Tính chất cơ học và độ bền của bê tông cát xỉ lò cao và khả năng ứng dụng trong công trình biển
Tro bay và xỉ lò cao là các loại vật liệu đã cho thấy được sự cải thiện các tính chất
cường độ và độ bền khi được sử dụng trong bê tông cát. Sự kết hợp đồng thời của 2 loại vật
liệu này với nhau có thể sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng so với việc dùng riêng từng
loại. Bài báo trình bày một nghiên cứu thực nghiệm về tính chất cơ học và độ bền của bê tông
cát (BTC) khi sử dụng kết hợp đồng thời TB và XLC. Các loại bê tông cát được chế tạo với
lượng cố định 150 kg/m3 tro bay trong khi XLC thay thế chất kết dính (CKD) với các tỷ lệ
khác nhau để xem xét sự ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng XLC đến tính chất của BTC đóng rắn.
Một cấp phối bê tông thường (BTT) sử dụng lượng xi măng tương đương tổng lượng CKD
trong BTC được chế tạo với mục đích so sánh. Kết quả nghiên cứu cho thấy tính chất cường
độ chịu nén, cường độ ép chẻ, độ mài mòn trong nước của bê tông cát tối ưu với tỷ lệ XLC
thay thế 20%. Độ thấm clorua của BTC thấp nhất với tỷ lệ XLC thay thế 30%. Tỷ lệ XLC
thay thế càng lớn, độ giãn nở của BTC trong dung dịch sunfat càng thấp sau 6 tháng. Ba loại
BTC ứng với tỷ lệ XLC thay thế 10%, 20%, 30% có tính chất cường độ và độ bền đáp ứng
được yêu cầu của bê tông làm việc trong môi trường biển theo TCVN 12041: 2017 và CSA
A23.1: 2004.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính chất cơ học và độ bền của bê tông cát xỉ lò cao và khả năng ứng dụng trong công trình biển
Transport and Communications Science Journal, Vol 71, Issue 05 (06/2020), 568-582 568 Transport and Communications Science Journal MECHANICAL PROPERTIES AND DURABILITY OF BLAST FURNACE SLAG SAND CONCRETE AND APPLICABILITY IN MARINE CONSTRUCTIONS Nguyen Tan Khoa1*, Nguyen Thanh Sang2 1Dong A University, 33 Xo Viet Nghe Tinh, Danang, Vietnam. 2University of Transport and Communications, No 3 Cau Giay Street, Hanoi, Vietnam. ARTICLE INFO TYPE: Research Article Received: 25/4/2020 Revised: 23/6/2020 Accepted: 26/6/2020 Published online: 28/6/2020 https://doi.org/10.25073/tcsj.71.5.9 * Corresponding author Email: ntkhoa2013@gmail.com; Tel: 0935788756 Abstract. Fly ash (FA) and ground granulated blast furnace slag (GGBFS) are the materials that have shown an improvement in strength and durability properties of sand concrete (SC). The combination of these two materials together can be more effective than using them individually. The paper presents an empirical study on the mechanical and durability properties of sand concrete when used simultaneously with FA and BFS. Sand concrete types were fabricated with a fixed amount of 150 kg/m3 of FA while GGBFS replaces binder with different ratios to consider the impact of GGBFS rate on the properties of harden sand concrete. A traditional concrete uses the amount of cement equivalent to the total amount of binder of SC was fabricated for comparison purposes. Research shows that SC has optimal results of compressive strength, splitting compressive strength, under water abrasion with replacement GGBFS rate of 20%. The chloride penetration of SC was the best with replacement GGBFS rate of 30%. The higher the GGBFS replacement rate, the lower the expansion of SC in the sulfate solution after 6 months. Three types of SC with replacement GGBFS rate of 10%, 20%, 30% have the strength and durability properties that satisfy the requirements of concrete working in the marine environment according to TCVN 12041: 2017 and CSA A23.1: 2004. Keywords: Sand concrete, ground granulated blast furnace slag, under water abrasion, chlorine ion penetration, sulfate durability, marine construction. © 2020 University of Transport and Communications Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, Tập 71, Số 05 (06/2020), 568-582 569 Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải TÍNH CHẤT CƠ HỌC VÀ ĐỘ BỀN CỦA BÊ TÔNG CÁT XỈ LÒ CAO VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG CÔNG TRÌNH BIỂN Nguyễn Tấn Khoa1*, Nguyễn Thanh Sang2 1Trường Đại học Đông Á, Số 33 Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đà Nẵng, Việt Nam. 2Trường Đại học Giao thông vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. THÔNG TIN BÀI BÁO CHUYÊN MỤC: Công trình khoa học Ngày nhận bài: 25/4/2020 Ngày nhận bài sửa: 23/6/2020 Ngày chấp nhận đăng: 26/6/2020 Ngày xuất bản Online: 28/6/2020 https://doi.org/10.25073/tcsj.71.5.9 * Tác giả liên hệ Email: ntkhoa2013@gmail.com; Tel: 0935788756 Tóm tắt. Tro bay và xỉ lò cao là các loại vật liệu đã cho thấy được sự cải thiện các tính chất cường độ và độ bền khi được sử dụng trong bê tông cát. Sự kết hợp đồng thời của 2 loại vật liệu này với nhau có thể sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng so với việc dùng riêng từng loại. Bài báo trình bày một nghiên cứu thực nghiệm về tính chất cơ học và độ bền của bê tông cát (BTC) khi sử dụng kết hợp đồng thời TB và XLC. Các loại bê tông cát được chế tạo với lượng cố định 150 kg/m3 tro bay trong khi XLC thay thế chất kết dính (CKD) với các tỷ lệ khác nhau để xem xét sự ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng XLC đến tính chất của BTC đóng rắn. Một cấp phối bê tông thường (BTT) sử dụng lượng xi măng tương đương tổng lượng CKD trong BTC được chế tạo với mục đích so sánh. Kết quả nghiên cứu cho thấy tính chất cường độ chịu nén, cường độ ép chẻ, độ mài mòn trong nước của bê tông cát tối ưu với tỷ lệ XLC thay thế 20%. Độ thấm clorua của BTC thấp nhất với tỷ lệ XLC thay thế 30%. Tỷ lệ XLC thay thế càng lớn, độ giãn nở của BTC trong dung dịch sunfat càng thấp sau 6 tháng. Ba loại BTC ứng với tỷ lệ XLC thay thế 10%, 20%, 30% có tính chất cường độ và độ bền đáp ứng được yêu cầu của bê tông làm việc trong môi trường biển theo TCVN 12041: 2017 và CSA A23.1: 2004. Từ khóa: Bê tông cát, xỉ lò cao nghiền mịn, độ mài mòn trong nước, độ thấm clorua, độ bền sunfat, công trình biển. © 2020 Trường Đại học Giao thông vận tải Transport and Communications Science Journal, Vol 71, Issue 05 (06/2020), 568-582 570 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Bê tông cát là một loại đá nhân tạo nhận được sau khi tạo hình và làm rắn chắc một hỗn hợp hợp lý bao gồm: cát thô, cát mịn, chất độn mịn, xi măng, nước, một hoặc nhiều loại phụ gia [1]. Bê tông cát đã được sử dụng phổ biến ở một số vùng quốc gia có nguồn cát dồi dào nhưng khan hiếm cốt liệu thô như Pháp, Nga, Đức các nước Bắc Phi và các quốc gia khác [2]. Nguyên lý cấu tạo của bê tông cát chính là sự nhỏ hóa dãy cấp phối cốt liệu so với bê tông thường, nghĩa là các hạt cát thô lúc này đóng vai trò là khung cốt liệu, thành phần cát mịn, chất độn mịn đóng vai trò điền đầy khung cốt liệu [3]. Thành phần chất độn mịn của bê tông cát thường sử dụng trước đây là bột đá vôi với lượng sử dụng từ 50 đến 250 kg/m3 tùy thuộc vào cấp cường độ yêu cầu [2]. Trong công trình dân dụng, bê tông cát có thể dùng để chế tạo kết cấu bê tông đúc sẵn, kết cấu sàn, dầm dự ứng lực với cường độ chịu nén 28 ngày từ 30 - 45 MPa. Trong công trình giao thông, bê tông cát được ứng dụng trong đường ống bê tông đúc sẵn, đường bê tông không cốt thép và có cốt thép với cường độ ở 28 ngày từ 20 - 50 MPa. Ngoài ra, BTC đã được ứng dụng làm bê tông phun đường hầm, bê tông cho lĩnh vực kiến trúc và khối bê tông đúc sẵn cho công trình bảo vệ bờ [2]. Hiện nay, để phát triển bền vững, việc giảm lượng xi măng tiêu thụ và tăng cường sử dụng các phụ phẩm công nghiệp (PPCN) đóng vai trò chất kết dính phụ thêm (CKDPT) trong bê tông là xu hướng tất yếu. Các loại CKDPT như silica fume, tro bay, xỉ lò cao đã và đang được nghiên cứu sử dụng trong bê tông cát. Silica fume thay thế 15% lượng xi măng chế tạo bê tông cát đạt cường độ đạt 60 MPa và có độ thấm ion clo < 500 Culong [4]. Nghiên cứu của Dalila Benamara (2015) cho thấy silica fume thay thế 15% lượng xi măng có cường độ chịu nén cao nhất và cường độ chịu nén ổn định trong dung dịch Na2SO4 sau 270 ngày trong khi các cấp phối khác có sự suy giảm cường độ rõ rệt [5]. Tro bay với tỷ lệ thay thế 20% xi măng trong bê tông cát cho thấy cường độ chịu nén cao hơn so với bê tông cát đối chứng và độ thấm ion clo thấp hơn so với bê tông cát đối chứng ở 28 ngày [6]. Nghiên cứu của Chaohua Jiang (2018) về bê tông cát sử dụng tro bay và xỉ lò cao với lượng dùng từ 100 kg/m3 đến 300 kg/m3 cho thấy cường độ chịu nén của bê tông cát ở 7 và 28 ngày tối ưu với 150 kg/m3 tro bay và 200 kg/m3 xỉ lò cao [7]. Các nghiên cứu trên đã cho thấy các loại CKDPT như silica fume, tro bay, xỉ lò cao khi thay thế xi măng với tỷ lệ hợp lý sẽ giúp tăng cường tính năng cường độ và độ bền của bê tông cát. Tuy nhiên sự kết hợp các loại CKDPT với xi măng trong bê tông cát ở các nghiên cứu trên chỉ mang tính riêng lẽ mà chưa có sự phối hợp với nhau để hạn chế các khuyết điểm và tăng cường ưu điểm của từng loại vật liệu. Ngoài ra, các nghiên cứu về bê tông cát sử dụng các CKDPT mới chỉ tập trung chủ yếu vào tính năng cơ học, các nghiên cứu về độ bền của BTC còn rời rạc. Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh duyên hải Miền Trung với lượng cát đụn mịn rất lớn có trữ lượng lên đến hàng tỷ m3 mỗi tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển bê tông cát thay thế cho bê tông thường [3]. Hiện nay nhu cầu xây dựng các công trình bảo vệ bờ biển, phát triển hạ tầng ven biển ở Việt Nam rất lớn, với sự thuận lợi về nguồn vật liệu địa phương dồi dào nên định hướng nghiên cứu phát triển bê tông cát phục vụ công trình biển là phù hợp và rất cấp thiết. Các nghiên cứu và ứng dụng bê tông cát ở Việt Nam hiện nay đã có nhưng chủ yếu tập trung vào các tính năng bê tông phục vụ cho công trình giao thông [3, 6]. Trong khi bê tông dùng làm công trình biển thường yêu cầu phức tạp hơn do môi trường xâm thực mạnh, đòi hỏi yêu cầu độ bền bê tông cao hơn so với các dạng công trình khác. Giải pháp tăng cường độ bền của bê tông cát với việc sử dụng CKDPT đã cho thấy sự hiệu quả qua những nghiên cứu trước đây, tuy nhiên có thể tổ hợp các loại CKDPT với nhau để phát huy ưu và hạn chế nhược điểm của từng loại trong bê tông cát. Tro bay khi sử dụng trong bê tông giúp tăng tính công tác, với Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, Tập 71, Số 05 (06/2020), 568-582 571 tỷ lệ hợp lý sẽ nâng cao tính chất cơ học, độ bền của bê tông, tuy nhiên khi sử dụng nhiều sẽ làm giảm cường độ tuổi sớm của bê tông [8]. Xỉ lò cao nghiền mịn (XLCNM) khi sử dụng trong bê tông có có tác dụng làm giảm lỗ rỗng cấu trúc, cải thiện cường độ dài hạn, cải thiện đáng kể độ bền sunfat và độ bền clorua [9, 10]. Trong bê tông, xỉ lò cao có thể được thay thế xi măng với tỷ lệ đến 70%, khi được nghiền đến độ mịn nhất định sẽ giúp tăng cường độ tuổi sớm của bê tông [8]. Bê tông cát sử dụng lượng lớn cốt liệu mịn do đó thường yêu cầu lượng xi măng lớn để lấp đầy khung cốt liệu và lượng nước lớn để đảm bảo tính công tác cho bê tông. Với sự kết hợp của tro bay và xỉ lò cao trong bê tông cát có thể thay thế được lượng lớn xi măng sử dụng, cải thiện vấn đề tính công tác và nâng cao được độ bền của bê tông cát trong mục tiêu sử dụng làm kết cấu cho công trình biển. Sự kết hợp của tro bay và xỉ lò cao trong bê tông thường cho thấy việc giảm độ co ngót, cải thiện rõ rệt độ chống thấm nước, chống thấm clorua làm tiền đề để phối hợp 2 loại vật liệu này một cách hiệu quả trong bê tông cát [11-13]. Bê tông cát với sự khác biệt về nguyên tắc cấu tạo so với BTT, sự kết hợp giữa xi măng – tro bay – xỉ lò cao cần được nghiên cứu để xác định tỷ lệ sử dụng XLC và TB hợp lý nhất giúp tối ưu tính chất cường độ và độ bền của bê tông cát. Bài báo trình bày nghiên cứu thực nghiệm về tính năng cường độ, độ bền của BTC khi sử dụng đồng thời cả XLC và TB thay thế một phần xi măng. TB được sử dụng với lượng cố định 150 kg/m3 với vai trò vừa là vật liệu chèn đầy, vừa là một phần CKD. XLCNM thay thế xi măng với tỷ lệ 0%,10%, 20%, 30%, 40% để xem xét ảnh hưởng của sự thay đổi đến các tính chất cường độ chịu nén, cường độ ép chẻ, độ bền clorua, độ bền sunfat và độ bền mài mòn trong nước của BTC. Kết quả nghiên cứu giúp xác định tỷ lệ sử dụng XLC hợp lý trong BTC để thõa mãn yêu cầu các tính năng của bê tông trong công trình biển, từ đó đề xuất các kết cấu công trình biển có thể sử dụng loại BTC trong nghiên cứu. 2. KẾ HOẠCH THỰC NGHIỆM 2.1. Vật liệu chế tạo Nghiên cứu sử dụng xi măng PC40 Bút Sơn thõa mãn TVCN 2682: 2009, tro bay thõa mãn TCVN 10302:2014, xỉ lò cao nghiền mịn thõa mãn TCVN 11586: 2016. Thành phần hóa học và tính chất vật lý của XM, TB và XLCNM được trình bày trong Bảng 1, Bảng 2. Thành phần cốt liệu của BTC bao gồm cát nghiền (CN) và cát mịn (CM), trong đó CN có Dmax < 5mm, khối lượng riêng là 2,71 g/cm3; CM với mô đun độ lớn 1,97, khối lượng riêng 2,64 g/cm3. Thành phần hạt của CN, CM và hỗn hợp cốt liệu được thể hiện ở Hình 1. Nghiên cứu sử dụng phụ gia siêu dẻo Master Glenium ACE 8509 thõa mãn ASTM C494 loại F. Bảng 1. Thành phần hóa học của xi măng, tro bay và xỉ lò cao nghiền mịn. Thành phần hóa học (%) CaO SiO2 Fe2O3 Al2O3 MgO K2O Na2O SO3 LOI XM PC40 63,2 21,9 3,3 5,72 1,1 0,3 0,12 1,9 0,19 TB 4,27 53,9 6,7 21,8 1,45 3,4 0,67 0,2 6,27 XLCNM 34,7 36,6 0,03 12,91 7,78 1,26 0,52 1,45 0,01 Transport and Communications Science Journal, Vol 71, Issue 05 (06/2020), 568-582 572 Bảng 2. Tính chất vật lý của xi măng, tro bay và xỉ lò cao nghiền mịn. Tính chất vật lý Kích thước hạt trung bình (µm) Khối lượng riêng (g/cm3) Độ mịn Blaine (cm2/g) Chỉ số hoạt tính cường độ ở 28 ngày (%) XM PC40 16,1 3,1 3730 100 TB 26,9 2,2 - 85,3 XLCNM 12,2 2,9 4520 105 Ghi chú: C33 Max là đường giới hạn trên thành phần hạt theo ASTM C33; C33 Min là đường giới hạn dưới thành phần hạt theo ASTM C33; 70CN-30CM là đường thành phần hạt của hỗn hợp cốt liệu có tỷ lệ 70% cát nghiền và 30% cát mịn. Hình 1. Thành phần hạt của cốt liệu trong bê tông cát. 2.2. Thành phần bê tông nghiên cứu Bảng 3. Thành phần cấp phối của các loại bê tông trong nghiên cứu. Loại bê tông Nước (lít) Xi măng (kg/m3) Xỉ lò cao (kg/m3) Tỷ lệ xỉ lò cao Tro bay (kg/m3) N /CKD Cát nghiền (kg/m3) Cát mịn (kg/m3) Đá 5x20 (kg/m3) Cát sông (kg/m3) Phụ gia (l/m3) BTTĐC 172 550 0 0 0,313 0 0 1035 690 6,29 BTCĐC 165 400 0 0 150 0,3 977 651 0 0 4,8 BTCX10 165 345 55 10% 150 0,3 982 655 0 0 4,6 BTCX20 165 290 110 20% 150 0,3 977 653 0 0 4,5 BTCX30 165 235 165 30% 150 0,3 977 651 0 0 4,4 BTCX40 165 180 220 40% 150 0,3 974 650 0 0 4,4 Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, Tập 71, Số 05 (06/2020), 568-582 573 Năm loại BTC được chế tạo sử dụng kết hợp xi măng, xỉ lò cao, tro bay với tỷ lệ N/CKD = 0,3 có thành phần được xác định theo phương pháp thiết kế thành phần BTC [1, 2]. Trong đó, TB được sử dụng lượng cố định 150 kg/m3 trong BTC với vai trò vừa là vật liệu điền đầy, vừa là thành phần CKDPT; XLCNM thay thế lần lượt 0%, 10%, 20%, 30%, 40% tổng lượng CKD để xem xét sự ảnh hưởng của XLC đến các tính chất của BTC đóng rắn. Một loại bê tông thường với mục đích đối chứng có lượng XM sử dụng tương đương tổng lượng XM, XLC, TB của các loại BTC, được thiết kế theo ACI 211.4R-08 [14]. Các loại bê tông trong nghiên cứu có độ sụt thiết kế là 8±2 cm. Các thành phần hỗn hợp bê tông được trình bày ở Bảng 3. 2.3. Phương pháp nghiên cứu Các hỗn hợp BTC được được trộn với tổng thời gian 8 phút. Cát nghiền, cát mịn và các thành phần bột mịn (XM, TB, XLCNM) được trộn khô trong vòng 2 phút. Tiếp theo, cho 70% lượng nước vào và tiếp tục trộn trong 2 phút. Cuối cùng cho phụ gia siêu dẻo vào 30% nước còn lại, cho vào hỗn hợp bê tông và trộn trong vòng 4 phút để kết thúc quá trình trộn. Mẫu thử hình trụ kích thước 100x50 mm2 được chuẩn bị để thí nghiệm xác định độ thấm clorua ở 28 ngày theo TCVN 9337:2012 [15]. Mẫu thử hình trụ kích thước 100x200 mm2 được chuẩn bị để thí nghiệm cường độ chịu nén và cường độ ép chẻ của bê tông ở 7, 28, 56 ngày theo TCVN 3118:1993 [16] và TCVN 3120:1993 [17]. Mẫu thử hình trụ với đường kính 300 mm và chiều cao 100 mm được chuẩn bị để thí nghiệm độ mài mòn trong nước ở 28 ngày theo ASTM C1138 [18]. Mẫu thử lăng trụ kích thước 25x25x285 mm được đúc để thử nghiệm độ bền sunfat của chỉ các loại BTC trong thời gian 6 tháng (180 ngày) với dung dịch Na2SO4 10% theo ASTM C1012 [19]. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Cường độ nén Kết quả cường độ chịu nén của các loại bê tông ở 7, 28 và 56 ngày là giá trị trung bình cường độ chịu nén của 3 mẫu thử và đ ... hợp với các nghiên cứu về độ bền sunfat của bê tông xỉ lò cao như Gollop và các cộng sự (1996), Le Hua Yu và cộng sự (2013) [30, 31]. Có thể giải thích vấn đề này như sau, khi tăng tỷ lệ thay thế XLC đối với xi măng làm giảm lượng C3A vốn là nguyên nhân gây nên giãn nỡ sunfat ; xỉ lò cao phản ứng làm giảm đáng kể sự hiện diện của Ca(OH)2 trong bê tông từ đó giảm phản ứng tạo thành ettringite ; độ thấm ít hơn của bê tông XLC làm giảm ảnh hưởng của dung dịch sunfat tác động vào bê tông. Ngoài ra, việc sử dụng TB với lượng lên đến 150 kg/m3 trong BTC cũng góp phần cải thiện độ thấm thấp và độ kiềm thấp do phản ứng puzolan từ đó cải thiện độ bền chống xâm thực của các loại bê tông trong nghiên cứu [32]. Sau 6 tháng (180 ngày), chỉ có loại BTCĐC có độ giãn nỡ sunfat > 0,05% , các loại BTC dùng XLC đều có độ giãn nỡ < 0,05%. Như vậy, thành phần CKD của các loại BTC sử dụng XLC đáp ứng yêu cầu tương tự như xi măng bền sunfat cao theo C1157 – 03 [33]. 3.5. Độ bền mài mòn trong nước của bê tông cát xỉ lò cao Thí nghiệm độ bền mài mòn trong nước với quy trình theo ASTM C1138. a) Mức độ mài mòn trong nước của BTT b) Mức độ mài mòn trong nước của BTC Hình 6. Mức độ mài mòn trong nước của bê tông thường và bê tông cát. Transport and Communications Science Journal, Vol 71, Issue 05 (06/2020), 568-582 578 Kết quả thí nghiệm độ mài mòn trong nước của các loại bê tông trong nghiên cứu là giá trị trung bình của 2 mẫu thử và được thể hiện ở Hình 7. Hình 7. Độ mài mòn trong nước ở 28 ngày của các loại bê tông. Độ mài mòn trong nước của các loại bê tông BTTĐC, BTCĐC, BTCX10, BTCX20, BTCX30, BTCX40 lần lượt là 4,45 %, 4,15%, 3,72%, 2,89%, 3,53% và 4,32%. Độ mài mòn cao của các loại bê tông thể hiện khả năng chống mài mòn kém và ngược lại. Khi tăng tỷ lệ thay thế XLC, độ mài mòn của các loại BTC có xu hướng giảm và tăng lại, đạt giá trị thấp nhất với tỷ lệ XLC tương ứng 20%. Sự thay đổi của độ mài mòn trong nước khi tăng tỷ lệ thay thế XLC có xu hướng ngược chiều với cường độ chịu nén 28 ngày của các loại BTC. Như chúng ta đã biết, cường độ chịu nén là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sức kháng mài mòn của bê tông và sức kháng mài mòn của bê tông được chứng minh là có mối quan hệ tỷ lệ thuận với cường độ chịu nén của bê tông [8, 25]. Như vậy, xu hướng độ mài mòn trong nước của BTC biến đổi ngược chiều với cường độ chịu nén cho thấy sự phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới và đảm bảo độ tin cậy của dữ liệu. Rõ ràng, XLC khi thay thế một phần xi măng trong BTC giúp tăng độ đặc chắc, cải thiện cường độ chịu nén từ đó ảnh hưởng đến việc tăng sức kháng mài mòn của BTC. So với BTTĐC, độ mài mòn trong nước của các loại BTC đều cho kết quả thấp hơn. Quan sát bề mặt mài mòn của các loại bê tông thể hiện ở Hình 6 cho thấy BTT có bề mặt lồi lõm trong khi bề mặt mài mòn của các loại BTC có xu hướng phẳng và đều hơn. Rõ ràng, bề mặt đều của các loại BTC sẽ có khả năng chống mài mòn tốt hơn so với bề mặt lồi lõm của BTTĐC, điều này góp phần giải thích cho kết quả độ mài mòn thấp hơn của các loại BTC so với BTTĐC. Như đã biết, ngoài yếu tố cường độ thì tính chất bề mặt và cấu trúc đá xi măng cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến độ mài mòn của bê tông. BTC với kích thước hạt cốt liệu nhỏ dẫn đến tỷ diện cốt liệu lớn hơn nhiều so với BTT. Với lượng CKD đủ lớn, tỷ diện tích tiếp xúc giữa CKD và cốt liệu trong BTC lớn hơn so với BTT, do đó lực dính kết sẽ lớn hơn, khả năng giữ hạt cốt liệu chống lại sự bong tróc do tác động kết hợp giữa lực mài mòn do bi sắt và dòng chảy của nước cũng sẽ tốt hơn so với BTT. Ngoài ra, các loại BTC trong nghiên cứu sử dụng loại cát đụn mịn với thành phần khoáng chính là SiO2, có độ cứng lớn hơn so với đá dăm, số lượng hạt cát nhiều hơn, phân bố đều trong cấu trúc BTC, độ cứng và lượng lớn cát này đóng vai trò quan trọng trong việc giảm độ mài mòn của BTC so với bê tông thường. Như vậy, về mặt tổng thể BTC sẽ có độ chống mài mòn trong nước tốt hơn so với BTT khi cùng cấp cường độ. Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, Tập 71, Số 05 (06/2020), 568-582 579 3.6. Đánh giá khả năng đáp ứng yêu cầu của các loại bê tông cát xỉ lò cao trong công trình biển Đối với các công trình biển, các kết cấu bê tông, bê tông cốt thép khi làm việc ở vùng thủy triều được xem là nguy hiểm nhất so với các vùng còn lại do tác động của cơ học và xâm thực hóa học vào bê tông trong vùng này là lớn nhất. Tính chất các loại BTC trong nghiên cứu và các yêu cầu tối thiểu đối với bê tông làm việc ở vùng thủy triều theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 12041:2017[34] và tiêu chuẩn Canada CSA A23.1: 2004 [35] được trình bày ở Bảng 4. Cường độ chịu nén của BTC trong nghiên cứu sử dụng mẫu trụ kích thước 100x200 mm được quy đổi sang mẫu lập phương 150x150x150 mm với hệ số 1,16 được quy định trong TCVN 3118:1993. Bảng 4. Tính chất của các loại BTC và yêu cầu đối với vật liệu bê tông làm việc ở vùng thủy triều. Loại bê tông Rn (MPa) mẫu trụ 100x200 mm Rn(MPa) quy đổi về mẫu 150x150x150 mm Thấm ion clo theo ASTM C1202 Tỷ lệ N/CKD BTTĐC 56,9 66 2069 0,313 BTCĐC 54,6 63,3 1510 0,3 BTCX10 55,5 64,4 902 0,3 BTCX20 56 65 410 0,3 BTCX30 52,1 60,4 305 0,3 BTCX40 42 48,7 555 0,3 Yêu cầu đối với BT vùng thủy triều TCVN 12041: 2017 [34] - B45 (60 MPa) N/CKD < 0,4 Tiêu chuẩn Canada CSA A23.1: 2004 [35] - 50 MPa ở 56 ngày Thấm ion clo theo ASTM C1202<1000 Culong N/CKD < 0,37 Đối chiếu các tính chất của BTC trong nghiên cứu với các yêu cầu tối thiểu của bê tông cho công trình biển làm việc ở vùng thủy triều ta nhận thấy như sau: - BTTĐC và BTCĐC với cường độ chịu nén đạt 66 MPa, 63 MPa thõa mãn các yêu cầu về cường độ theo TCVN 12041:2017 tuy nhiên giá trị thấm ion Clo tương ứng là 2069 culong và 1510 Culong lại không thõa mãn tiêu chuẩn CSA A23.1: 2004 (<1000 culong). - Các loại BTCX10, BTCX20, BTCX30 đều thõa mãn các điều kiện đặt ra đối với yêu cầu về cường độ chịu nén, độ thấm clorua và tỷ lệ N/CKD với bê tông làm việc ở vùng thủy triều lên xuống. - Bê tông cát với tỷ lệ xỉ lò cao thay thế đến 40% có kết quả cường độ chịu nén 28 ngày đạt chỉ 48,7 MPa không thõa mãn yêu cầu cường độ của bê tông làm việc ở vùng thủy triều. Kết quả nghiên cứu độ bền sunfat cho thấy thành phần CKD của các loại BTCXLC (BTCX10, BTCX20, BTCX30, BTCX40) có tác dụng tương đương như xi măng bền sunfat mức cao được quy định theo ASTM C1157. Độ mài mòn trong nước là tính chất khá quan trọng đối với bê tông ứng dụng cho công trình biển đặc biệt đối với kết cấu làm việc ở vùng sóng đánh và vùng có sự kết hợp của sóng Transport and Communications Science Journal, Vol 71, Issue 05 (06/2020), 568-582 580 và cát. Rõ ràng việc sử dụng BTC có ưu điểm lớn trong việc cải thiện độ mài mòn trong nước so với BTTĐC. Với các phân tích trên cho thấy các loại bê tông cát BTCX10, BTCX20, BTCX30 hoàn toàn thõa mãn yêu cầu để ứng dụng làm kết cấu bê tông, bê tông cốt thép trong công trình biển. 4. KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các tính chất cơ học và độ bền của BTC xỉ lò cao và đánh giá khả năng ứng dụng trong công trình biển, có thể rút ra một số kết luận như sau: Với tỷ lệ thay thế XLC từ 10-40%, ở mỗi tuổi của bê tông cát có một tỷ lệ xỉ lò cao tương ứng để tối ưu cường độ chịu nén. Tỷ lệ xỉ lò cao thay thế càng lớn sẽ tối ưu cường độ chịu nén ở tuổi càng muộn. Tỷ lệ XLC thay thế 10% tối ưu cường độ chịu nén của BTC ở 7 ngày tuổi, XLC thay thế 20% tối ưu ở 28 ngày và 56 ngày tuổi. Với tỷ lệ thay thế XLC từ 10-40%, cường độ ép chẻ của bê tông cát ở 28 ngày đạt giá trị lớn nhất với tỷ lệ thay thế từ 10-20% và có xu hướng giảm với tỷ lệ thay thế XLC lớn hơn 20% Các loại bê tông cát có sử dụng xỉ lò cao đều cho kết quả thấm ion clo ở 28 ngày thấp hơn so với bê tông cát không sử dụng xỉ lò cao. Với tỷ lệ thay thế XLC từ 10-40% cho kết quả thấm clorua thấp nhất với 30% XLC. Các loại BTC sử dụng XLC đều có độ giãn nỡ sunfat < 0,05% sau 6 tháng ngâm trong dung dịch Na2SO4 10%. Thành phần CKD của BTCXLC có tác dụng tương đương như xi măng bền sunfat mức cao. Tỷ lệ thay thế XLC càng tăng, độ giãn nỡ sunfat sau 6 tháng của BTC càng giảm. Với việc đáp ứng được yêu cầu về cường độ cũng như tính chất độ bền của bê tông cho công trình biển theo tiêu chuẩn hiện hành, BTCX10, BTCX20, BTCX30 có thể được ứng dụng trong thi công thực tế các kết cấu bê tông, bê tông cốt thép trong môi trường biển ở điều kiện Việt Nam. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được tài trợ bởi đề tài “Nghiên cứu sản xuất các cấu kiện bê tông hạt nhỏ đúc sẵn có độ bền cao từ nguyên liệu tro bay Vũng Áng và cát mịn trên địa bàn Hà Tĩnh” của tỉnh Hà Tĩnh. Nhóm nghiên cứu gửi lời cảm ơn tới công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Vận tải Viết Hải hỗ trợ sản xuất và ứng dụng cấu kiện bê tông hạt nhỏ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. NF P18 500, Bétons de sables, 1995: French. [2]. Sablocrete, Synthèse du Projet National de Recherche et Développement, Bétons de sable, caractéristiques et pratiques d’utilisation, Presses de l’école Nationale des Ponts et Chaussées LCPC, 1994 [3]. T. S. Nguyễn, Nghiên cứu thành phần, tính chất cơ học và khả năng ứng dụng bê tông cát để xây dựng đường ô tô ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kỹ thuật, Đại học Giao Thông Vận Tải, 2011. [4]. Nguyễn Thanh Sang, Lê Thanh Hà, Bê tông cát sử dụng phụ gia tro trấu cho các vùng thiếu đá dăm, Tạp Chí Giao thông vận tải, 8(2010) 33-36. Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, Tập 71, Số 05 (06/2020), 568-582 581 [5]. D. Benamara, L. Zeghichi, B. Mezghiche, High Performance sand concrete, formulation, physico- machanical properties and durability, Benamara Project, 2015. [6]. Nguyễn Thanh Sang, Trần Lê Thắng, Nguyễn Quang Ngọc, Bê tông cát nhiều tro bay làm lớp móng mặt đường ô tô, Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, 30(2010) 84-90. [7]. J. Chaohua., G. Wenwen, C. Hui, Z. Yuliang, J. Chen, Effect of filler type and content on mechanical properties and microstructure of sand concrete made with superfine waste sand, Construction and Building Materials, 192(2018) 442-449. [8]. A. M. Neville, Properties of concrete, Fifth Edition, Pearson, England, 2012. [9]. E. Özbay, M. Erdemir, H. İ. Durmuş, Utilization and efficiency of ground granulated blast furnace slag on concrete properties–A review, Construction and Building Materials, 105(2016) 423- 434. [10]. Y. Yang, B. Zhan, J. Wang, Y. Zhang, W. Duan, Damage evolution of cement mortar with high volume slag exposed to sulfate attack, Construction and Building Materials, 247(2020) 118626. [11]. X. Hu, Z. Shi, C. Shi, Z. Wu, B. Tong, Z. Ou, G. De Schutter, Drying shrinkage and cracking resistance of concrete made with ternary cementitious components, Construction and Building Materials, 149(2017) 406-415. [12]. C.M. Tibbetts, C.C. Ferraro, K.A. Riding, T.G. Townsend, Relating water permeability to electrical resistivity and chloride penetrability of concrete containing different supplementary cementitious materials, Cement and Concrete Composites, 107(2020) 103491. [13]. M. Gesoğlu, E. Güneyisi, E. Özbay, Properties of self-compacting concretes made with binary, ternary, and quaternary cementitious blends of fly ash, blast furnace slag, and silica fume, Construction and Building Materials, 23(2009) 1847-1854. [14]. ACI 211.4R 08, Guide for Selecting Proportions for High-Strength Concrete Using Portland Cement and Other Cementitious Materials, in American Concrete Institute, 2008. [15]. TCVN 9337:2012, Bê tông nặng- Phương pháp xác định độ thấm ion clo bằng phương pháp đo điện lượng, 2012. [16]. TCVN 3118:1993, Bê tông nặng - Phương pháp xác định cường độ chịu nén, 1993. [17]. TCVN 3120:1993, Bê tông nặng - Phương pháp xác định cường độ kéo bữa, 1993. [18]. ASTM C1138, Standard Test Method for Abrasion Resistance of Concrete(Underwater Method), 2019. [19]. ASTM C1012, Standard Test Method for Length Change of Hydraulic-Cement Mortars Exposed to a Sulfate Solution, 2012. [20]. R. Siddique, M. I. Khan, Supplementary cementing materials,Springer Science & Business Media, Berlin, 2011. [21]. A. Gholampour, T. Ozbakkaloglu, Performance of sustainable concretes containing very high volume Class-F fly ash and ground granulated blast furnace slag, Journal of Cleaner Production, 162(2017) 1407-1417. [22]. H. Yazıcı, M.Y. Yardımcı, S. Aydın, A.S. Karabulut, Mechanical properties of reactive powder concrete containing mineral admixtures under different curing regimes, Construction and Building Materials, 23(2009) 1223-1231. [23]. W. Wongkeo, A. Ngamjarurojana, A. Chaipanich, Compressive strength and chloride resistance of self-compacting concrete containing high level fly ash and silica fume, Materials & Design, 64(2014) 261-269. [24]. J. Li, Y. Yao, A study on creep and drying shrinkage of high performance concrete, Cement and Concrete Research, 31(2001) 1203-1206. [25]. J.M. Khatib, J. J. Hibbert, Selected engineering properties of concrete incorporating slag and metakaolin, Construction and Building Materials, 19(2005) 460-472. Transport and Communications Science Journal, Vol 71, Issue 05 (06/2020), 568-582 582 [26]. S. Mengxiao,W. Qiang, Z. Zhikai, Comparison of the properties between high-volume fly ash concrete and high-volume steel slag concrete under temperature matching curing condition, Construction and Building Materials, 98(2015) 649-655. [27]. Y. Xu, The influence of sulphates on chloride binding and pore solution chemistry, Cement and Concrete Research, 27(1997) 1841-1850. [28]. R. Luo, Cai, Yuebo, C.Wang, X. Huang, Study of chloride binding and diffusion in GGBS concrete, Cement and Concrete Research, 33(2003) 1-7. [29]. D.H. Phạm, T.T. Trần, K.C. Thái, V.Đ. Đào, T.S. Nguyễn, Thiết kế kết cấu theo độ bền,Nhà Xuất Bản Giao Thông Vận Tải, 2016. [30]. R. Gollop, H. Taylor, Microstructural and microanalytical studies of sulfate attack. IV. Reactions of a slag cement paste with sodium and magnesium sulfate solutions, Cement and Concrete Research, 26(1996) 1013-1028. [31]. L.H. Yu, S. X. Zhou, H. Ou, Experimental Investigation on Properties of High Performance Concrete with Mineral Admixtures in Pavement of Highway, in Advanced Materials Research, 2013, Trans Tech Publ. [32]. V. M. Malhotra, P. K. Mehta, High-performance, High-volume Flyash Concrete for Building Sustainable and Durable Structures,Suppementary Cementing Materials for Sustainable Development, Incorporated, 2008. [33]. ASTM C1157, Standard Performance Specification for Hydraulic Cement, 2017. [34]. TCVN 12041:2017, Kết cấu bê tông và bê tông cốt thép - Yêu cầu chung về thiết kế độ bền lâu và tuổi thọ trong môi trường xâm thực, 2017. [35]. CSA-A23.1/A23.2, Concrete materials and methods of concrete construction, 2014.
File đính kèm:
- tinh_chat_co_hoc_va_do_ben_cua_be_tong_cat_xi_lo_cao_va_kha.pdf