Tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa xã hội có ba đặc trưng phổ biến. Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội phải có lực lượng

sản xuất hiện đại. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội phải có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Thứ ba,

chủ nghĩa xã hội phải có sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân hiện đại. Khi xây dựng chủ

nghĩa xã hội, mỗi nước cần đặc thù hóa các đặc trưng phổ biến đó của chủ nghĩa xã hội cho phù

hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của nước mình. Sự thành công và không thành công của các nước

xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mấy thập kỷ gần đây có nguyên nhân ở sự việc đặc thù hóa thành

công hoặc không thành công các đặc trưng phổ biến của chủ nghĩa xã hội.

pdf 8 trang dienloan 8960
Bạn đang xem tài liệu "Tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội

Tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội
17 
Tính phổ biến và tính đặc thù 
của chủ nghĩa xã hội 
Trần Thành1 
1 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
Email: thanhvientriet@gmail.com 
Nhận ngày 10 tháng 9 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 10 năm 2017. 
Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội có ba đặc trưng phổ biến. Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội phải có lực lượng 
sản xuất hiện đại. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội phải có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Thứ ba, 
chủ nghĩa xã hội phải có sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân hiện đại. Khi xây dựng chủ 
nghĩa xã hội, mỗi nước cần đặc thù hóa các đặc trưng phổ biến đó của chủ nghĩa xã hội cho phù 
hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của nước mình. Sự thành công và không thành công của các nước 
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mấy thập kỷ gần đây có nguyên nhân ở sự việc đặc thù hóa thành 
công hoặc không thành công các đặc trưng phổ biến của chủ nghĩa xã hội. 
Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội, tính phổ biến, tính đặc thù. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: Socialism has three characteristics which are of universality. First, it shall have a modern 
production force. Second, under socialism, there shall be public ownership of the means of 
production. Third, socialism shall be with the political dominance of the modern working class. 
When building socialism, each country needs to conduct the work of making the three common 
characteristics suit its own particular conditions. The successes and failures of countries building 
socialism in recent decades have been partly attributed to whether the work was successful or not. 
Keywords: Socialism, universality, particularity. 
Subject classification: Philosophy 
1. Mở đầu 
Chủ nghĩa xã hội bao hàm cái phổ biến và 
cái đặc thù. Những nguyên lý phổ biến 
(những đặc trưng phổ biến) của chủ nghĩa 
xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng trong 
việc định hướng xây dựng xã hội tương lai. 
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội 
thì cần phải nhận thức đúng những đặc 
trưng phổ biến đồng thời phải đặc thù hóa 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
18 
các đặc trưng phổ biến cho phù hợp với 
điều kiện lịch sử - cụ thể của từng nước. 
Những khiểm khuyết dẫn đến sự sụp đổ hệ 
thống xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ 
trước đây và những thành công trong cải 
cách, đổi mới ở một số nước xã hội chủ 
nghĩa hiện nay đã chứng tỏ điều đó. Bài viết 
này phân tích những đặc trưng phổ biến của 
chủ nghĩa xã hội và sự cần thiết phải đặc 
thù hóa những đặc trưng phổ biến đó. 
2. Tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội 
Thuật ngữ chủ nghĩa xã hội cho đến nay có 
thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. 
Chủ nghĩa xã hội có thể được hiểu như là 
một lý tưởng, một khát vọng của nhân loại, 
một học thuyết, một lý luận, một phong 
trào, một chế độ hiện thực. Chủ nghĩa xã 
hội mà chúng tôi đề cập ở đây là một học 
thuyết do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập, 
được V.I.Lênin phát triển. Vậy những đặc 
trưng phổ biến của chủ nghĩa xã hội là gì? 
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: chủ 
nghĩa xã hội hay xã hội tương lai “không 
phải là một trạng thái cần sáng tạo ra, 
không phải là một lý tưởng mà hiện thực 
phải khuôn theo” [7, t.3, tr.51], mà “là một 
phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái 
hiện nay. Những điều kiện của phong trào 
ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ 
ra” [7, t.3, tr.51]. C.Mác và Ph. Ăngghen 
luôn nhấn mạnh rằng, việc xác định những 
đặc trưng cụ thể của xã hội tương lai không 
phải là nhiệm vụ của hai ông. Hai ông 
không muốn áp đặt những dự báo của mình 
về xã hội tương lai cho người khác. Khi trả 
lời phỏng vấn của phóng viên báo Pháp Lê 
Figaro về những đặc trưng của xã hội 
tương lai và về mục đích cuối cùng của giai 
cấp cách mạng (Ngày 11.5.1893), 
Ph.Ăngghen khẳng định: “Chúng tôi không 
có mục đích cuối cùng. Chúng tôi chủ 
trương phát triển thường xuyên, không 
ngừng, và chúng tôi không có ý định áp đặt 
cho loài người những quy luật dứt khoát 
nào đó. Những ý kiến có sẵn trước về các 
chi tiết tổ chức xã hội tương lai ư? Ông sẽ 
không tìm thấy chúng tôi nói lời nào về 
chúng” [7, t.22, tr.801]. Tuy nhiên, nói như 
thế không có nghĩa là cho rằng C.Mác và 
Ph. Ăngghen không chỉ ra những đặc trưng 
phổ biến của xã hội tương lai. Những đặc 
trưng đó, như V.I.Lê nin đã chỉ ra, “không 
phải là những dự đoán vu vơ”, hoặc là kết 
quả của những “suy luận tư biện chủ quan”, 
mà là dự đoán có căn cứ. Nói đến những 
căn cứ để đề xuất những dự báo đó, V.I 
Lênin chỉ ra rằng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã 
“xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản 
hình thành từ chủ nghĩa tư bản, phát triển 
lên, trong quá trình lịch sử, từ chủ nghĩa tư 
bản, là kết quả của sự tác động của một lực 
lượng xã hội do chủ nghĩa tư bản sinh ra” 
[6, t.33, tr.104]. Theo C.Mác và 
Ph.Ăngghen, một số đặc trưng phổ biến của 
xã hội tương lai (chủ nghĩa xã hội) như sau. 
Thứ nhất, cốt vật chất của chủ nghĩa xã 
hội là lực lượng sản xuất hiện đại. Theo 
học thuyết của C.Mác, xã hội tương lai 
được hình thành từ những tiền đề được 
chính chủ nghĩa tư bản tạo ra, trong đó lực 
lượng sản xuất hiện đại là “tiền đề thực tiễn 
tuyệt đối cần thiết” [7, t.3, tr.49], là cái cốt 
vật chất làm “nền móng”. Lực lượng sản 
xuất hiện đại là “tiền đề thực tiễn tuyệt đối 
cần thiết vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là 
sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến; mà với 
sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại 
một cuộc đấu tranh để giành những cái cần 
thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi 
Trần Thành 
19 
rơi vào cũng sự ti tiện trước đây” [7, t.3, 
tr.49]; “sự phát triển ấy của những lực 
lượng sản xuất”, “sự tồn tại có tính chất 
lịch sử thế giới” ấy là điều kiện để khắc 
phục sự tha hóa con người, thực hiện mục 
đích cao nhất của lịch sử là sự phát triển tự 
do và toàn diện của con người. 
Thứ hai, thủ tiêu chế độ tư hữu, thiết lập 
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Phân 
tích mổ xẻ nền kinh tế của xã hội tư bản 
thời bấy giờ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ 
ra rằng: “Những lực lượng sản xuất mà xã 
hội sẵn có, không thúc đẩy quan hệ sở hữu 
tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng đã trở 
thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, 
cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự 
phát triển của chúng; và mỗi khi những lực 
lượng sản xuất xã hội khắc phục được sự 
cản trở ấy thì chúng lại xô toàn thể xã hội tư 
sản vào tình trạng rối loạn và đe doạ sự 
sống còn của sở hữu tư sản” [7, t.4, tr. 604]. 
Sự phát triển của công nghiệp lớn không 
ngừng làm mất đi cái cơ sở mà chế độ sở 
hữu tư sản dựa vào đó để tồn tại. Để “giải 
phóng sức sản xuất”, “tăng thật nhanh số 
lượng những lực lượng sản xuất” làm cơ sở 
vật chất cho chủ nghĩa cộng sản, dĩ nhiên 
phải giải phóng mọi xiềng xích đang kìm 
hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất 
trong chế độ hiện thời; tức là phải xoá bỏ 
chế độ sở hữu tư sản. Về điều này C.Mác 
và Ph.Ăngghen viết: chế độ tư hữu hiện 
thời, chế độ sở hữu tư sản, lại là biểu hiện 
cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức 
sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những 
đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người 
này bóc lột những người kia; những người 
cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình 
thành luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ 
chế độ tư hữu [7, t.4, tr. 616]. Thay cho chế 
độ tư hữu là chế độ sở hữu xã hội, sở hữu 
công cộng, sở hữu chung, chế độ công hữu 
(các thuật ngữ này đều được C.Mác sử 
dụng); điều đó nhằm giải phóng sức sản 
xuất, phát triển lực lượng sản xuất, “tăng 
thật nhanh số lượng những lực lượng sản 
xuất” [7, t.4, tr. 626]. Chỉ trên cơ sở chế độ 
công hữu về tư liệu sản xuất mới có điều 
kiện thực hiện được sự phân phối một cách 
công bằng, phân phối theo lao động, xóa bỏ 
chế độ người bóc lột người. Xóa bỏ chế độ 
tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu 
sản xuất không phải là mục đích của chủ 
nghĩa xã hội, nhưng là điều kiện cơ bản để 
thực hiện mục đích của chủ nghĩa xã hội; 
mục đích đó là phát triển không ngừng nền 
kinh tế hiện đại, xóa bỏ chế độ người bóc 
lột người và sự đối kháng giai cấp trong xã 
hội, sự phát triển tự do và toàn diện của con 
người. Tuy nhiên, xóa bỏ chế độ tư hữu là 
một quá trình. Lưu ý về điều đó 
Ph.Ăngghen viết: “Liệu có thể thủ tiêu chế 
độ tư hữu ngay lập tức được không? Trả 
lời: không, không thể được, cũng y như 
không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện 
có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết 
để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho 
nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản 
đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ 
ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một 
cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên 
được một khối lượng tư liệu sản xuất cần 
thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ 
tiêu được chế độ tư hữu” [7, t.4, tr.469]. 
Thứ ba, thiết lập sự thống trị chính trị 
của giai cấp công nhân hiện đại. Sự phát 
triển của công nghiệp lớn không ngừng làm 
mất đi cái cơ sở mà chế độ sở hữu tư sản 
dựa vào đó để tồn tại, làm cho sự tồn tại của 
giai cấp tư sản không còn tương dung với 
sự tồn tại của xã hội nữa. Giai cấp tư sản 
không có khả năng tiếp tục làm tròn vai trò 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
20 
giai cấp thống trị của mình. Giai cấp tư sản 
từ chỗ là giai cấp cách mạng trở thành giai 
cấp phản động, cản trở sự phát triển của lực 
lượng sản xuất. Chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ 
tất yếu lại bị thay thế bằng một chế độ xã 
hội cao hơn, phù hợp với sự phát triển của 
lực lượng sản xuất. “Những vũ khí mà giai 
cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ 
phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào 
chính ngay giai cấp tư sản” [7, t.4, tr.605]. 
Người sử dụng vũ khí đó chính là giai cấp 
vô sản (giai cấp công nhân hiện đại). Khẳng 
định điều đó C.Mác và Ph.Ăngghen viết: 
“Giai cấp tư sản không những đã rèn những 
vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những 
người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là 
những công nhân hiện đại, những người vô 
sản” [7, t.4, tr.605]. C.Mác và Ph.Ăng ghen 
đã chỉ ra rằng giai cấp vô sản sẽ trở thành 
giai cấp thống trị không phải chỉ là vì đó là 
giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, mà 
là vì đó là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng 
nhất, đại biểu cho sự phát triển lực lượng 
sản xuất hiện đại. Tổng kết kinh nghiệm 
lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai 
cấp vô sản và xét địa vị kinh tế của giai cấp 
đó trong nền sản xuất hiện đại, C.Mác đã 
kết luận rằng: để đi tới một xã hội không 
còn giai cấp, giai cấp vô sản phải trở thành 
giai cấp thống trị và nắm lấy quyền lực nhà 
nước để thực hiện sự thống trị chính trị của 
mình. Khẳng định điều đó, C.Mác viết: 
“Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội 
cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến 
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. 
Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ 
quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy 
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên 
chính cách mạng của giai cấp vô sản” [7, 
t.19, tr.47]. 
Ba đặc trưng cơ bản mà C.Mác và 
Ph.Ăngghen vạch ra trên là những đặc 
trưng chung nhất, phổ biến biến nhất của 
chủ nghĩa xã hội. Trong đó, lực lượng sản 
xuất hiện đại là nền móng của chủ nghĩa xã 
hội, là tiền đề xây dựng xã hội xã hội chủ 
nghĩa; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất 
và sự thống trị chính trị của giai cấp công 
nhân hiện đại là điều kiện, là cơ sở kinh tế - 
chính trị để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã 
hội mới, xã hội không có giai cấp, không có 
bóc lột, phát triển toàn diện con người. Ba 
đặc trưng đó tác động biện chứng với nhau. 
Chưa có được lực lượng sản xuất hiện đại 
làm nền móng thì chế độ công hữu về tư 
liệu sản xuất, sự thống trị chính trị của giai 
cấp công nhân hiện đại chưa có cơ sở kinh 
tế vững chắc. Có lực lượng sản xuất hiện 
đại mà không thiết lập chế độ công hữu và 
sự thống trị của giai cấp công nhân hiện đại 
thì cũng chỉ luẩn quẫn trong quỹ đạo của 
chủ nghĩa tư bản. Nói về những đặc trưng 
phổ biến mô hình xã hội tương lai mà mình 
đã đề xuất trên đây, C.Mác và Ph.Ăngghen 
viết: “Những quan điểm lý luận của những 
người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên 
những ý niệm, những nguyên lý do một nhà 
cải cách thế giới nào phát minh hay phát 
hiện ra, những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện 
khái quát những quan hệ thực tại của một 
cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự 
vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt 
chúng ta” [7, t.3, tr. 615]. 
3. Tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội 
Chủ nghĩa xã hội không ngừng được làm 
phong phú bởi phong trào thực tiễn. Khi 
xây dựng chủ nghĩa xã hội, mỗi nước cần 
đặc thù hóa những đặc trưng phổ biến của 
chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với điều kiện 
Trần Thành 
21 
cụ thể của nước mình. Nói về sự cần thiết 
đặc thù hóa những đặc trưng phổ biến trong 
việc biến chủ nghĩa xã hội khoa học thành 
chủ nghĩa xã hội hiện thực V.I.Lênin đã chỉ 
ra rằng: “Không phải chỉ là cái phổ biến 
trừu tượng, mà là cái phổ biến bao hàm cả 
sự phong phú của cái đặc thù, cái cá thể, cái 
cá biệt (tất cả sự phong phú của cái đặc thù 
và cái cá biệt!)” [6, t.29, tr.108]; “Tất cả các 
dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là 
điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân 
tộc đều tiến lên chủ nghĩa xã hội không 
phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi 
dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình 
thức này hay hình thức khác của chế độ dân 
chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên 
chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ 
khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối 
với các mặt khác nhau của đời sống xã hội” 
[6, t.30, tr.160], “những người xã hội chủ 
nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát 
triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận 
này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo 
chung, còn việc áp dụng những nguyên lý 
ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không 
giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở 
Đức không giống ở Nga” [6, t.4, tr.232]. 
Ở thời đại mình V.I.Lênin đã lãnh đạo 
cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa 
đầu tiên trên thế giới và khai sinh ra chủ 
nghĩa xã hội hiện thực, mở ra một thời đại 
mới trong lịch sử nhân loại, thời đại quá độ 
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. 
Trong thời kỳ lãnh đạo cách mạng xây 
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, 
V.I.Lênin đã tiến hành những thử nghiệm 
đáng quý về lý luận và thực tiễn nhằm tìm 
kiếm mô hình, con đường xây dựng chủ 
nghĩa xã hội phù hợp với tình hình thực tế 
của một nước kinh tế, văn hóa còn lạc hậu. 
Chính sách cộng sản thời chiến trong mấy 
năm đầu (1918-1920) trong xây dựng chủ 
nghĩa xã hội ở Nga có tính hợp lý, nhưng 
chính sách đó cũng thiếu sự đặc thù hóa cái 
phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể 
của nước Nga lúc bấy giờ. Sau này khi 
chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP) 
vào năm 1921, V.I .Lênin đã tự chỉ trích sai 
lầm trong nhận thức lý luận hồi đó. Đó là 
sử dụng mô hình “quá độ trực tiếp” theo 
con đường thẳng tiến đến chủ nghĩa cộng 
sản. Quyết sách chính trị này dựa trên nhiệt 
tình cách mạng và ý chí chủ quan muốn 
nhanh chóng thực hiện chủ nghĩa cộng sản 
nhưng lại thoát ly điều kiện thực tế và hoàn 
cảnh lịch sử, đó là tình trạng lạc hậu về 
kinh tế, văn hóa. Xét về mặt nào đó, như 
V.I.Lênin nói, chính sách kinh tế mới là một 
bước lùi, nhưng đó là bước lùi cần thiết, tạm 
thời để sau đó tiến những bước vững vàng, 
mạnh mẽ hơn. Tuy đó là bước lùi, nhưng 
thực chất đó là sự vận dụng một cách đúng 
đắn hơn những đặc trưng phổ biến vào điều 
kiện lịch sử - cụ thể của một nước có xuất 
phát điểm thấp đi lên chủ nghĩa xã hội. NEP 
thực sự là một bước ngoặt trong lịch sử sinh 
thành chủ nghĩa xã hội hiện thực. Cái chết 
của Lênin 1924 đã làm gián đoạn sự vận 
động của NEP. 
Dưới sự lãnh đạo của Xtalin, vào những 
năm 30 của thế kỷ XX, Liên xô đã thiết lập 
mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa đầu tiên 
trên thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ II, 
một loạt nước xã hội chủ nghĩa ra đời; chủ 
nghĩa xã hội chuyển từ một nước sang hệ 
thống trên thế giới. Có thể nói, trong 70 
năm chủ nghĩa xã hội hiện thực đã có 
những thành tựu vô cùng to lớn, không thể 
phủ nhận. Nhưng tổn thất của kết cục đó 
cũng không nhỏ. Chủ nghĩa xã hội rơi vào 
tình trạng trì trệ kéo dài dẫn đến khủng 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
22 
hoảng cả hệ thống và sự sụp đỗ trên một 
mảng lớn. Chủ nghĩa xã hội rơi vào tình 
trạng thoái trào. Một trong những nguyên 
nhân dẫn đến tình trạng trì trệ, khủng hoảng 
và sụp đổ trên một mảng lớn của chủ nghĩa 
xã hội hiện thực là quan niệm giản đơn, 
cứng nhắc, giáo điều về những đặc trưng 
phổ biến của chủ nghĩa xã hội; là sự vận 
dụng những đặc trưng phổ biến của chủ 
nghĩa xã hội vào thực tiễn mà không tính 
đến điều kiện lịch sử - cụ thể, hoặc là “sáng 
tạo” một cách tư biện chủ quan dựa trên ý 
chí bất chấp quy luật. Những khuyết tật, 
hạn chế của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên 
xô bắt nguồn từ những lệch lạc đó. 
Mô hình đó lại được coi là mô hình duy 
nhất của chủ nghĩa xã hội và bị áp đặt một 
cách phổ biến cho các nước đi lên chủ nghĩa 
xã hội. Cũng từ đây, một tình huống có vấn 
đề mới lại xuất hiện trong đời sống chủ 
nghĩa xã hội hiện thực. Đó là đồng nhất chủ 
nghĩa xã hội với mô hình Xô viết. Mục tiêu 
chủ nghĩa xã hội được xây dựng thành một mô 
hình cứng nhắc, rồi theo khuôn mẫu đó đối 
chiếu với hiện thực để quyết định những gì cần 
phá bỏ, hoặc tạo dựng thêm. Những giải pháp 
ấy còn được đề lên thành nguyên tắc, thành 
quy luật. Lúc này bệnh giáo điều, chủ quan 
và không tưởng là căn bệnh mà không ít 
đảng cầm quyền mắc phải nhưng chậm phát 
hiện, sửa chữa, khắc phục. Thiếu sự đặc thù 
hóa đặc trưng phổ biên của chủ nghĩa xã 
hội, đồng nhất chủ nghĩa xã hội với một mô 
hình cụ thể là căn nguyên dẫn đến khủng 
hoảng và sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội trên 
một mảng lớn. 
4. Kết luận 
Từ những bài học thành công và không 
thành công của 70 năm trước đây và những 
kinh nghiệm thành công trong cải cách, đổi 
mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong 
mấy thập kỷ gần đây, có thể rút ra mấy bài 
học kinh nghiệm cho tiến tình xây dựng chủ 
nghĩa xã hội thế kỷ XXI sau đây. Thứ nhất, 
không nên áp dụng cứng nhắc các đặc trưng 
phổ biến của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, trên 
thực tế, không có một mô hình chủ nghĩa xã 
hội chung cho tất cả các nước. Mô hình của 
chủ nghĩa xã hội dĩ nhiên bao hàm trong đó 
cái phổ biến. Nhưng bất cứ cái chung nào 
cũng là một bộ phận, một khía cạnh, hay 
một bản chất của cái riêng; bất cứ cái chung 
nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất 
cả mọi vật riêng lẻ; bất cứ cái riêng nào 
cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung 
[6, t.29, tr.381]. Việc “sáng tạo” ra một mô 
hình chủ nghĩa xã hội rồi áp đặt mô hình đó 
cho các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội 
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiểm 
khuyết. Thứ hai, cần đổi mới tư duy lý luận 
về chủ nghĩa xã hội. Việc kiên định chủ 
nghĩa Mác-Lênin, kiên trì mục tiêu chủ 
nghĩa xã hội là cần thiết; nhưng điều đó 
phải trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận về 
chủ nghĩa xã hội, về mô hình và con đường 
đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cần xem 
xét lý luận về chủ nghĩa xã hội trong tính 
chỉnh thể, tính hệ thống; phải xác định được 
chính xác các đặc trưng phổ biến của chủ 
nghĩa xã hội và các đặc trưng phái sinh 
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Không phân biệt được điều đó (tức là nhập 
cục cái phổ biến với cái phái sinh, luẩn 
quẩn với những vấn đề có tính chất cục bộ, 
tạm thời) sẽ dẫn đến những sai lầm trong 
thực tiễn. Giải phóng tư duy ra khỏi tình 
trạng giáo điều hóa chủ nghĩa Mác-Lênin là 
một nhiệm vụ hết sức khó khăn phức tạp. 
Bởi lẽ trong nhiều thập kỷ qua, quan niệm 
giáo điều về chủ nghĩa xã hội đã từng được 
Trần Thành 
23 
coi là quan niệm chính thống, đã ăn sâu 
trong đầu óc của nhiều cán bộ, đảng viên và 
quần chúng. Quan niệm là trở lực không dễ 
gì thay đổi. Những người phê phán những 
quan niệm lệch lạc đó nhiều khi lại bị quy 
chụp là “hữu khuynh”, “xét lại”, “tự diễn 
biến”. Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa 
xã hội là cuộc đấu tranh tư tưởng phức tạp 
và lâu dài. Trên không ít vấn đề và trong 
không ít trường hợp, ranh giới giữa quan 
niệm mới với quan niệm sai lầm là hết sức 
mỏng manh và đôi khi không thật rõ ràng. 
Để đổi mới có kết quả mô hình chủ nghĩa 
xã hội đòi hỏi phải có một tư duy sáng tạo, 
một tinh thần trách nhiệm cao, một thái độ 
dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật. Thứ ba, 
cần đặc thù hóa các đặc trưng phổ biến về 
cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội cho phù 
hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của từng 
nước. Vấn đề nhạy cảm nhất trong cải cách, 
đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa là vấn 
đề xác định chế độ sở hữu về tư liệu sản 
xuất. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức 
về vấn đề này ngày càng rõ ràng hơn, đúng 
đắn hơn. Cương lĩnh của Đảng (1991) 
khẳng định: chủ nghĩa xã hội phải có “nền 
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản 
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư 
liệu sản xuất chủ yếu” [3, tr.8]. Văn kiện 
Đại hội X cho rằng, chủ nghĩa xã hội phải 
có “nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực 
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất 
phù hợp với trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất” [4, tr.68]. Cách thể hiện 
này tránh được cách hiểu coi nhẹ đối với 
khu vực kinh tế tư nhân, nhưng dễ dẫn đến 
chệch hướng. Đại hội XI đã khắc phục 
những hạn chế trên. Cương lĩnh mới của 
Đảng (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng 
định: chủ nghĩa xã hội phải có “nền kinh tế 
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất 
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bô phù 
hợp” [5, tr.70]. Quan niệm mới đó đã được 
tiếp tục được khẳng định trong Đại hội XII 
của Đảng. Khái niệm “quan hệ sản xuất tiến 
bộ phù hợp” là một khái niệm mới có tính 
sáng tạo cao của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Đó không chỉ là cách diễn đạt với từ ngữ 
mới, mà còn là sự vận dụng một cách sáng 
tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản 
xuất với trình độ phát triển lực lượng sản 
xuất thông qua tổng kết thực tiễn của 25 
năm đổi mới ở Việt Nam. Lực lượng sản 
xuất trong thời kỳ quá độ gián tiếp lên chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể thích ứng 
với nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác 
nhau. Điều đó cho phép lựa chọn những 
quan hệ sản xuất vừa phù hợp vừa tiến bộ 
(có lợi nhất cho sự phát triển theo con 
đường xã hội chủ nghĩa). Khái niệm “quan 
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” là khái niệm 
có tính định hướng chính trị và tính thực 
tiễn cao trong việc xác lập quan hệ sản xuất 
của thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Quan hệ 
sản xuất tiến bộ phù hợp không hoàn toàn 
đồng nhất với quan hệ sản xuất xã hội chủ 
nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa 
(tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân 
và tập thể) là biểu hiện rõ nhất của quan hệ 
sản xuất tiến bộ phù hợp. Quan hệ sản xuất 
tiến bộ phù hợp bao hàm trong đó cả các 
loại hình quan hệ sản xuất dựa trên chế độ 
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tuy 
nhiên, kinh tế tư nhân nếu phát triển một 
cách tự phát thì rất dễ đẩy nền kinh tế rơi 
vào hỗn loạn, mất cân đối, khủng hoảng và 
chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng kinh 
tế tư nhân nếu được quản lý, điều tiết một 
cách đúng đắn thì sẽ là quan hệ sản xuất 
tiến bộ phù hợp. Khái niệm “quan hệ sản 
xuất tiến bộ phù hợp” không chỉ phù hợp 
với điều kiện lịch sử - cụ thể ở Việt Nam, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
24 
mà còn có giá trị tham khảo cho các nước 
với xuất phát điểm thấp đi lên chủ nghĩa xã 
hội trong thế kỷ XXI. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Chí Bảo (1993), Chủ nghĩa xã hội hiện 
thực: Khủng khoảng, đổi mới và xu hướng 
phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Nguyễn Đức Bình (Chủ biên) (2003), Về chủ 
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa 
xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh 
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] V.I.Lênin (1978, 1981), Toàn tập, t.4, t.29, 
t.30, t.33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
[7] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.3, 
t.4, t.19, t.22, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 
Hà Nội. 
[8] Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) (2006), Đổi 
mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề 
lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[9] Chu Thiện Văn, Chu Cẩm Úy, Trần Tích Hỷ 
(1999), Chủ nghĩa xã hội là gì? Xây dựng chủ 
nghĩa xã hội như thế nào (bản chất của chủ 
nghĩa xã hội và con đường phát triển), Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[10] Trần Thành (Chủ biên) (2013), Chủ nghĩa xã 
hội Việt Nam hiện nay - Những quan điểm lý 
luận cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdftinh_pho_bien_va_tinh_dac_thu_cua_chu_nghia_xa_hoi.pdf