Tóm tắt Luận án Đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng

Bệnh tay chân miệng là bệnh thường gặp ở trẻ em với đặc trưng là

sốt nhẹ kèm phát ban điển hình dạng sẩn mụn nước ở lòng bàn tay

hoặc lòng bàn chân, có hoặc không có loét miệng. Hầu hết các trường

hợp bệnh đều diễn biến nhẹ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,

bệnh có thể diễn biến nặng và gây ra những biến chứng nguy hiểm

như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong

nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

Ở Việt Nam, bệnh tay chân miệng là một trong những bệnh truyền

nhiễm cấp tính mới nổi trong hơn một thập niên trở lại đây. Theo Cục

Y tế dự phòng, năm 2011, cả nước có 110.890 ca mắc tay chân

miệng ở 63 tỉnh thành và có 169 trường hợp tử vong. Năm 2012,

bệnh tay chân miệng có số mắc đứng thứ hai và số chết đứng thứ ba

trong số 10 bệnh truyền nhiễm có số mắc và chết cao ở Việt Nam.

Đắk Lắk là một trong số những tỉnh thành có số mắc tay chân

miệng cao ở Việt Nam và có số mắc cao nhất trong các tỉnh ở Tây

Nguyên. Riêng tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, số mắc trong

năm 2011 là 745 trong đó có 2 trường hợp tử vong.

Bệnh tay chân miệng hiện đang là vấn đề sức khỏe công cộng ở

Việt Nam cũng như ở tỉnh Đắk Lắk. Thứ nhất, đây là bệnh truyền

nhiễm mới nổi trong một khoảng thời gian gần đây với số mắc cao,

trong đó có một số trường hợp xuất hiện biến chứng và một số ít

trường hợp gây tử vong, gây lo lắng cho người dân và gây quá tải cho

các bệnh viện vốn đã quá đông. Thứ hai là các thông tin về bệnh tay

chân miệng ở Việt Nam cũng như ở Đắk Lắk còn ít, đặc biệt là

những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nặng nhẹ của bệnh tay chân

miệng. Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc điểm

dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên

quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng” với hai mục

tiêu nghiên cứu sau:

1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tại

tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015.

2. Xác định những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh

tay chân miệng ở bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk và bệnh viện Nhi

Đồng Nai.

pdf 27 trang dienloan 5980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng

Tóm tắt Luận án Đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng
ĐẠI HỌC HUẾ 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC 
THÁI QUANG HÙNG 
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC 
BỆNH TAY CHÂN MIỆNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK 
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN 
TÌNH TRẠNG NẶNG CỦA BỆNH 
Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG 
Mã số: 62 72 76 01 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC 
HUẾ - 2017 
Công trình được hoàn thành tại: 
ĐẠI HỌC HUẾ - TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC 
Người hướng dẫn khoa học 
1. PGS.TS. ĐINH THANH HUỀ 
2. PGS.TS. TRẦN ĐÌNH BÌNH 
Phản biện 1: 
Phản biện 2: 
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế 
Vào lúc: ngày tháng năm 20 
Có thể tìm hiểu Luận án tại: - Thư viện Quốc gia 
- Thư viện Trường Đại học Y Dược Huế
1 
MỞ ĐẦU 
 Bệnh tay chân miệng là bệnh thường gặp ở trẻ em với đặc trưng là 
sốt nhẹ kèm phát ban điển hình dạng sẩn mụn nước ở lòng bàn tay 
hoặc lòng bàn chân, có hoặc không có loét miệng. Hầu hết các trường 
hợp bệnh đều diễn biến nhẹ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, 
bệnh có thể diễn biến nặng và gây ra những biến chứng nguy hiểm 
như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong 
nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. 
 Ở Việt Nam, bệnh tay chân miệng là một trong những bệnh truyền 
nhiễm cấp tính mới nổi trong hơn một thập niên trở lại đây. Theo Cục 
Y tế dự phòng, năm 2011, cả nước có 110.890 ca mắc tay chân 
miệng ở 63 tỉnh thành và có 169 trường hợp tử vong. Năm 2012, 
bệnh tay chân miệng có số mắc đứng thứ hai và số chết đứng thứ ba 
trong số 10 bệnh truyền nhiễm có số mắc và chết cao ở Việt Nam. 
 Đắk Lắk là một trong số những tỉnh thành có số mắc tay chân 
miệng cao ở Việt Nam và có số mắc cao nhất trong các tỉnh ở Tây 
Nguyên. Riêng tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, số mắc trong 
năm 2011 là 745 trong đó có 2 trường hợp tử vong. 
 Bệnh tay chân miệng hiện đang là vấn đề sức khỏe công cộng ở 
Việt Nam cũng như ở tỉnh Đắk Lắk. Thứ nhất, đây là bệnh truyền 
nhiễm mới nổi trong một khoảng thời gian gần đây với số mắc cao, 
trong đó có một số trường hợp xuất hiện biến chứng và một số ít 
trường hợp gây tử vong, gây lo lắng cho người dân và gây quá tải cho 
các bệnh viện vốn đã quá đông. Thứ hai là các thông tin về bệnh tay 
chân miệng ở Việt Nam cũng như ở Đắk Lắk còn ít, đặc biệt là 
những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nặng nhẹ của bệnh tay chân 
miệng. Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc điểm 
dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên 
quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng” với hai mục 
tiêu nghiên cứu sau: 
2 
 1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tại 
tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015. 
 2. Xác định những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh 
tay chân miệng ở bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk và bệnh viện Nhi 
Đồng Nai. 
- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 
+ Ý nghĩa khoa học 
 Bổ sung những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay 
chân miệng thông qua nghiên cứu bệnh chứng. 
+ Ý nghĩa thực tiễn 
 Nhận ra một số yếu tố liên quan đến bệnh tay chân miệng nặng là 
rất quan trọng. Dựa vào các yếu tố liên quan này, các nhân viên y tế ở 
tuyến y tế cơ sở có thể nhanh chóng phân loại bệnh nhân tay chân 
miệng và có thái độ xử lý thích hợp: chuyển bệnh nhân tay chân 
miệng có nguy cơ cao xuất hiện biến chứng vào bệnh viện sớm để 
theo dõi chặt chẽ và xử lý tiếp theo, trong khi những người có nguy 
cơ thấp có thể được chăm sóc ngoại trú sau khi được tư vấn về cách 
chăm sóc và theo dõi tại nhà. 
Cấu trúc luận án: gồm 114 trang (không kể tài liệu tham khảo 
và phụ lục với 4 chương: 43 bảng, 1 hình, 3 sơ đồ, 6 biểu đồ và 122 
tài liệu tham khảo. Đặt vấn đề: 3 trang, tổng quan tài liệu: 34 trang, 
đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 20 trang, kết quả nghiên cứu 
28 trang, bàn luận: 26 trang, kết luận: 2 trang và kiến nghị: 1 trang. 
Chƣơng 1 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1. Giới thiệu bệnh tay chân miệng 
 Theo định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới: bệnh tay chân miệng 
(TCM) là bệnh thường gặp ở trẻ em với đặc trưng là sốt nhẹ kèm 
phát ban điển hình ở da, có hoặc không có loét miệng. Thông thường, 
phát ban điển hình dạng sẩn mụn nước ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn 
chân, hoặc cả lòng bàn tay, bàn chân. 
3 
1.1.1. Tác nhân gây bệnh 
 Những virus gây ra bệnh TCM thuộc nhóm Enterovirus, họ 
Picornaviridae. Họ này gồm 2 giống: Enterovirus và Rhinovirus. 
Đặc điểm chung của các virus trong họ Picornaviridae là nhỏ, chứa 
RNA một sợi dương, capsid đối xứng hình khối, không có bao ngoài. 
Dựa theo giải trình tự gen, enterovirus được chia thành bốn loài: A, 
B, C và D. Enterovirus 71 (EV71) và Coxsackie A16 được xếp vào 
loài A. 
1.1.2. Chuỗi lan truyền bệnh 
1.1.2.1. Nguồn truyền nhiễm 
 Người là vật chủ tự nhiên và duy nhất trong bệnh TCM. 
- Người bệnh và người vừa khỏi bệnh: thời kỳ lây truyền bệnh 
TCM mạnh nhất trong tuần đầu của bệnh. Virus có thể tiếp tục được 
bài tiết từ dịch hầu họng hoặc phân đến sau 2 tuần, cá biệt có thể tới 
11 tuần kể từ khi khởi bệnh. 
- Người lành mang trùng: tỷ lệ người lành mang trùng có thể 
khác nhau tùy nghiên cứu, tỷ lệ này dao động trong khoảng từ 50% 
đến 71%. 
1.1.2.2. Đường bài xuất 
 Mầm bệnh thoát ra khỏi cơ thể người nhiễm bằng 3 đường: chất 
tiết hầu họng, dịch mụn nước sang thương ở da niêm, phân và thời 
gian bài xuất kéo dài đến 11 tuần kể từ ngày khởi phát. 
1.1.2.3. Phương thức lây nhiễm 
 Kiểu lây truyền bệnh TCM là qua cả đường trực tiếp (tiếp xúc 
gần) và lẫn đường gián tiếp (qua vật dụng, đồ chơi nhiễm bẩn). Biện 
pháp kiểm soát bệnh TCM do đó cũng đa dạng và khó khăn hơn so 
với bệnh truyền nhiễm chỉ có một kiểu lây truyền duy nhất. 
1.1.2.4. Đường xâm nhập 
 Sự xâm nhập của virus vào tế bào vật chủ phụ thuộc vào các thụ thể 
đặc hiệu như: thụ thể poliovirus (CD155), 3 integrins (α2β1, αvβ3, và 
αvβ6), yếu tố gây tăng phân rã (decay accelerating factor - CD55), thụ 
4 
thể coxsackievirus-adenovirus, và phân tử kết dính gian bào. Các thụ 
thể này có nhiều ở đường tiêu hóa, đường hô hấp ở người. 
1.1.2.5. Khối cảm nhiễm 
 Tính cảm thụ của vật chủ tùy thuộc vào yếu tố di truyền (tỷ lệ 
nhiễm EV71 cao tương ứng với tỷ lệ HLA-A33 cao ở người châu Á), 
tính miễn dịch mắc phải đặc hiệu (tỷ lệ huyết thanh kháng CV A16 
và EV71 thấp ở trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ này tăng dần theo từng năm và 
đạt ngưỡng 50% ở tuổi trên 5 tuổi) và những yếu tố chung khác. 
1.1.3. Triệu chứng lâm sàng 
 Triệu chứng ở da niêm. 
 Dấu hiệu điển hình của bệnh tay chân miệng là sốt nhẹ và phát 
ban dạng sẩn-mụn nước trên lòng bàn tay, bàn chân và nhiều sang 
thương loét ở miệng. Trong vụ dịch một số trẻ có thể chỉ có viêm 
họng mụn nước (VHMN) với sốt và vết loét chủ yếu ảnh ở thành sau 
khoang miệng, lưỡi gà, amidan, và vòm miệng. 
 Trong hầu hết các trường hợp, nhiễm enterovirus cấp tính là lành 
tính, tự giới hạn. Các tổn thương ở da khỏi một cách tự nhiên, không 
để lại sẹo. Tuy nhiên, những năm gần đây các vụ dịch TCM do EV71 
tại Châu Á đã ghi nhận những trường hợp bệnh nghiêm trọng kèm 
theo triệu chứng thần kinh trung ương, suy tuần hoàn hô hấp và đôi 
khi gây tử vong. 
 Triệu chứng ở thần kinh trung ương và toàn thân 
 Các biến chứng hay gặp trong bệnh TCM là viêm thân não, viêm 
màng não vô khuẩn, viêm thân não kèm rối loạn chức năng tim mạch. 
Tỷ lệ xuất hiện biến chứng thần kinh trung ương (có ít nhất một triệu 
chứng do tổn thương thần kinh) ở những bệnh nhân TCM nhập viện 
điều trị dao động khá lớn, từ 10% đến 48%, tùy theo báo cáo của các 
bệnh viện nhưng tỷ lệ xuất hiện biến chứng là không đáng kể (dưới 
1%), nếu số liệu được thu thập từ hệ thống giám sát quốc gia. 
 Triệu chứng toàn thân: trẻ có thể có các dấu hiệu rối loạn thần 
kinh thực vật như vã mồ hôi lạnh, đốm da, nhịp tim nhanh, thở 
5 
nhanh, tăng huyết áp và tăng đường huyết, có nguy cơ tiến triển 
nhanh chóng đến suy tim. 
1.1.4. Chẩn đoán và phân độ lâm sàng 
 Theo hướng dẫn của Bộ Y tế: 
 Chẩn đoán bệnh TCM dựa vào triệu chứng lâm sàng, xét 
nghiệm tác nhân (nếu có điều kiện) và các yếu tố dịch tễ. 
 Phân độ lâm sàng 
 Độ 1: chỉ có loét miệng hoặc tổn thương da 
 Độ 2: chia thành 2a và 2b. Độ 2b Có thêm các biểu hiện thần kinh 
trung ương 
 Độ 3: xuất hiện các triệu chứng tim mạch, hô hấp 
 Độ 4: shock / phù phổi cấp 
 Kể từ độ 2b trở lên, bệnh TCM được xếp vào nhóm có biến chứng 
và cần được chăm sóc và điều trị tại bệnh viện tuyến tỉnh. 
1.2. Phân bố bệnh TCM 
 Bệnh TCM do enterovirus gây ra phân bố khắp toàn cầu, nhưng 
khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là khu vực vực Đông Á (Nhật Bản, 
Hàn Quốc, Trung Quốc...) và Đông Nam Á (Việt Nam, Malayxia, 
Singapore...) 
 Bệnh có xu hướng gia tăng và duy trì ở mức cao trong những năm 
gần đây. 
 Bệnh TCM xảy ra chủ yếu ở trẻ em < 5 tuổi, chiếm tỷ lệ từ 85% 
đến 96% trong các vụ dịch. Trong số những trẻ mắc bệnh TCM, trẻ 
trai thường chiếm ưu thế. Theo kết quả của một số nghiên cứu, tỉ số 
mắc bệnh giữa nam và nữ từ 1,4 đến 1,9. 
 Giống như các enterovirus khác, mô hình gây bệnh của EV71 theo 
mùa rõ rệt và thay đổi theo khu vực địa lý. 
 Việt Nam 
 Ở miền Nam Việt Nam, dịch viêm não cấp liên quan đến bệnh 
TCM đã được báo cáo lần đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh vào 
năm 2003. Đến năm 2005, hệ thống giám sát trọng điểm tại bệnh 
6 
viện nhi thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận được 764 trẻ em mắc bệnh 
TCM, với hầu hết các trường hợp (96,2%) là trẻ dưới năm tuổi. Tất 
cả các bệnh nhân đều được lấy mẫu bệnh phẩm và HEV được phân 
lập từ 411 bệnh nhân. Trong số đó, 173 (42,1%) là EV71, và 214 
(52,1%) là CA16. Trong số những bệnh nhân nhiễm EV71, 51 
(29,3%) có biến chứng thần kinh cấp và 3 (chiếm 1,7%) trường hợp 
tử vong. 
 Ở miền Bắc Việt Nam, EV71/C4 đã được xác định ở một bệnh 
nhân viêm não cấp vào năm 2003. Từ năm 2005 đến năm 2007, 
EV71/C5 được xác định ở 7 bệnh nhân liệt mềm cấp tính. Tất cả các 
trường hợp mắc đều dưới 5 tuổi. Trong năm 2008, 88 trường hợp 
bệnh TCM được báo cáo từ 13 tỉnh. Kết quả phân lập virus từ 88 
trường hợp này xác nhận rằng 33 trường hợp (37,5%) có enterovirus 
dương tính, trong đó có 9 (27,3%) là EV71, 23 (69,7%) là CV A16, 
và 1 là CVA10. Không xảy ra trường hợp nghiêm trọng hoặc tử vong 
nào. Phần lớn các trường hợp bệnh dưới 5 tuổi. 
 Trong giai đoạn từ 2008 đến 2010-giai đoạn giám sát trọng điểm-
số ca mắc bệnh TCM trung bình tại khu vực phía Nam là 10.000 
ca/năm với tỉ suất chết/mắc là 0,2%. Bệnh tăng cao vào các tháng 
cuối năm (từ tháng 9 đến tháng 11) và lưu hành phổ biến tại các tỉnh 
miền Đông Nam Bộ. Bệnh xuất hiện nhiều ở trẻ dưới 2 tuổi (78,29%) 
và nam có tỉ lệ mắc bệnh nhiều hơn nữ (61,43%). Trong số 350 bệnh 
nhân được lấy mẫu xét nghiệm, 216 (61,71%) trường hợp xác định 
dương tính với các tác nhân virus đường ruột bao gồm EV71 (22%, 
77/216) và các EV khác như Coxackie A16, Echo (chiếm 39,71%, 
139/216). 
 Từ năm 2011, bệnh TCM chính thức được đưa vào hệ thống báo 
cáo thường quy theo quy định tại Thông tư số 48/2010/TT-BYT, 
ngày 31/12/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Ngay trong năm này, hệ 
thống giám sát bệnh TCM ở khu vực phía Nam ghi nhận có sự gia 
tăng đột biến về ca mắc và tử vong, với số ca mắc gấp 6 lần, số ca tử 
vong gấp 6 - 24 lần so với giai đoạn 2008 - 2010. Tỉ lệ chết/mắc là 
7 
0,2%. Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở nhóm trẻ dưới 3 tuổi (chiếm 80%). 
Trước đây bệnh TCM có hai đỉnh dịch trong năm. Năm 2011 dịch chỉ 
có 1 đỉnh vào tháng 9-10. 
 Năm 2012, theo Cục Y tế dự phòng bệnh TCM có số mắc đứng 
thứ 2 và số chết đứng thứ 3 trong 10 bệnh truyền nhiễm có số mắc và 
chết cao nhất ở Việt Nam. Tỷ lệ dương tính với Enterovirus chiếm từ 
42,7% đến 83,1%, và trong số đó tỷ lệ dương tính với EV71 chiếm từ 
40,2% đến 79,4% tùy theo vùng miền. 
1.3. Các yếu tố nguy cơ của bệnh tay chân miệng nặng 
 Tác nhân gây bệnh 
 EV71 thường là tác nhân gây ra các vụ dịch TCM nặng. Tuy 
nhiên, EV71 có nhiều phân nhóm gen và phân nhóm nào quyết định 
mức độ trầm trọng của bệnh TCM vẫn chưa được biết. 
 Các yếu tố khác 
 HLA-A33 được cho là có liên quan đến tính cảm nhiễm EV71. 
 Tính miễn dịch: trẻ có độ tuổi từ 1-5 thì mắc bệnh TCM nặng, có 
nhiều biến chứng thần kinh hơn so với trẻ trên 5 tuổi. Có lẽ vì khả 
năng miễn dịch ở trẻ em dưới 5 là thấp so với trẻ trên 5 tuổi. 
 Các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng: sốt, thời gian kéo dài 
của sốt, không loét miệng, giật mình, ngủ gà, mạch nhanh, thở 
nhanh, tăng bạch cầu, tăng đường huyết là những dấu hiệu của bệnh 
TCM nặng. 
Chƣơng 2 
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 Nhằm trả lời hai mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hai thiết 
kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang và nghiên cứu bệnh chứng 
bắt cặp. 
2.1. Nghiên cứu cắt ngang 
 Toàn bộ ca bệnh TCM từ hệ thống giám sát trong giai đoạn 2012-
2015 được thu thập để mô tả các đặc điểm về con người, thời gian, 
8 
không gian. Đồng thời sử dụng dân số của tỉnh Đắk Lắk tương ứng 
theo từng năm để ước tính tỷ lệ mắc bệnh TCM. 
 Ca bệnh được xác định dựa theo hướng dẫn của Bộ Y Tế. 
 Tính tỷ lệ mắc bệnh TCM (trên 100.000) theo nhóm tuổi, theo 
giới, theo dân tộc, theo địa bàn cư trú. 
 Tỷ lệ mắc TCM theo các tháng trong giai đoạn 2012-2015. 
Ngưỡng cảnh báo dịch: . Trong đó, là số mắc trung 
bình trong năm; SE là sai số chuẩn. 
2.2. Nghiên cứu bệnh chứng bắt cặp 
 Ca bệnh và ca chứng đều là những trường hợp mắc TCM nhập 
viện điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk và bệnh viện Nhi 
Đồng Nai. Mỗi ca chứng được bắt cặp với ca bệnh về tuổi, giới, dân 
tộc và địa bàn cư trú. Nhóm bệnh và nhóm chứng được so sánh với 
nhau về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ nặng của bệnh. Các 
yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nặng bệnh có thể chia thành bốn nhóm: 
(i) nhóm các yếu thuộc về gia đình, môi trường; (ii) nhóm các yếu tố 
thuộc bản thân trẻ mắc bệnh; (iii) nhóm các yếu tố thuộc về người 
mẹ; (iii) nhóm các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng. 
2.2.1. Định nghĩa ca bệnh và ca chứng 
 Định nghĩa ca bệnh TCM: (i) có san thương điển hình ở da, 
niêm mạc; (ii) hoặc có bóng nước hoặc vết loét ở vòm khẩu cái, niêm 
mạc má, nướu, lưỡi, (iii) và xét nghiệm PCR dương tính với EV hoặc 
EV71. 
 Định nghĩa ca bệnh trong nghiên cứu: bao gồm tiêu chí định 
nghĩa ca bệnh TCM và phân độ lâm sàng từ độ 2b trở lên (Bộ Y Tế). 
 Định nghĩa ca chứng trong nghiên cứu: bao gồm tiêu chí định 
nghĩa ca bệnh TCM và phân độ lâm sàng từ độ 1 đến 2a (Bộ Y Tế) 
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu 
 Số cặp các đối tượng cần thiết cho nghiên cứu được tính dựa 
theo công thức: 
9 
2
2 2
1 /2 1
2
( +1)+Z ( +1) ( 1)
( 1)
Z OR OR OR
n
OR
  
Với các giả định sau: 
 OR ≥ 2, giả định sự khác biệt về phơi nhiễm giữa ca bệnh và ca 
chứng là π=0,3 và sai lầm α=0,05, β=0,20, tỷ số bệnh chứng là 1:1. 
 Cỡ mẫu n = 137. Thêm 10% số mẫu đề phòng mất thông tin, cỡ 
mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 150 cặp (150 bệnh và 150 chứng). 
2.2.3. Chọn mẫu nghiên cứu 
 Chọn nhóm bệnh: 
(i) Tất cả các ca được bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk chẩn đoán 
mắc TCM nặng (độ 2b trở lên), nhập viện từ ... a trẻ (con thứ), số con 
trong gia đình (≥ 3), suy dinh dưỡng thể gầy còm, tình trạng tiêm 
chủng (không đầy đủ), tiếp xúc nhóm (nhà trẻ) 
Bảng 3.17. Liên quan giữa không bú mẹ hoàn toàn và mắc TCM nặng 
Không đƣợc bú 
mẹ hoàn toàn 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 93 33 126 1,83 
Không 18 6 24 (1,01-3,46) 
 Tổng 111 39 150 
 Trẻ không được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu làm tăng nguy 
cơ mắc TCM nặng. 
Bảng 3.18. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và bệnh 
TCM nặng 
Suy dinh dƣỡng 
thể nhẹ cân 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Nhẹ cân Không NC 
Nhóm 
bệnh 
Nhẹ cân 6 33 39 2,06 
Không NC 16 95 111 (1,10-4,01) 
 Tổng 22 128 150 
 Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân làm tăng nguy cơ mắc TCM nặng. 
16 
Bảng 3.19. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thể thấp còi và bệnh TCM 
nặng 
Suy dinh dƣỡng 
thể thấp còi 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Thấp còi Không TC 
Nhóm 
bệnh 
Thấp còi 12 43 55 2,26 
Không TC 19 76 95 (1,29-4,11) 
 Tổng 31 119 150 
 Trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi làm tăng nguy cơ mắc TCM nặng. 
3.2.3. Các yếu tố thuộc về người mẹ 
 Các yếu tố không liên quan đến mắc TCM nặng của con: nghề 
nghiệp của mẹ (nông dân), hiểu biết của mẹ về bệnh TCM, đưa con 
đến khám ngay khi trẻ ốm. 
Bảng 3.23. Liên quan giữa học vấn của mẹ và mắc TCM nặng 
Học vấn của mẹ thấp 
Tiểu học trở xuống 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 2 17 19 3,40 
Không 5 126 31 (1,20 - 11,79) 
 Tổng 7 143 150 
 Trẻ có mẹ học vấn thấp làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng 
Bảng 3.28. Liên quan giữa mức thực hành chăm sóc trẻ ốm của mẹ 
và mắc TCM nặng của con 
Số thực hành đúng Tần số Tỷ lệ % 
1 3 1.00 
2 23 7.67 
3 71 23.67 
4 52 17.33 
5 55 18.33 
6 49 16.33 
7 32 10.67 
8 15 5.00 
Tổng 300 100,00 
Trung bình: 4,61; độ lệch chuẩn: 1,69 
OR = 0,60 (KTC 95%: 0,50 - 0,73); p < 0,001 
 Mẹ có điểm thực hành chăm sóc trẻ ốm đúng càng cao thì nguy cơ 
mắc TCM nặng của con càng thấp. 
17 
3.2.4. Một số yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng 
3.2.4.1. Các dấu hiệu lâm sàng 
Bảng 3.31. Liên quan giữa sốt cao trên 39oC và mắc TCM nặng 
Sốt cao trên 39OC 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 52 71 123 7,10 
Không 10 17 27 (3,64-15,44) 
 Tổng 62 88 150 
 Sốt cao trên 39oC làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng. 
Bảng 3.32. Liên quan giữa sốt trên 38,5oC và kéo dài và mắc TCM nặng 
Sốt cao trên 38,5OC 
kéo dài trên 3 ngày 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 18 87 105 8,70 
Không 10 35 45 (4,51-18,78) 
 Tổng 28 122 150 
 Sốt kéo dài (SKD) trên 38,5oC trên 3 ngày làm tăng nguy cơ mắc 
TCM nặng. 
Bảng 3.33. Liên quan giữa bệnh sử giật mình và mắc TCM nặng 
Bệnh sử giật mình Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 58 77 135 25,67 
Không 3 12 15 (8,46-127,19) 
 Tổng 61 89 150 
 Bệnh nhân có bệnh sử giật mình làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM 
nặng. 
Bảng 3.34. Liên quan giữa không loét miệng và mắc TCM nặng 
Không loét miệng Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 19 57 76 4,75 
Không 12 62 74 (2,52-9,73) 
 Tổng 31 119 150 
18 
 Bệnh nhân không có dấu hiệu loét miệng (LM) làm tăng nguy cơ 
mắc bệnh TCM nặng. 
3.2.4.2. Các dấu hiệu cận lâm sàng 
Bảng 3.38. Liên quan giữa số lượng bạch cầu và mắc TCM nặng 
Tăng số lƣợng 
bạch cầu 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 3 29 32 4,83 
Không 6 112 118 (1,97-14,24) 
 Tổng 9 141 150 
 Bệnh nhân có số lượng bạch cầu ≥ 15,0 (K/µl) làm tăng nguy cơ 
mắc bệnh TCM nặng. 
Bảng 3.39. Liên quan giữa số lượng tiểu cầu và mắc TCM nặng 
Tăng số lƣợng 
tiểu cầu 
Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% Có Không 
Nhóm 
bệnh 
Có 44 59 103 2,81 
Không 21 26 47 (1,62-4,87) 
 Tổng 65 85 150 
 Bệnh nhân có số lượng tiểu cầu ≥ 300 (K/µl) làm tăng nguy cơ 
mắc bệnh TCM nặng 
Bảng 3.41. Liên quan giữa nhiễm EV71 và mắc TCM nặng 
Nhiễm Enterovirus Nhóm chứng 
Tổng 
OR 
KTC 95% EV71 EV khác 
Nhóm 
bệnh 
EV71 58 57 115 3,80 
EV khác 15 20 35 (2,12-7,23) 
 Tổng 73 77 150 
 Bệnh nhân nhiễm EV71 làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng 
19 
PHÂN TÍCH ĐA BIẾN 
 Trong phân tích đơn biến, các yếu tố trước khi nhập viện và yếu 
tố lâm sàng, cận lâm sàng có liên quan đến nguy cơ mắc TCM nặng 
với giá trị p < 0,20 là: 
 Các yếu tố trước khi nhập viện và các dấu hiệu lâm sàng: (1) diện 
tích nhà ở bình quân, (2) không được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng 
đầu; (3) suy dinh dưỡng thể nhẹ cân; (4) suy dinh dưỡng thể thấp còi; 
(5) suy dinh dưỡng thể gầy còm; (6) học vấn của mẹ thấp; (7) chăm 
sóc trẻ ốm; (8) không đến khám ban đầu tại cơ sở y tế; (9) sốt cao > 
39
o
C; (10) sốt kéo dài (sốt trên 38,5oC và kéo dài trên 3 ngày; (11) 
bệnh sử giật mình; (12) nôn ói. 
 Các yếu tố cận lâm sàng: (1) tăng bạch cầu; (2) tăng tiểu cầu. 
 Sau khi phân tích đa biến (hồi quy logistic có điều kiện) các yếu 
tố này, lựa chọn mô hình tối ưu chúng tôi được mô hình dưới đây. 
Bảng 3.42. Phân tích đa biến các yếu tố lâm sàng và bệnh TCM nặng 
Yếu tố OR KTC 95% p 
Mức chăm sóc trẻ ốm 0,63 0,44 - 0,91 0,013 
Gầy còm 6,71 1,01 - 44,58 0,049 
Sốt trên 38,5oC và trên 3 ngày 14,16 4,23 - 47,39 < 0,001 
Không loét miệng 13,78 3,50 - 54,32 < 0,001 
Bệnh sử giật mình 33,68 6,82 - 166,37 < 0,001 
 Các yếu tố: chăm sóc trẻ ốm đúng, suy dinh dưỡng thể gầy còm, 
sốt kéo dài, không loét miệng và bệnh sử giật mình là những yếu tố 
nguy cơ độc lập đối với tình trạng nặng của bệnh TCM. 
Bảng 3.43. Phân tích đa biến các yếu tố cận lâm sàng và bệnh TCM nặng 
Yếu tố OR KTC 95% p 
Tăng bạch cầu 4,15 1,67 - 10,33 0,002 
Tăng tiểu cầu 2,57 1,53 - 4,31 < 0,001 
 Các yếu tố: tăng bạch cầu và tăng tiểu cầu là những yếu tố nguy 
cơ độc lập đối với tình trạng nặng của bệnh TCM. 
20 
Chƣơng 4 
BÀN LUẬN 
4.1. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng 
 Tuổi mắc bệnh: nhóm dưới 5 tuổi chiếm tỷ lệ 96,67% trong số 
9.010 ca TCM. Ở trẻ dưới 5 tuổi, tỷ lệ mắc/100.000 xuất hiện ở nhóm 
tuổi dưới 12 (tháng), sau đó tăng lên nhanh chóng ở nhóm tuổi 12-23 
(tháng) rồi bắt đầu giảm dần cho đến nhóm tuổi 48-59 (tháng). Kết 
quả này tương tự với kết quả nghiên cứu ở các vùng miền khác ở 
Việt Nam cũng như các nước trong khu vực. Tỷ lệ mắc bệnh TCM ở 
những nhóm tuổi khác nhau được cho liên quan đến kháng thể kháng 
enterovirus trong những năm đầu của cuộc sống. Nhóm tuổi mắc 
bệnh TCM cao nhất là từ 1-3 tuổi (chiếm 61,1%). Lứa tuổi này chưa 
có khả năng tự vệ sinh cá nhân, trong khi đó tỷ lệ người lành mang 
trùng trong cộng đồng cao (từ 50%-70%) làm khả năng kiểm soát 
bệnh TCM trong cộng đồng gặp nhiều khó khăn. 
 Giới mắc bệnh: trong 4 năm từ 2012-2015, tỷ suất mắc bệnh ở Nam 
luôn cao hơn Nữ. Kết quả này cũng phù hợp với các kết quả khác ở 
Việt Nam và khu vực. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu kháng thể kháng 
enterovirus ở Nam và Nữ lại cho thấy kháng thể ở 2 giới là tương tự 
nhau. Do kết quả của chúng tôi ghi nhận các ca TCM tại hệ thống giám 
từ các cơ sở y tế nên có lẻ kết quả tỷ số mắc nam/nữ lớn hơn 1 được 
giải thích là (i) nam có đặc tính hiếu động, dễ tiếp xúc với nhiều nguồn 
lây hơn, do đó dễ mắc bệnh TCM hơn; (ii) ở những nước châu Á, nam 
được coi trọng hơn nữ cho nên nam mắc bệnh TCM thường được gia 
đình đưa đến cơ sở y tế khám và điều trị nhiều hơn. 
 Dân tộc mắc bệnh: tỷ lệ mắc TCM (trên 100.000) ở người Kinh 
cao hơn so với người dân tộc thiểu số trong giai đoạn 4 năm nghiên 
cứu. Từ kết quả nghiên cứu này, chúng tôi cũng không chắc rằng khả 
năng mắc bệnh TCM của người Kinh là cao hơn người dân tộc thiểu 
số, bởi vì còn nhiều lý do khác nhau liên quan đến việc ghi nhận các 
ca bệnh như: quyết định của bệnh nhân đến khám tại các cơ sở y tế, 
21 
bệnh nhẹ triệu chứng không rõ ràng cũng như những hạn chế của hệ 
thống giám sát ca bệnh TCM. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào báo 
cáo khả năng mắc bệnh ở người Kinh và ở người dân tộc thiểu số, vì 
vậy cần có thêm những nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề này. 
 Thời gian mắc bệnh: cũng như các vùng khác ở Việt Nam, bệnh 
TCM ở Đắk Lắk xuất hiện rải rác quanh năm, tăng cao vào những 
tháng cuối năm (tháng 9, 10, 11) nên các biện pháp phòng, chống 
dịch phải được triển khai một cách thường xuyên và cần chú trọng 
hơn vào những tháng cuối năm. Do thời gian giới hạn (bốn năm), nên 
chúng tôi không xác định chu kỳ dịch. Một số nghiên cứu khác trong 
khu vực có thời gian giám sát bệnh dài đã cho thấy dịch TCM cũng 
có chu kỳ từ 2-4 năm. 
 Khu vực mắc bệnh: trong thời gian 4 năm, tất cả các huyện, thị ở 
Đắk Lắk đều xuất hiện bệnh TCM với tỷ lệ mắc/100.000 khác nhau. 
Chúng tôi chưa đủ thông tin để xác định yếu tố nào là quyết định cho 
sự xuất hiện và lan truyền của bệnh TCM theo các địa phương. Giả 
thuyết được đưa ra là điều kiện vệ sinh và ý thức vệ sinh cá nhân có thể 
là yếu tố quan trọng cho việc xuất hiện và lan truyền dịch bệnh này. 
4.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay 
chân miệng 
 Để tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh 
TCM, chúng tôi sử dụng thiết kế nghiên cứu bệnh chứng. Do không 
đủ ca bệnh TCM nặng ở Đắk Lắk (cũng như những tỉnh ở khu vực 
Tây Nguyên), chúng tôi phải lấy thêm số liệu tại Đồng Nai (nơi xuất 
hiện vụ dịch TCM vào năm 2014-2015). Kết quả là số ca bệnh TCM 
nặng thu thập được là 150 (120 ở Đắk Lắk và 30 ở Đồng Nai), số ca 
bệnh TCM nhẹ là 150 (120 ở Đắk Lắk và 30 ở Đồng Nai). Cứ mỗi ca 
bệnh TCM nặng, chúng tôi chọn một ca bệnh TCM nhẹ tại cùng một 
bệnh viện, có cùng nhóm tuổi, giới tính, dân tộc và địa bàn cư trú với 
ca bệnh TCM nặng. Vì vậy, dù các đối tượng nghiên cứu được chọn 
tại hai tỉnh khác nhau, thiết kế nghiên cứu này đảm bảo tính giá trị 
22 
khi khảo sát mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và tình trạng nặng 
của bệnh TCM. 
 Kết quả từ phân tích đa biến cho thấy có 5 yếu tố liên quan một 
cách độc lập đến bệnh TCM nặng là: mức điểm thực hành chăm sóc 
trẻ ốm của mẹ, suy dinh dưỡng thể gầy còm, sốt kéo dài (trên 38,5oC 
và trên 3 ngày), không có dấu hiệu loét miệng và bệnh sử giật mình. 
Trong một số nghiên cứu khác, các yếu tố liên quan đến TCM nặng có 
thể thay đổi tùy theo từng nghiên cứu. Các yếu tố này bao gồm: phát ban 
dạng sẩn, loét miệng, sốt cao và kéo dài trên 3 ngày, nôn ói nhiều, run 
chi, giật mình, ngủ gà, huyết áp bất thường, thở nhanh, mạch nhanh trên 
150 lần /phút, phù phổi, xuất huyết phổi, tăng bạch cầu, tăng lactate 
huyết thanh, tăng đường huyết, nhiễm EV71. Năm yếu tố từ nghiên cứu 
của chúng tôi có thể không trùng khớp với kết quả của một số nghiên 
cứu khác. Điều này có thể được giải thích là do ở các nghiên cứu khác, 
nhóm bệnh TCM nặng bao gồm nhiều mức độ nặng khác nhau (có cả 
những trường hợp viêm não, hôn mê, tử vong) làm cho việc xem xét các 
yếu tố nguy cơ có thể khác nhau ở các nghiên cứu. 
 Với các yếu tố cận lâm sàng: chúng tôi chỉ khảo sát các chỉ số 
huyết học bao gồm số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Dựa vào 
chỉ số hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu theo từng lứa tuổi, chúng tôi nhận 
nhận thấy số lượng hồng cầu không liên quan đến tình trạng nặng của 
bệnh TCM, nhưng số lượng bạch cầu và tiểu cầu thì có liên quan với 
OR tương ứng là 4,83 và 2,81. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng bạch 
cầu tăng là một yếu tố liên quan đến TCM nặng do tăng kích thích 
thần kinh giao cảm. Riêng đối với tiểu cầu, có rất ít nghiên cứu đề 
cập đến số lượng tiểu cầu và bệnh TCM nặng. 
 Như vậy, ngoài tác nhân gây bệnh là EV71 (ít khi được xác định 
tại tuyến y tế cơ sở), các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng này là 
những chỉ dấu giúp cán bộ y tế nhanh chóng tiên lượng khả năng 
nặng của bệnh TCM. Khi có kết hợp đồng thời các yếu tố này, khả 
năng bệnh TCM nặng càng cao. 
23 
KẾT LUẬN 
1. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tại tỉnh 
Đắk Lắk 
 Tỷ lệ mắc bệnh TCM trên 100.000 dân/năm trong thời gian từ 
2012 đến 2015 tương ứng là 277,1; 105,8; 85,4; 28,7 
 Tuổi mắc bệnh: bệnh xảy ra chủ yếu trẻ em, dưới 5 tuổi chiếm 
96,7%, dưới 3 tuổi chiếm 79,6% trong tổng số mắc. Tỷ lệ mắc TCM 
cao nhất ở nhóm 1 tuổi (12-23 tháng), sau đó tỷ lệ mắc giảm dần cho 
đến 5 tuổi. 
 Nam mắc nhiều hơn nữ: tỷ suất mắc nam/nữ từ 1,29 đến 1,53 
 Thời gian mắc: bệnh xuất hiện rải rác vào các tháng quanh năm, 
có 2 đỉnh dịch vào tháng 3 đến 5 và tháng 9 đến 11. Năm 2012 được 
xem là năm dịch trong giai đoạn này 
 Địa bàn xuất hiện bệnh: bệnh xuất hiện ở tất cả các địa bàn trong 
toàn tỉnh Đắk Lắk 
2. Những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay 
chân miệng 
 Ở cùng độ tuổi, cùng giới tính, cùng dân tộc và cùng nơi cư trú, 
trẻ mắc bệnh tay chân miệng có những yếu tố nguy cơ của bệnh tay 
chân miệng nặng là: 
 - Trẻ suy dinh dưỡng thể gầy còm có khả năng mắc bệnh tay chân 
miệng nặng cao hơn 6,71 lần (KTC 95%: 1,01-44,58) so với trẻ 
không bị suy dinh dưỡng thể thấp còi. 
 - Trẻ thuộc bà mẹ có mức điểm chăm sóc trẻ ốm càng tốt thì khả 
mắc bệnh tay chân miệng của trẻ càng thấp với OR = 0,63 lần (KTC 
95%: 0,44-0,91). 
 - Trẻ sốt cao trên 38,5oC và kéo dài trên 3 ngày có khả nặng mắc 
bệnh tay chân miệng nặng gấp 14,16 lần (KTC 95%: 4,23-47,39) 
 - Trẻ không có dấu hiệu loét ở miệng làm tăng nguy cơ mắc tay 
chân miệng nặng gấp 13,78 lần (KTC 95%: 3,50-54,32). 
 - Bệnh sử có giật mình làm gia tăng khả năng mắc tay chân miệng 
nặng gấp 33,68 lần (KTC 95%: 6,82-166,37) 
24 
 Ngoài ra, có hai xét nghiệm huyết học liên quan đến tình trạng 
nặng của bệnh tay chân miệng là tăng bạch cầu (OR=4,15; KTC95% 
1,67-10,33) và tăng tiểu cầu (OR=2,57; KTC95% 1,53-4,31) 
 Cuối cùng tác nhân gây bệnh là EV71 cũng tăng khả năng mắc tay 
chân miệng nặng với OR=3,80; KTC 95% 2,12-7,23 
KIẾN NGHỊ 
- Giáo dục cho các bà mẹ về lợi ích của bú sữa mẹ trong 6 tháng 
đầu của trẻ. 
- Hướng dẫn các bà mẹ về lợi ích của việc chăm sóc nuôi dưỡng 
khi trẻ ốm và không nên tự ý mua thuốc điều trị khi trẻ ốm. Các bác sĩ 
tuyến cơ sở - nơi không đủ điều kiện để xác định tác nhân gây bệnh, 
cũng như thiếu các trang thiết bị điều trị hỗ trợ - lưu ý đến những yếu 
tố, dấu hiệu liên quan đến khả năng mắc TCM nặng như: suy dinh 
dưỡng, sốt cao, không có dấu hiệu loét miệng, bệnh sử giật mình nhằm 
có hướng xử trí thích hợp: giữ lại hoặc chuyển tuyến kịp thời. 
25 
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ 
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Thái Quang Hùng, Trần Đình Bình & Đinh Thanh Huề (2013), 
"Nhiễm enterovirus 71 (EV71): Virus học, dịch tễ học, biểu hiện 
lâm sàng và biện pháp phòng chống", Tạp chí Y Dược học-
Trường Đại học Y Dược Huế, 18, tr. 5-12. 
2. Thái Quang Hùng, Đinh Thanh Huề & Trần Đình Bình (2014), 
"Phân bố bệnh tay chân miệng và mối liên quan đến một số yếu tố 
khí hậu ở tỉnh Đắk Lắk năm 2012-2013", Tạp chí Y Dược học-
Trường Đại học Y Dược Huế, 22+23, tr. 192-198. 
3. Thái Quang Hùng, Đinh Thanh Huề & Trần Đình Bình (2017), 
"Một số yếu tố nguy cơ của bệnh tay chân miệng nặng", Tạp chí Y 
học cộng đồng, 36, tr. 6-11. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_dac_diem_dich_te_hoc_benh_tay_chan_mieng_tin.pdf