Tính tự trị và tự quản của làng công giáo vùng Đồng bằng sông Hồng qua Hương Ước

Tóm tắt: Trong hệ thống làng xã cổ truyền của người Việt vùng

Đồng bằng Sông Hồng có làng Công giáo, một sản phẩm văn hóa

trong quá trình truyền bá Công giáo vào Việt Nam. Với quá trình

du nhập và phát triển tại Việt Nam, trên cơ sở của làng Việt, Công

giáo đã tạo nên văn hóa đặc thù qua sự hình thành làng Công giáo

tồn tại song song với làng Việt cho đến ngày nay. Làng Công giáo

vừa có những tổ chức thiết chế chính trị của làng Việt cổ truyền,

vừa có sự khác biệt mang dấu ấn của những tổ chức thiết chế tôn

giáo. Bài viết đề cập tới quá trình hình thành làng Công giáo vùng

Đồng bằng Sông Hồng và các thiết chế chính trị - tôn giáo của

làng Công giáo thể hiện qua hương ước.

Từ khóa: Làng Công giáo, hương ước làng Công giáo, thiết chế

chính trị - tôn giáo, Đồng bằng Sông Hồng.

pdf 15 trang Bích Ngọc 03/01/2024 720
Bạn đang xem tài liệu "Tính tự trị và tự quản của làng công giáo vùng Đồng bằng sông Hồng qua Hương Ước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính tự trị và tự quản của làng công giáo vùng Đồng bằng sông Hồng qua Hương Ước

Tính tự trị và tự quản của làng công giáo vùng Đồng bằng sông Hồng qua Hương Ước
94 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 – 2014 
NGUYỄN THỊ QUẾ HƯƠNG* 
TÍNH TỰ TRỊ VÀ TỰ QUẢN CỦA LÀNG CÔNG GIÁO 
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG QUA HƯƠNG ƯỚC 
Tóm tắt: Trong hệ thống làng xã cổ truyền của người Việt vùng 
Đồng bằng Sông Hồng có làng Công giáo, một sản phẩm văn hóa 
trong quá trình truyền bá Công giáo vào Việt Nam. Với quá trình 
du nhập và phát triển tại Việt Nam, trên cơ sở của làng Việt, Công 
giáo đã tạo nên văn hóa đặc thù qua sự hình thành làng Công giáo 
tồn tại song song với làng Việt cho đến ngày nay. Làng Công giáo 
vừa có những tổ chức thiết chế chính trị của làng Việt cổ truyền, 
vừa có sự khác biệt mang dấu ấn của những tổ chức thiết chế tôn 
giáo. Bài viết đề cập tới quá trình hình thành làng Công giáo vùng 
Đồng bằng Sông Hồng và các thiết chế chính trị - tôn giáo của 
làng Công giáo thể hiện qua hương ước. 
Từ khóa: Làng Công giáo, hương ước làng Công giáo, thiết chế 
chính trị - tôn giáo, Đồng bằng Sông Hồng. 
1. Khái quát quá trình hình thành làng Công giáo vùng Đồng 
bằng Sông Hồng 
Theo một số nhà nghiên cứu, Công giáo có mặt ở Việt Nam từ năm 
1533 với sự kiện mà sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của 
Quốc sử quán triều Nguyễn chép: “Theo sách dã lục (một loại dã sử), thì 
ngày, tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533), đời vua Lê Trang Tông, 
người Tây Dương tên là Ynêxu lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh, 
huyện Nam Chân và xã Trà Lũ, huyện Giao Thủy ngấm ngầm truyền 
giáo về tả đạo Gia Tô”1. Tuy nhiên, các sử gia Công giáo thường lấy 
mốc năm 1615 với sự xuất hiện của giáo sĩ Dòng Tên Buzomi vào Hội 
An - Quảng Nam làm thời điểm Công giáo chính thức truyền giáo tại 
Việt Nam. Trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ đã khéo léo lồng hệ 
thống tổ chức của Giáo hội Công giáo vào trong tổ chức làng Việt. Đó là 
một thành công của Công giáo trong công cuộc truyền giáo vào Việt 
*
 TS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Nguyễn Thị Quế Hương. Tính tự trị và tự quản 95 
95 
Nam. Về vấn đề này, Nguyễn Hồng nhận xét: “Về tổ chức và phương 
pháp, chúng ta chỉ cần nêu ra tổ chức thày giảng, tổ chức các họ đạo với 
trùm trưởng đàn anh theo tổ chức các làng mạc Việt Nam và sự liên kết, 
điều hòa hoạt động giữa các thừa sai theo cùng một tinh thần và phương 
pháp. Chúng ta muốn nhấn mạnh ở đây tinh thần thích ứng của các ngài 
và nó là một thành công...”2. 
Tìm hiểu lịch sử hình thành làng Công giáo là tìm hiểu sự hình thành 
và phát triển của tổ chức xứ đạo, họ đạo. Theo Nguyễn Hồng Dương, quá 
trình hình thành và phát triển làng Công giáo vùng Đồng bằng Bắc Bộ có 
thể chia làm ba giai đoạn: giai đoạn hình thành làng Công giáo, giai đoạn 
hoàn thiện làng Công giáo và giai đoạn chuyển hướng giáo hội cơ sở 
trong xã hội hiện tại3. 
Như vậy, trong buổi đầu truyền giáo, làng Công giáo chưa hình thành, 
phải đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX mới định hình rõ nét. Đi đôi 
với sự hình thành làng Công giáo là sự xuất hiện hương ước làng Công 
giáo4. Đó là những quy ước về tục lệ, lễ nghi của người Công giáo được 
ghi chép thành văn bản. Theo tư liệu chúng tôi sưu tầm được, bản hương 
ước làng Công giáo xuất hiện sớm nhất vào năm 1850 (Giáo xứ Bác 
Trạch, tỉnh Thái Bình). Đây là thời điểm bắt đầu giai đoạn thứ hai, giai 
đoạn làng Công giáo hoàn thiện và hình thành những đặc trưng cơ bản 
của nó. Lúc này, hương ước làng Công giáo ra đời để điều chỉnh hoạt 
động của người dân trong làng theo một trật tự chung. 
Nội dung hương ước làng Công giáo vùng Đồng bằng Sông Hồng cho 
thấy có hai hình thức hình thành và phát triển làng Công giáo, đó là tách 
giáp và doanh điền. 
- Hình thức tách giáp: Đây là hình thức làng Công giáo hình thành từ 
việc tách các giáp giáo từ làng Việt cổ truyền. Với việc chia tách này, khi 
có điều kiện, giáp giáo sẽ trở thành một làng/ xứ đạo toàn tòng (Giáo xứ 
Bác Trạch, tỉnh Thái Bình), hoặc tiếp tục là một vài giáp giáo tồn tại cùng 
với làng Việt cổ truyền (làng Chất Thành, tỉnh Ninh Bình; làng La Tinh, 
thành phố Hà Nội). Việc chia tách giáp thực chất là việc phân chia tài sản 
cố định của làng có từ trước, bởi vậy thường xảy ra mâu thuẫn. Cho nên, 
việc lập các tờ giao ước là điều phải làm. Điều này thể hiện rõ nét trong 
các bản hương ước làng Công giáo vùng Đồng bằng Sông Hồng. 
96 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014 
Giáo xứ Bác Trạch, tỉnh Thái Bình trở thành một làng Công giáo toàn 
tòng vào năm 1910. Trước đó, đây là vùng đất của cả dân lương và dân 
giáo. Trong công hàm của Giáo xứ Bác Trạch trình bày về lịch sử hình 
thành làng Bác Trạch cho biết, từ năm 1735, Linh mục Tế đến đây truyền 
giáo. Đến năm 1760, Linh mục Chu Án của Dòng Đa Minh đến Bác 
Trạch giảng đạo. Trên mảnh đất này có nội tộc nửa lương, nửa giáo, có 
một đình, một miếu thờ thần Nam Hải và một văn chỉ5. Khi địa phương 
này trở thành làng Công giáo toàn tòng thì “Giáo tộc chức sắc, trùm 
trưởng lý dịch, cùng người trên kẻ dưới trong toàn họ ở xã Bác Trạch, 
tổng Cao Mại, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương cùng lập khoán ước”6. 
 Đối với làng La Tinh, thành phố Hà Nội hiện nay, thì lại khác. Đây là 
một làng lương giáo. Trước khi Công giáo tới đây (cuối thế kỷ XIX), 
làng có năm giáp. Đến cuối thế kỷ XIX, giáp thứ sáu của làng ra đời, gọi 
là giáp nghĩa (gồm các gia đình theo Công giáo)7. Do sự phân chia giáp 
mới nên nảy sinh mâu thuẫn giữa người theo Phật giáo (làng gốc) với 
người theo Công giáo (từ bên ngoài đến truyền giáo, trường hợp Nguyễn 
Hữu Bằng). Bởi vậy, ngày 25/10/1896, làng phải làm khoán ước hòa 
bình8. 
Tờ khoán La Tinh, gồm 17 điều, trong đó ghi: “ hai bên lương giáo 
tục lệ có khác nhau một phần, phải hội họp để bàn công việc hợp lý hợp 
tình, chia giáp, chia phiên để lập khoán mới, quy định tục lệ các khoản để 
chia ruộng đất thờ Thần thờ Phật... Hai bên lương giáo cùng một làng, chỉ 
phân biệt lương giáo mà thôi, còn là người cùng làng, có thể cùng dòng 
họ, phải biết sống với nhau có lý có tình, nên phải thống nhất với nhau 
cùng một thể lệ, tôn trọng với nhau cùng một thể lệ riêng tư, không nên 
tranh chấp làm phiền nhau mà nên theo lệ trong tờ khoán”9. Cho đến nay, 
La Tinh vẫn là làng lương giáo, cùng với Đồng Nhân và Đông Lao hợp 
thành xã Đông La, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. 
Làng Chất Thành, tổng Chất Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình 
là một trong những làng Việt cổ với việc chia giáp sau khi Công giáo du 
nhập vào. Hương ước trước cải lương của xã Chất Thành chép: “Các vị 
kỳ dịch lương và giáo làng Chất Thành, tổng Chất Thành, huyện Kim 
Sơn, phủ Yên Khánh xin khấu trình việc phân chia giáp. Nguyên nhân 
làng trước đây khi thiết lập đều là dân bên lương, việc đinh và điền đều 
không phân biệt. Khoảng niên hiệu Tự Đức, đội ơn khoan điển, bấy giờ 
có dân theo Công giáo, nay giáp ấy tình nguyện thành một giáp riêng để 
Nguyễn Thị Quế Hương. Tính tự trị và tự quản 97 
97 
tiện khu xử đã được quan Khâm sai Tuyên phủ sứ Đại nhân chỉ thị việc 
phân chia giáp cốt hai bên phải cùng yên ổn... Tuy có phân chia giáp vốn 
yêu kính nhưng tình không có gì khác... nay khấn tính chiểu theo 87 nhân 
đinh trong toàn làng chia cấp mỗi đinh được 2 mẫu 5 sào 6 thước... giáp 
giáo có 10 người được 25 mẫu 4 sào”10. 
Hương ước cải lương nhiều làng khác ở Ninh Bình cũng đề cập đến 
việc tách giáp sẽ chia tài sản chung của làng cũ thành hai (bên lương 
và bên giáo), thí dụ như tại Điều 68, Hương ước làng Tuy Lộc, tỉnh 
Ninh Bình11. 
Như vậy, một làng cổ truyền, do số đinh tăng lên, nên tách dần ra 
thành nhiều giáp. Ở những nơi nào có cả lương dân lẫn giáo dân, nơi đó 
hoặc tạo thành một làng lương giáo, hoặc tạo thành một làng Công giáo 
toàn tòng, riêng biệt cả về đinh và điền. 
- Hình thức doanh điền: Đây là hình thức làng Công giáo hình thành 
từ việc di dân khai hoang, lập ấp ở Bắc Bộ, còn gọi là doanh điền do 
Nguyễn Công Trứ đề xuất với vua Minh Mệnh. Chính sách khẩn hoang 
kết hợp giữa nhà nước và nhân dân, một mặt, giải quyết được việc làm 
cho dân phiêu tán; mặt khác, chuyển được đất hoang thành đồng ruộng, 
xóm làng, “phí tổn chẳng mấy mà mối lợi tự nhiên đến vô cùng, đất 
không có chỗ bỏ hoang, dân đều làm ruộng, phong tục phiêu bạc nay lại 
thành thuần hậu”12 như Nguyễn Công Trứ từng nhận định. Các làng Công 
giáo thuộc hình thức này tiêu biểu như: làng Lưu Phương, huyện Kim 
Sơn, tỉnh Ninh Bình; làng Cam Lai, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Đây 
là những làng/ xứ đạo, họ đạo đặc trưng của vùng Đồng bằng Sông Hồng. 
 Làng Lưu Phương thành lập cùng với công cuộc khẩn hoang thành 
lập huyện Kim Sơn từ năm 1829 đến năm 1945, ban đầu do 36 nguyên 
mộ từ Trà Lũ, Nam Định kéo xuống. Làng Công giáo này hình thành 
cùng với sự truyền giáo của các thừa sai tới Phát Diệm. Điều 68, Hương 
ước làng Lưu Phương đề cập đến việc chia ruộng như sau: “Công điền là 
để giúp cho người gánh chịu việc quan, ruộng xấu tốt phải chia cho đều, 
làng ta chia làm hai xứ: một xứ ở trong đê, một xứ ở ngoài đê. Nguyên 
tục trước chia làm sáu giáp nay định đổ đồng quân cấp cho được công 
bằng. Cứ chiểu trong sổ đinh những người ăn gánh và những người hợp 
nghị mà cấp mỗi người một phần bằng nhau...”13. 
98 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014 
Cùng với việc khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ là sự hình thành 
làng Cam Lai, tổng Tân Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Làng 
này có số giáo dân nguyên mộ rất đông khi mới thành lập huyện Tiền Hải 
năm 1828. Lúc đầu, khi dân số còn ít, cả dân lương và dân giáo sống 
chung một làng, chết chôn chung một nghĩa địa. Sau này, dân số tăng 
mới tách thành hai, gồm giáp giáo và giáp lương. Dân lương xây đình, 
dân giáo xây nhà thờ. 
Ngoài ra còn có hình thức linh mục mua ruộng đất sau đó chiêu mộ 
người dân theo đạo, dần lập thành làng Công giáo. Giáo xứ Cồn Thoi, 
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình thành lập theo hình thức này. Đây là nơi 
tập trung dân khắp nơi dưới sự quản lý của linh mục thuộc Sở Đồn điền. 
Đặc điểm nổi bật của giáo xứ này là không có bộ máy chính quyền riêng, 
mà lồng ghép sự quản lý vào Sở Quản lý khu. Ngoài linh mục phục trách 
chung còn có một số người già làm công việc hành chính thay cho bộ 
máy bảo an, xã trưởng. 
Trong hai hình thức nêu trên, hình thức tách giáp phổ biến hơn. Bởi 
vì, hình thức này tận dụng được cơ sở vật chất của làng truyền thống cho 
việc truyền giáo. 
Như vậy, làng Công giáo là sản phẩm của quá trình truyền bá Công 
giáo vào Việt Nam trên cơ sở tách ra từ làng Việt cổ truyền hay chiêu mộ 
dân từ làng Việt cổ truyền đến vùng đất mới khai hoang. Vì thế, làng 
Công giáo mang trên mình yếu tố làng Việt cổ truyền và yếu tố Công 
giáo du nhập từ bên ngoài. 
2. Các thiết chế chính trị - tôn giáo qua hương ước làng Công giáo 
vùng Đồng bằng sông Hồng 
2.1. Bộ máy quản lý hành chính làng Công giáo qua hương ước 
Bộ máy quản lý hành chính làng Việt cổ truyền nói chung, làng Công 
giáo vùng Đồng bằng Sông Hồng nói riêng trước thời kỳ cải lương và 
giai đoạn cải lương gồm Hội đồng Kỳ mục, Hội đồng Tộc biểu, bộ phận 
kỳ dịch, các trùm phường, trùm phe, trùm giáp. Các tổ chức này quản trị 
làng xã dưới sự bảo hộ của chính quyền đương nhiệm. 
Trước hết phải kể đến Hội đồng Kỳ mục, với người đứng đầu là Tiên 
chỉ, tiếp đến là Thứ chỉ. Đây là tổ chức cao nhất trong hệ thống tổ chức tự 
quản của làng xã. Trong các hương ước luôn có những quy định về chức 
năng của Hội đồng Kỳ mục, cụ thể: Những biên bản của Hội đồng Tộc 
Nguyễn Thị Quế Hương. Tính tự trị và tự quản 99 
99 
biểu can thiệp đến tài sản, khoán ước, tục lệ, tế tự của làng xã đều phải có 
ý kiến của Hội đồng Kỳ mục. Bản dự thảo công biên và lục sổ công biên 
thi hành xong đều phải đưa cho Hội đồng Kỳ mục ghi ý. Hội đồng Kỳ 
mục không phải thi hành những thể lệ của hàng xã về việc quản trị và 
tuần phòng, không phải quản trị tài sản của hàng chức dịch hàng xã như 
lý trưởng, phó lý, v.v... 
 Hội đồng Tộc biểu, còn gọi là Hội đồng Hương hội, gồm chánh 
hương hội, phó chánh hương hội, thường là người cao tuổi có phẩm hàm. 
Hội đồng là “nghị viện” của làng, thông qua việc soạn thảo, ban hành, 
sửa đổi bổ sung cũng như giám sát việc thực thi hương ước. Nội dung 
hương ước quy định rõ nhiệm vụ của Hội đồng Tộc biểu: trông nom việc 
quản trị làng xã; quản lý các quyền lợi và quản trị tài sản của làng xã; thi 
hành lập lệ khoán ước lệ làng và lập sổ công biên, giám sát các sổ ấy; bổ 
sưu thuế và các thứ thuế nộp kho bạc hoặc nộp vào quỹ làng xã; kiểm 
soát các công việc chức dịch, như lý trưởng, phó lý, trương xã; trông nom 
việc tuần phòng và thi hành luật lệ cùng các mệnh lệnh của quan trên; 
hòa giải những việc dân, v.v 
Bộ phận kỳ dịch là bộ máy quản lý hành chính làng xã, với thành phần 
gồm lý trưởng, phó lý, trương tuần, thư ký và thủ quỹ. Thành phần này 
đều do Hội đồng Hương hội tuyển chọn, có trách nhiệm đảm bảo quyền 
lợi và nghĩa vụ của từng người dân trong làng xã. Bộ phận kỳ dịch có 
nhiệm vụ giao dịch với quan trên, thi hành mọi việc chính quyền cấp trên 
giao như thu nộp thuế, gìn giữ trật tự xã hội. Lý trưởng là người chỉ huy, 
giám sát trương tuần, thủ lộ, chưởng bạ. 
Như vậy, chức danh, tiêu chuẩn, thời hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, 
quyền lợi của từng bộ phận trong bộ máy hành chính làng xã được quy 
định tỷ mỷ, rõ ràng trong hương ước. Đây là một trong những lý do khiến 
cho bộ máy quản lý hành chính ở làng xã nước ta dưới thời phong kiến 
hoạt động nhịp nhàng, không bị chồng chéo. 
Về bộ máy hành chính, Hương ước làng Vĩnh Trị (Nam Định), một 
làng Công giáo toàn tòng, quy định: “Điều 1: Quản trị làng do Hội đồng 
Kỳ mục, Hội đồng Tộc biểu và các chức dịch khác như lý trưởng, phó 
trưởng... Điều 5: Các chức dịch hàng xã gồm: lý trưởng, phó lý, chưởng 
bạ, xã tuần, trương tuần, thủ lộ, xã đê, quản đê”14. 
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014 
Về tiêu chuẩn và thời hạn, Hương ước làng Quảng Bá (Hà Nội) quy 
định: “Các họ hợp lại với nhau thành một làng, bởi thế việc làng do các 
họ cử người thay thế mà trông coi. Mỗi dòng họ cử các tộc biểu từ 25 
tuổi trở lên, biết chữ, có gia sản, không can phạm. Tộc biểu giữ việc ba 
năm là một hạn... các tộc biểu tự chọn ra một người làm hội trưởng, hội 
phó, thư ký, thủ quỹ... Tộc biểu nếu làm việc gì trái với hương ước... Hội 
đồng chức sắc có quyền phạt tiền...”15. 
Một quy định khác ghi trong Hương ước làng Hạ Linh (Nam Định), 
một làng Công giáo toàn tòng: “Hội đồng Tộc biểu cùng lý trưởng, 
chưởng bạ, hộ tịch, ngoài những phiên hội đồng khác không kể, cứ mỗi 
tháng vào ngày 15 là phải hội đồng tại đình để bàn định các công việc 
quan trọng của làng...”16. 
Đi kèm với nhiệm vụ, chức trách là quyền lợi mà các chức việc được 
hưởng, ví dụ việc chi trả công tác phí hay chi trả lương. Về công tác phí, 
Hương ước làng Quảng Bá (Hà Nội) quy định: “Tộc biểu và lý trưởng, vì 
việc làng mà phải đi xa trong 5 km, làng không phải chi tiền, quá số ấy, 
làng chi mỗi ngày 0đ50, lên tỉnh hạn cho hai ngày, lên huyện hạn cho 
một ngày”17. Về chi trả lương, Điều 17, Hương ước làng Vĩnh Trị ( ...  khi chết/ trăm tuổi. Hương ước 
làng Lạc Nhuế (Hà Nam) nói rõ: “... người nào làm Trùm tộc từ sáu năm 
trở lên, đảm nhận trách nhiệm mà không kể lể, khi trăm tuổi, bản tộc truy 
báo một lễ cầu (kỳ) hồn. Thảng được mười năm trở lên đang đảm trách 
công vụ mà chết thì truy báo Lễ Misa cầu hồn để biểu trưng cho huân 
lao... sáu năm là một khóa đối với viên chức, thảng được mười năm trở 
lên thì thưởng công một lễ cầu hồn. Nếu người nào cẩu thả thì không 
được sung thêm khóa nào nữa và vĩnh viễn làm hạng thường”24. 
Nguyễn Thị Quế Hương. Tính tự trị và tự quản 103 
103 
Qua những quy định về Ban hành giáo xứ đạo, họ đạo trong hương 
ước, có thể thấy vai trò quan trọng của tổ chức xứ đạo, họ đạo ở làng 
Công giáo trong việc trợ giúp linh mục chính xứ điều hành sinh hoạt của 
giáo dân. Nói cách khác, thông qua Ban hành giáo, linh mục chính xứ 
nắm bắt tình hình đời sống sinh hoạt của giáo dân trong xứ đạo. Điều đó 
giúp cho linh mục quản xứ được tốt hơn. 
2.3. Vấn đề giáo quyền trong hương ước 
Linh mục chính xứ là người có quyền quyết định cao nhất trong làng 
Công giáo đối với giáo dân cả về đạo và đời, nghĩa là ở cả phương diện 
quản lý xã hội và phương diện đời sống đạo. Điều này thể hiện rõ nét 
nhất trong hương ước của làng Công giáo toàn tòng. 
Về phương diện quản lý xã hội: Trước hết, đó là việc tuyển chọn 
người đủ tiêu chuẩn để bầu vào Ban hành giáo. Hương ước làng Tăng 
Bổng quy định, chánh trùm, phó trùm, thư ký, trương đồng và trương 
tuần phải là “người có đạo đức và phải có giấy xác nhận (của linh mục 
chính xứ)”25. 
Sau khi soạn xong, các điều lệ trong hương ước được các chức việc 
cùng nhau thương nghị, thuận tình liên danh ký điểm lưu trong các giáo 
họ. Các văn bản khoán ước, tục lệ, hương ước tại làng Công giáo sau khi 
soạn xong đều phải trình linh mục chính xứ để chuẩn y, sau đó gửi lên 
quan trên xét duyệt. Hương ước thường được lập thành ba bản, một bản 
giao cho nhà thờ lưu giữ, một bản giao chánh trùm giữ “đề phòng luân lý 
biến đổi, thế đời nhiều mối”, bản còn lại “để chiểu theo sự việc hằng năm 
mà thi hành”. 
Tổ chức xứ đạo, họ đạo có vai trò nhất định trong việc hòa giải khiếu 
kiện, gìn giữ an ninh và trật tự xã hội, chống tệ nạn, giáo dục tôn giáo tại 
gia đình và làng xã. Tuy nhiên, vai trò của linh mục chính xứ trong việc 
phân giải mâu thuẫn của làng Công giáo không kém phần quan trọng. 
Trong trường hợp trùm trưởng không giải quyết được mâu thuẫn trong 
giáo họ, lúc đó phải trình lên linh mục chính xứ trước khi trình quan trên. 
Quy định này được thể hiện rõ trong Hương ước làng Ngọc Đồng (Hải 
Dương)26. 
Việc quy định chặt chẽ biện pháp xử lý gây mất đoàn kết, ảnh hưởng 
đến phong hóa giúp mỗi người dân trong làng tự điều chỉnh hành vi của 
mình, đồng thời cũng là lời răn dạy con cháu phải biết hòa hợp trong 
104 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014 
làng, ngoài xóm, cùng nhau gây dựng làng xóm tốt đẹp hơn. Tùy theo 
từng làng mà có những hình phạt khác nhau về vấn đề này. Hương ước 
làng Tôn Đạo (Ninh Bình) ghi rõ: “Lệ hương đảng quý ở hòa mục, người 
nào như có bất bình, nhẹ thì trình lân trưởng, sau đến lý trưởng; nặng thì 
trình linh mục để làm cho phải lẽ với chính đạo. Nếu bất cứ ai sinh tình 
tranh cạnh, dẫn đến hai bên ẩu đả, bắt phạt tiền sáu mạch, đánh 30 roi. 
Nếu không chịu, đem sự việc trình quan mà thất lý, lại bắt phạt ba quan 
đánh 100 roi. Người đó còn ngang ngạnh, truất làm người ngoài”27. 
Về phương diện đời sống đạo: Các hương ước quy định việc thực 
hành nghi lễ Công giáo phải tuân theo giáo luật, nếu không phải chịu 
mức phạt do làng đề ra. Hương ước làng Đông Châu (Thái Bình) quy 
định: “Mỗi năm hai kỳ làm phúc, từ bảy tuổi trở lên phải xưng tội cả, ai 
bỏ kỳ vụ trai (mùa chay) thì bắt ba tiền, bỏ kỳ tháng Rôsa (tháng 10) thì 
bắt một tiền rưỡi”(28). 
 Hôn nhân là một vấn đề hệ trọng đối với giáo dân. Theo quy định của 
hương ước các làng Công giáo, trình tự việc tổ chức hôn lễ như sau: 
Trước tiên, hai gia đình phải trình linh mục về vấn đề hôn nhân của con 
cái họ, tiếp đó mới tổ chức lễ dẫn trầu và các lễ khác. Hương ước làng 
Ngọc Đồng quy định: “Trong làng hễ ai có con cái lấy vợ lấy chồng thì 
hai bên cha mẹ phải đưa chúng nó đến trình Đấng coi sóc linh hồn, để 
Người tra xét hoặc có mắc ngăn trở gì chăng đã, đoạn mới được đi hỏi và 
chịu trầu cau. Bằng không thì cứ bắt khoán cả hai bên, mỗi bên một quan 
hai tiền. Lại khi đã hỏi và chịu trầu cau rồi, đến sau lại chê bôi thời bắt 
khoán bên chê ấy sáu quan. Bằng kẻ toan lấy nhau khi đến trình đã tra 
cần mà kẻ ấy chẳng trình cho rõ mình bằng lòng lấy hay là phải ép, đến 
sau lại muốn tháo lời giao mà nói rằng bởi bố mẹ ép thì bắt khoán gấp 
đôi, cùng là ra hiệu ba ngày, đánh đòn 30 roi”29. 
Trong giai đoạn trước cải lương hương chính, giáo dân phải thực hiện 
một số điều cấm kỵ của làng Công giáo đề ra liên quan đến tôn giáo 
truyền thống và thờ cúng trong người Việt như thờ Thần Phật, bói toán, 
coi ngày giờ, đốt vàng mã, v.v... Nếu người nào không thực hiện những 
điều cấm kỵ này sẽ phải chịu hình phạt do làng quy định30. 
Hương ước làng Công giáo trước cải lương còn quy định việc tróc 
phạt người nhập đạo lại bỏ đạo. Hương ước làng Lãnh Trì (Hà Nam) đưa 
ra “điều lệ về việc người nào trong giáp khi trước nhập giáo mà về sau từ 
Nguyễn Thị Quế Hương. Tính tự trị và tự quản 105 
105 
bỏ. Giáo giáp bắt nộp phạt mười đồng nguyên bạc. Nếu không chịu nhận 
phải lập tức hướng trình”31. 
Như vậy, những quy định khắt khe trong hương ước làng Công giáo 
cũng như các chế tài xử phạt nếu vi phạm làm cho giáo dân có ý thức 
hơn, trách nhiệm hơn, tự giác hơn trong việc thực hiện trách nhiệm công 
dân và nghĩa vụ giáo dân, từ đó tạo ra một lối sống đạo với phương thức 
quản lý làng xã có tính tự trị, tự quản cao. Tuy nhiên, phương thức này 
dẫn đến một hệ lụy khác là sự biệt lập và khép kín của làng xã Công giáo. 
Cộng đồng giáo dân trong làng xã Công giáo thường xa rời các phong 
tục, tập quán cổ truyền của dân tộc. Đây là một trong số những nguyên 
nhân dẫn tới sự xung đột văn hóa - tôn giáo trong quá trình Công giáo du 
nhập và phát triển ở Việt Nam những buổi đầu. 
3. Kết luận 
Sự du nhập của Công giáo vào Việt Nam đã tạo ra một loại hình làng 
mới bên cạnh làng Việt cổ truyền: làng Công giáo. Làng Công giáo mang 
trên mình hai yếu tố: yếu tố làng Việt và yếu tố tôn giáo. Cũng như làng 
Việt, làng Công giáo có tính hai mặt là đồng thuận và xung đột, biệt lập 
và giao lưu của các tổ chức thiết chế và hoạt động văn hóa trong xã thôn. 
Sự hội nhập với văn hóa dân tộc của Công giáo là một quá trình lâu 
dài, là sự trăn trở của nhiều thế hệ người Công giáo Việt Nam, đến nay có 
được những kết quả đáng khích lệ. Đường hướng “Sống Phúc âm giữa 
lòng dân tộc” và “Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối 
diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc” trong Thư chung 1980 
của Hội đồng Giám mục Việt Nam với đường lối “Xây dựng và phát triển 
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong Nghị 
quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra 
những điều kiện thuận lợi để người Công giáo hội nhập vào truyền thống 
văn hóa của dân tộc Việt Nam, tích cực tham gia phong trào “Toàn dân 
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, góp phần củng cố khối đại đoàn 
kết toàn dân tộc. 
Sự phong phú và đa dạng của văn hóa làng Việt truyền thống cộng 
thêm nét độc đáo của văn hóa Công giáo tạo ra sự đặc thù của hương ước 
làng Công giáo vùng Đồng bằng Sông Hồng. Vai trò cố kết cộng đồng 
thể hiện ở tính tự trị, tự quản của làng xã và thiết chế chính trị - tôn giáo 
là hai mặt tồn tại song song, có sức thuyết phục, phù hợp với quản lý của 
106 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014 
Nhà nước và quản lý của Giáo hội. Ở đó, vai trò của Ban hành giáo xứ 
đạo, họ đạo rất quan trọng đối với cuộc sống bên đời cũng như bên đạo 
của giáo dân. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra sự khép kín và cục bộ, đôi khi là 
sự biệt lập của người Công giáo với văn hóa cổ truyền vốn có trong tâm 
thức của họ từ lâu./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, 
tập 2, Nxb. Giáo dục: 301. 
2 Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển 1, Nxb. Hiện tại, 
Sài Gòn: 278 
3 Hương ước làng Công giáo có ba loại tương ứng với ba giai đoạn: Giai đoạn 
trước cải lương (trước 1921), gọi là hương ước trước cải lương, được viết bằng 
chữ Hán - Nôm. Các văn bản Hán - Nôm này đã dịch sang chữ Quốc ngữ. Giai 
đoạn cải lương (1921-1944), gọi là hương ước cải lương, được viết bằng chữ 
Quốc ngữ, chữ Hán hoặc chữ Pháp. Giai đoạn hiện đại, sau khi có Chỉ thị số 
24/1998/CT-TTg về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, 
bản, thôn, ấp, cụm dân cư, gọi là hương ước mới, viết bằng chữ Quốc ngữ. 
4 Xem thêm: Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt 
Nam: lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 
82 - 126. 
5 Công hàm xứ Bác Trạch, Cao Mại, Kiến Xương, Thái Bình, 1989. 
6 Tục lệ xã Bác Trạch, tổng Cao Mại, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình, 1916, tư 
liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a5/68. 
7 Jonh Kleinen (2007), Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ, Nxb. Đà 
Nẵng và Tạp chí Xưa & Nay, Đà Nẵng: 19 và 50. 
8 Jonh Kleinen (2007), Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ, sđd: 56. 
9 Tờ khoán xã La Tinh, tổng La Hội, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, 
1896. 
10 Tục lệ xã Chất Thành, tổng Chất Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, 1897, 
tư liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a4/23. 
11 Hương ước làng Tuy Lộc, huyện Kim Sơn, Ninh Bình, 1924, tư liệu lưu trữ tại 
Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu HƯ 4622. 
12 Phạm Thị Nết (1999), “Bước đầu tìm hiểu về các đơn vị lý, ấp, trại, giáp ở Tiền 
Hải (Thái Bình) thế kỷ XIX”, Nghiên cứu Lịch sử, số 6: 43 - 45. 
13 Hương ước làng Lưu Phương, huyện Kin Sơn, Ninh Bình, 1922, tư liệu lưu trữ 
tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu HƯ 4623. 
14 Hương ước làng Vĩnh Trị, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định, 1942, tư liệu lưu trữ 
tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu HƯ 3528. 
15 Hương ước làng Quảng Bá, Hà Nội, 1921, tư liệu lưu trữ tại Viện Thông tin Khoa 
học xã hội, ký hiệu HƯ 877. 
16 Hương ước làng Hạ Linh, huyện Xuân Trường, Nam Định, 1940, tư liệu lưu trữ 
tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu HƯ 4220. 
17 Hương ước làng Quảng Bá, Hà Nội, tlđd. 
18 Hương ước làng Phú Nhai, huyện Xuân Trường, Nam Định, 1940, tư liệu lưu trữ 
tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu HƯ 4232. 
Nguyễn Thị Quế Hương. Tính tự trị và tự quản 107 
107 
19 Hương ước làng Trung Lao, huyện Trực Ninh, Nam Định, 1923, tư liệu cá nhân. 
20 Sử ký Địa phận Trung, Nhà in Phú Nhai đường, 1916: 210. 
21 Tục lệ xã Bác Trạch, tổng Cao Mại, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình, tlđd. 
22 Khoán lệ xã Tăng Bổng, tổng Thuận Vi, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, 1908, tư 
liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a5/65. 
23 Tục lệ xã Đồng Tỉnh, huyện Thanh Khai, tỉnh Thái Bình, 1872, tư liệu lưu trữ tại 
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 
24 Tục lệ xã Lạc Nhuế, tổng Phương Đàn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, 1920, tư 
liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 
25 Khoán lệ xã Tăng Bổng, tổng Thuận Vi, huyện Vũ Thư, Thái Bình, tlđd. 
26 Hương ước Ngọc Đồng, tổng Đức Chiêm, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, 
tỉnh Hưng Yên, 1913, tư liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký 
hiệu AB.324. 
27 Tục lệ ấp Tôn Đạo, tổng Quy Hậu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, 1917, tư liệu 
lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a4/27. 
28 Tục lệ xã Đông Châu, tổng Đồng Trực, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, 1880, 
tư liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a5/28. 
29 Hương ước Ngọc Đồng, tổng Đức Chiêm, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, 
tỉnh Hưng Yên, 1913, tư liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký 
hiệu AB.324. 
30 Khoán lệ xã Tăng Bổng, tổng Thuận Vi, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, tlđd. 
31 Tục lệ xã Lãnh Trì, tổng Mộc Hoàn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, 1918, tư liệu 
lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AF.a5/70. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Thiện Cẩm (2004), “Làng xóm và họ đạo”, Công giáo & Dân tộc (nguyệt san), 
số113. 
2. Công hàm xứ Bác Trạch, Cao Mại, Kiến Xương, Thái Bình, 1989. 
3. Nguyễn Hồng Dương (1997), Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ năm 
1828 đến năm 1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
4. Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt 
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
5. Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam: lịch sử 
- hiện tại và những vấn đề đặt ra, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
6. Bùi Xuân Đính (2008), Hành trình về làng Việt cổ, tập 1: Các làng quê xứ Đoài, 
Nxb. Từ điển Bách khoa & Viện Văn hóa, Hà Nội. 
7. Nguyễn Phan Hoàng (1986), “Bước đầu tìm hiểu về một làng Thiên Chúa giáo 
thời cận đại: làng Lưu Phương”, Nghiên cứu Lịch sử, số 4: 62-72. 
8. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2004), Sống đạo theo cung cách Việt Nam, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội. 
9. Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển 1, Nxb. Hiện tại, 
Sài Gòn. 
10. Jonh Kleinen (2007), Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ, Nxb. Đà 
Nẵng và Tạp chí Xưa & Nay, Đà Nẵng. 
11. Phạm Thị Nết (1999), “Bước đầu tìm hiểu về các đơn vị lý, ấp, trại, giáp ở Tiền 
Hải (Thái Bình) thế kỷ XIX”, Nghiên cứu Lịch sử, số 6: 43-50. 
108 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014 
12. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, 
tập 2, Nxb. Giáo dục. 
13. Đặng Chí San (1998), “Vài nét phác về làng và giáo xứ làng”, Công giáo & Dân tộc 
(nguyệt san), số 42: 46 - 50. 
14. Trần Tam Tỉnh (1995), Thập giá và Lưỡi gươm, Nxb. Trẻ, Hồ Chí Minh. 
15. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà 
Nội. 
Abstract 
THE AUTONOMY AND SEFT- MANAGEMENT 
OF THE CATHOLIC VILLAGES IN RED RIVER DELTA 
THROUGH VILLAGE CONVENTIONS 
There are Catholic villages in the traditional village system of Viet 
people in the Red River delta. These villages are cultural products on 
processing of propagation of the Catholicism in Vietnam. In the process 
of introducing and developing in Vietnam, the Catholicism created a 
typical culture through establishing the Catholic villages which co-exist 
with the other Viet’s villages until the present time. The Catholic villages 
have both political institutional organizations as Vietnamese traditional 
villages and the differences marked by religious institutional 
organizations. This article mentioned the process of establishing the 
Catholic villages in the Red River delta and the political - religious 
institutions through village conventions. 
Keywords: Catholic villages, village conventions, political- religious 
institutions, red river delta. 

File đính kèm:

  • pdftinh_tu_tri_va_tu_quan_cua_lang_cong_giao_vung_dong_bang_son.pdf