vụ của họ với những sản phẩm và dịch vụ được 
cung cấp bởi những doanh nghiệp khác. Một thương hiệu có 
thể được đăng ký dưới Luật quyền sáng chế (Patent Act) hoặc 
Trademark Act (Luật thương hiệu) hoặc những văn bản pháp 
luật sở hữu trí tuệ nào có thể được áp dụng. Một thương hiệu 
thường trở nên quan trọng với chính sản phẩm và có thể trở 
thành một nguồn gốc tạo nên lợi thế cạnh tranh. Ví dụ khăn 
giấy “Kleenex” là tên một thương hiệu được sử dụng để chỉ 
 117 
“khăn tay”, “khăn giấy mỏng”; “Xerox” dùng để chỉ máy 
photocopy; “Coke” thay vì “nước uống có cola”. Thương hiệu có 
thể được dùng để thông tin về chất lượng của hàng hóa và 
dịch vụ đến người tiêu dùng. Doanh nghiệp khi cấp phép 
thương hiệu của họ cho người bán lẻ có thể đòi hỏi một số 
điều kiện trong hợp đồng cấp phép để bảo đảm một chất 
lượng đồng nhất. Xem Quyền sở hữu trí tuệ (Intellectual 
Property Rights), Cấp phép (Licensing). 
 118 
199. Transaction Costs (Chi phí giao dịch) 
Là thuật ngữ được dùng để chỉ những chi phí được bao 
hàm trong việc trao đổi trên thị trường. Những thứ này bao 
gồm chi phí tìm ra giá thị trường, chi phí thương lượng và 
thực hiện hợp đồng. 
Khái niệm về “chi phí giao dịch” được đưa ra đầu tiên 
bởi hai nhà kinh tế là Coase và Williamson. Hai ông cho rằng 
các tổ chức kinh tế nảy sinh từ hành vi tối thiểu hóa chi phí 
(bao gồm cả chi phí giao dịch) trong một thế giới hữu hạn về 
thông tin và chủ nghĩa cơ hội. 
Sự phân tích chi phí giao dịch được dùng để giải thích 
sự tích hợp theo chiều dọc, các công ty đa quốc gia, và đại lí 
nhượng quyền. 
200. Uniform Delivered Pricing (Giá giao hàng thống 
nhất) 
Xem Định giá điểm chuẩn (Basing Point Pricing) 
201. Variable Costs (Chi phí khả biến) 
Xem Chi phí (Costs) 
202. Vertical Integration (Tích hợp theo chiều 
dọc) 
Mô tả quyền sở hữu hoặc kiểm soát bởi một công ty ở 
những công đoạn khác của quá trình sản xuất, ví dụ như công 
ty lọc dầu sở hữu “xuôi dòng” (downstream) các kho chứa và 
các trạm bán lẻ xăng dầu và “ngược dòng” (upstream) các 
giếng dầu thô và đường ống dẫn dầu. Tích hợp “về phía trước” 
để chỉ công đoạn sản xuất và phân phối trong khi tích hợp 
“về phía sau” để chỉ từ công đoạn sản xuất tới khai thác 
nguyên liệu thô trong hoạt động của doanh nghiệp. Tích hợp 
theo chiều dọc có thể đạt được thông qua đầu tư mới và/hoặc 
 119 
sáp nhập theo chiều dọc (vertical merger) và thôn tính 
(acquisition) các doanh nghiệp đang hoạt động ở các công 
đoạn sản xuất khác nhau. Một động lực quan trọng cho tích 
hợp theo chiều dọc là nâng cao hiệu quả và tối thiểu hóa chi 
phí giao dịch (transaction costs). 
203. Vertical Merger (Sáp nhập theo chiều dọc) 
Xem Sáp nhập (Merger) 
204. Vertical Restraints (or Restrictions) (Kìm 
chế/Hạn chế theo chiều dọc) 
Để chỉ một số loại hành vi được thực hiện bởi một số 
nhà sản xuất hoặc phân phối liên quan tới việc bán lại sản 
phẩm. Thỏa thuận thông thường được sử dụng ở đây là thỏa 
thuận giữ giá bán lại (resale price maintenance (RPM)), 
giao dịch độc quyền (exclusive dealing) và loại trừ khu vực 
(exclusive territory), hoặc hạn chế thị trường địa lí. Trong 
giao dịch độc quyền (exclusive dealing) và/hoặc loại trừ khu 
vực, chỉ có một người phân phối đơn lẻ là người duy nhất 
được quyền của nhà sản xuất để tiếp thị sản phẩm. Có sự 
tranh luận đáng kể trong tài liệu kinh tế xem liệu điều này có 
tạo cho nhà phân phối sức mạnh đối với thị trường 
(market power) hay không. Thường thì sức mạnh đối với thị 
trường của nhà phân phối bị giới hạn bởi sự cạnh tranh giữa 
các nhãn hiệu (inter-brand). Mục đích của nhà sản xuất 
thường là cung cấp khuyến khích cho nhà phân phối để 
khuếch trương sản phẩm và cung cấp dịch vụ tốt hơn cho 
người tiêu dùng. Xem thêm thảo luận trong Việc hưởng lợi 
không phải trả tiền (Free Riding), Thỏa thuận giữ giá 
bán lại (RPM). 
 120 
205. Workable Competition (Khả năng có thể 
cạnh tranh) 
Khả năng có thể cạnh tranh là một khái niệm nảy sinh 
từ sự quan sát rằng cạnh tranh hoàn hảo (perfect 
competition) không tồn tại, các lí thuyết dựa trên cạnh 
tranh hoàn hảo không cung cấp một hướng dẫn đáng tin cậy 
cho chính sách cạnh tranh. Ý tưởng này được phát biểu lần 
đầu tiên bởi nhà kinh tế J.M. Clark vào năm 1940. Ông ta lí 
luận rằng, mục tiêu của luật cạnh tranh nên là làm cho cạnh 
tranh “có thể hoạt động được” (workable) chứ không nhất 
thiết phải hoàn hảo. Ông ta đề nghị các tiêu chuẩn cho việc 
phán xét xem liệu cạnh tranh có hoạt động hay không và 
điều này đã kích thích một loạt những sự xem xét lại và phản 
đối. Các tiêu chuẩn được đặt ra rất tổng quát, ví dụ như số 
lượng doanh nghiệp ít nhất phải lớn để đạt được lợi thế kinh 
tế nhờ qui mô, các chi phí khuyến mãi không được quá cao và 
quảng cáo (advertising) phải mang đủ các thông tin cần 
thiết. 
Không có sự thống nhất về việc liệu cái gì có thể tạo ra 
khả năng về tính có thể cạnh tranh của thị trường nhưng các 
nhà chức trách về cạnh tranh thực sự đã sử dụng một số khái 
niệm của chúng. 
206. X-Efficiency (Hiệu quả X) 
Xem Hiệu quả (Efficiency), Phi hiệu quả-X (X-
Inefficiency) 
207. X-Inefficiency (Phi hiệu quả-X) 
Trong tác phẩm Sự giàu có của các quốc gia xuất bản 
năm 1776, Adam Smith cho rằng “Độc quyền là kẻ thù lớn 
của quản lí tốt”. Sự thấu hiểu bên trong này công khai nhận 
thức rằng vấn đề độc quyền (monopoly) không chỉ là vấn 
 121 
đề về giá cả mà còn là vấn đề về chi phí. Trong khi độc 
quyền cung cấp nền tảng cho việc rút tỉa giá cao hơn từ người 
tiêu dùng, sự thiếu vắng kích thích do cạnh tranh cũng có thể 
làm tăng chi phí sản xuất các hàng hóa và dịch vụ. Sự thiếu 
vắng các khuyến khích hoặc áp lực cạnh tranh có thể dẫn các 
doanh nghiệp mang tính độc quyền bỏ qua việc tối thiểu hóa 
chi phí sản xuất đơn vị, có nghĩa là bỏ qua phi hiệu quả-X 
(thuật ngữ được đặt ra bởi H. Leibenstein). Bao gồm cả trong 
phi hiệu quả-X là sự lãng phí trong chi tiêu như giữ năng lực 
sản xuất quá cao, những lợi ích tốn kém cho các nhà quản lí, 
vận động chính trị hành lang để tìm kiếm sự bảo hộ và các 
điều luật thuận lợi, việc kiện tụng. 
 122 

File đính kèm:

  • pdfthuat_ngu_kinh_te_to_chuc_cong_nghiep_va_luat_canh_tranh_anh.pdf