Tóm tắt Luận án Đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng
Bệnh tay chân miệng là bệnh thường gặp ở trẻ em với đặc trưng là
sốt nhẹ kèm phát ban điển hình dạng sẩn mụn nước ở lòng bàn tay
hoặc lòng bàn chân, có hoặc không có loét miệng. Hầu hết các trường
hợp bệnh đều diễn biến nhẹ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
bệnh có thể diễn biến nặng và gây ra những biến chứng nguy hiểm
như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong
nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Ở Việt Nam, bệnh tay chân miệng là một trong những bệnh truyền
nhiễm cấp tính mới nổi trong hơn một thập niên trở lại đây. Theo Cục
Y tế dự phòng, năm 2011, cả nước có 110.890 ca mắc tay chân
miệng ở 63 tỉnh thành và có 169 trường hợp tử vong. Năm 2012,
bệnh tay chân miệng có số mắc đứng thứ hai và số chết đứng thứ ba
trong số 10 bệnh truyền nhiễm có số mắc và chết cao ở Việt Nam.
Đắk Lắk là một trong số những tỉnh thành có số mắc tay chân
miệng cao ở Việt Nam và có số mắc cao nhất trong các tỉnh ở Tây
Nguyên. Riêng tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, số mắc trong
năm 2011 là 745 trong đó có 2 trường hợp tử vong.
Bệnh tay chân miệng hiện đang là vấn đề sức khỏe công cộng ở
Việt Nam cũng như ở tỉnh Đắk Lắk. Thứ nhất, đây là bệnh truyền
nhiễm mới nổi trong một khoảng thời gian gần đây với số mắc cao,
trong đó có một số trường hợp xuất hiện biến chứng và một số ít
trường hợp gây tử vong, gây lo lắng cho người dân và gây quá tải cho
các bệnh viện vốn đã quá đông. Thứ hai là các thông tin về bệnh tay
chân miệng ở Việt Nam cũng như ở Đắk Lắk còn ít, đặc biệt là
những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nặng nhẹ của bệnh tay chân
miệng. Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc điểm
dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên
quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng” với hai mục
tiêu nghiên cứu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tại
tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015.
2. Xác định những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh
tay chân miệng ở bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk và bệnh viện Nhi
Đồng Nai.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng
ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÁI QUANG HÙNG NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC BỆNH TAY CHÂN MIỆNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÌNH TRẠNG NẶNG CỦA BỆNH Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số: 62 72 76 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HUẾ - 2017 Công trình được hoàn thành tại: ĐẠI HỌC HUẾ - TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC Người hướng dẫn khoa học 1. PGS.TS. ĐINH THANH HUỀ 2. PGS.TS. TRẦN ĐÌNH BÌNH Phản biện 1: Phản biện 2: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế Vào lúc: ngày tháng năm 20 Có thể tìm hiểu Luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Trường Đại học Y Dược Huế 1 MỞ ĐẦU Bệnh tay chân miệng là bệnh thường gặp ở trẻ em với đặc trưng là sốt nhẹ kèm phát ban điển hình dạng sẩn mụn nước ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân, có hoặc không có loét miệng. Hầu hết các trường hợp bệnh đều diễn biến nhẹ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, bệnh có thể diễn biến nặng và gây ra những biến chứng nguy hiểm như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Ở Việt Nam, bệnh tay chân miệng là một trong những bệnh truyền nhiễm cấp tính mới nổi trong hơn một thập niên trở lại đây. Theo Cục Y tế dự phòng, năm 2011, cả nước có 110.890 ca mắc tay chân miệng ở 63 tỉnh thành và có 169 trường hợp tử vong. Năm 2012, bệnh tay chân miệng có số mắc đứng thứ hai và số chết đứng thứ ba trong số 10 bệnh truyền nhiễm có số mắc và chết cao ở Việt Nam. Đắk Lắk là một trong số những tỉnh thành có số mắc tay chân miệng cao ở Việt Nam và có số mắc cao nhất trong các tỉnh ở Tây Nguyên. Riêng tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, số mắc trong năm 2011 là 745 trong đó có 2 trường hợp tử vong. Bệnh tay chân miệng hiện đang là vấn đề sức khỏe công cộng ở Việt Nam cũng như ở tỉnh Đắk Lắk. Thứ nhất, đây là bệnh truyền nhiễm mới nổi trong một khoảng thời gian gần đây với số mắc cao, trong đó có một số trường hợp xuất hiện biến chứng và một số ít trường hợp gây tử vong, gây lo lắng cho người dân và gây quá tải cho các bệnh viện vốn đã quá đông. Thứ hai là các thông tin về bệnh tay chân miệng ở Việt Nam cũng như ở Đắk Lắk còn ít, đặc biệt là những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nặng nhẹ của bệnh tay chân miệng. Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tỉnh Đắk Lắk và các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng” với hai mục tiêu nghiên cứu sau: 2 1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015. 2. Xác định những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng ở bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk và bệnh viện Nhi Đồng Nai. - Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án + Ý nghĩa khoa học Bổ sung những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng thông qua nghiên cứu bệnh chứng. + Ý nghĩa thực tiễn Nhận ra một số yếu tố liên quan đến bệnh tay chân miệng nặng là rất quan trọng. Dựa vào các yếu tố liên quan này, các nhân viên y tế ở tuyến y tế cơ sở có thể nhanh chóng phân loại bệnh nhân tay chân miệng và có thái độ xử lý thích hợp: chuyển bệnh nhân tay chân miệng có nguy cơ cao xuất hiện biến chứng vào bệnh viện sớm để theo dõi chặt chẽ và xử lý tiếp theo, trong khi những người có nguy cơ thấp có thể được chăm sóc ngoại trú sau khi được tư vấn về cách chăm sóc và theo dõi tại nhà. Cấu trúc luận án: gồm 114 trang (không kể tài liệu tham khảo và phụ lục với 4 chương: 43 bảng, 1 hình, 3 sơ đồ, 6 biểu đồ và 122 tài liệu tham khảo. Đặt vấn đề: 3 trang, tổng quan tài liệu: 34 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 20 trang, kết quả nghiên cứu 28 trang, bàn luận: 26 trang, kết luận: 2 trang và kiến nghị: 1 trang. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giới thiệu bệnh tay chân miệng Theo định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới: bệnh tay chân miệng (TCM) là bệnh thường gặp ở trẻ em với đặc trưng là sốt nhẹ kèm phát ban điển hình ở da, có hoặc không có loét miệng. Thông thường, phát ban điển hình dạng sẩn mụn nước ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân, hoặc cả lòng bàn tay, bàn chân. 3 1.1.1. Tác nhân gây bệnh Những virus gây ra bệnh TCM thuộc nhóm Enterovirus, họ Picornaviridae. Họ này gồm 2 giống: Enterovirus và Rhinovirus. Đặc điểm chung của các virus trong họ Picornaviridae là nhỏ, chứa RNA một sợi dương, capsid đối xứng hình khối, không có bao ngoài. Dựa theo giải trình tự gen, enterovirus được chia thành bốn loài: A, B, C và D. Enterovirus 71 (EV71) và Coxsackie A16 được xếp vào loài A. 1.1.2. Chuỗi lan truyền bệnh 1.1.2.1. Nguồn truyền nhiễm Người là vật chủ tự nhiên và duy nhất trong bệnh TCM. - Người bệnh và người vừa khỏi bệnh: thời kỳ lây truyền bệnh TCM mạnh nhất trong tuần đầu của bệnh. Virus có thể tiếp tục được bài tiết từ dịch hầu họng hoặc phân đến sau 2 tuần, cá biệt có thể tới 11 tuần kể từ khi khởi bệnh. - Người lành mang trùng: tỷ lệ người lành mang trùng có thể khác nhau tùy nghiên cứu, tỷ lệ này dao động trong khoảng từ 50% đến 71%. 1.1.2.2. Đường bài xuất Mầm bệnh thoát ra khỏi cơ thể người nhiễm bằng 3 đường: chất tiết hầu họng, dịch mụn nước sang thương ở da niêm, phân và thời gian bài xuất kéo dài đến 11 tuần kể từ ngày khởi phát. 1.1.2.3. Phương thức lây nhiễm Kiểu lây truyền bệnh TCM là qua cả đường trực tiếp (tiếp xúc gần) và lẫn đường gián tiếp (qua vật dụng, đồ chơi nhiễm bẩn). Biện pháp kiểm soát bệnh TCM do đó cũng đa dạng và khó khăn hơn so với bệnh truyền nhiễm chỉ có một kiểu lây truyền duy nhất. 1.1.2.4. Đường xâm nhập Sự xâm nhập của virus vào tế bào vật chủ phụ thuộc vào các thụ thể đặc hiệu như: thụ thể poliovirus (CD155), 3 integrins (α2β1, αvβ3, và αvβ6), yếu tố gây tăng phân rã (decay accelerating factor - CD55), thụ 4 thể coxsackievirus-adenovirus, và phân tử kết dính gian bào. Các thụ thể này có nhiều ở đường tiêu hóa, đường hô hấp ở người. 1.1.2.5. Khối cảm nhiễm Tính cảm thụ của vật chủ tùy thuộc vào yếu tố di truyền (tỷ lệ nhiễm EV71 cao tương ứng với tỷ lệ HLA-A33 cao ở người châu Á), tính miễn dịch mắc phải đặc hiệu (tỷ lệ huyết thanh kháng CV A16 và EV71 thấp ở trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ này tăng dần theo từng năm và đạt ngưỡng 50% ở tuổi trên 5 tuổi) và những yếu tố chung khác. 1.1.3. Triệu chứng lâm sàng Triệu chứng ở da niêm. Dấu hiệu điển hình của bệnh tay chân miệng là sốt nhẹ và phát ban dạng sẩn-mụn nước trên lòng bàn tay, bàn chân và nhiều sang thương loét ở miệng. Trong vụ dịch một số trẻ có thể chỉ có viêm họng mụn nước (VHMN) với sốt và vết loét chủ yếu ảnh ở thành sau khoang miệng, lưỡi gà, amidan, và vòm miệng. Trong hầu hết các trường hợp, nhiễm enterovirus cấp tính là lành tính, tự giới hạn. Các tổn thương ở da khỏi một cách tự nhiên, không để lại sẹo. Tuy nhiên, những năm gần đây các vụ dịch TCM do EV71 tại Châu Á đã ghi nhận những trường hợp bệnh nghiêm trọng kèm theo triệu chứng thần kinh trung ương, suy tuần hoàn hô hấp và đôi khi gây tử vong. Triệu chứng ở thần kinh trung ương và toàn thân Các biến chứng hay gặp trong bệnh TCM là viêm thân não, viêm màng não vô khuẩn, viêm thân não kèm rối loạn chức năng tim mạch. Tỷ lệ xuất hiện biến chứng thần kinh trung ương (có ít nhất một triệu chứng do tổn thương thần kinh) ở những bệnh nhân TCM nhập viện điều trị dao động khá lớn, từ 10% đến 48%, tùy theo báo cáo của các bệnh viện nhưng tỷ lệ xuất hiện biến chứng là không đáng kể (dưới 1%), nếu số liệu được thu thập từ hệ thống giám sát quốc gia. Triệu chứng toàn thân: trẻ có thể có các dấu hiệu rối loạn thần kinh thực vật như vã mồ hôi lạnh, đốm da, nhịp tim nhanh, thở 5 nhanh, tăng huyết áp và tăng đường huyết, có nguy cơ tiến triển nhanh chóng đến suy tim. 1.1.4. Chẩn đoán và phân độ lâm sàng Theo hướng dẫn của Bộ Y tế: Chẩn đoán bệnh TCM dựa vào triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm tác nhân (nếu có điều kiện) và các yếu tố dịch tễ. Phân độ lâm sàng Độ 1: chỉ có loét miệng hoặc tổn thương da Độ 2: chia thành 2a và 2b. Độ 2b Có thêm các biểu hiện thần kinh trung ương Độ 3: xuất hiện các triệu chứng tim mạch, hô hấp Độ 4: shock / phù phổi cấp Kể từ độ 2b trở lên, bệnh TCM được xếp vào nhóm có biến chứng và cần được chăm sóc và điều trị tại bệnh viện tuyến tỉnh. 1.2. Phân bố bệnh TCM Bệnh TCM do enterovirus gây ra phân bố khắp toàn cầu, nhưng khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là khu vực vực Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc...) và Đông Nam Á (Việt Nam, Malayxia, Singapore...) Bệnh có xu hướng gia tăng và duy trì ở mức cao trong những năm gần đây. Bệnh TCM xảy ra chủ yếu ở trẻ em < 5 tuổi, chiếm tỷ lệ từ 85% đến 96% trong các vụ dịch. Trong số những trẻ mắc bệnh TCM, trẻ trai thường chiếm ưu thế. Theo kết quả của một số nghiên cứu, tỉ số mắc bệnh giữa nam và nữ từ 1,4 đến 1,9. Giống như các enterovirus khác, mô hình gây bệnh của EV71 theo mùa rõ rệt và thay đổi theo khu vực địa lý. Việt Nam Ở miền Nam Việt Nam, dịch viêm não cấp liên quan đến bệnh TCM đã được báo cáo lần đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2003. Đến năm 2005, hệ thống giám sát trọng điểm tại bệnh 6 viện nhi thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận được 764 trẻ em mắc bệnh TCM, với hầu hết các trường hợp (96,2%) là trẻ dưới năm tuổi. Tất cả các bệnh nhân đều được lấy mẫu bệnh phẩm và HEV được phân lập từ 411 bệnh nhân. Trong số đó, 173 (42,1%) là EV71, và 214 (52,1%) là CA16. Trong số những bệnh nhân nhiễm EV71, 51 (29,3%) có biến chứng thần kinh cấp và 3 (chiếm 1,7%) trường hợp tử vong. Ở miền Bắc Việt Nam, EV71/C4 đã được xác định ở một bệnh nhân viêm não cấp vào năm 2003. Từ năm 2005 đến năm 2007, EV71/C5 được xác định ở 7 bệnh nhân liệt mềm cấp tính. Tất cả các trường hợp mắc đều dưới 5 tuổi. Trong năm 2008, 88 trường hợp bệnh TCM được báo cáo từ 13 tỉnh. Kết quả phân lập virus từ 88 trường hợp này xác nhận rằng 33 trường hợp (37,5%) có enterovirus dương tính, trong đó có 9 (27,3%) là EV71, 23 (69,7%) là CV A16, và 1 là CVA10. Không xảy ra trường hợp nghiêm trọng hoặc tử vong nào. Phần lớn các trường hợp bệnh dưới 5 tuổi. Trong giai đoạn từ 2008 đến 2010-giai đoạn giám sát trọng điểm- số ca mắc bệnh TCM trung bình tại khu vực phía Nam là 10.000 ca/năm với tỉ suất chết/mắc là 0,2%. Bệnh tăng cao vào các tháng cuối năm (từ tháng 9 đến tháng 11) và lưu hành phổ biến tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Bệnh xuất hiện nhiều ở trẻ dưới 2 tuổi (78,29%) và nam có tỉ lệ mắc bệnh nhiều hơn nữ (61,43%). Trong số 350 bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm, 216 (61,71%) trường hợp xác định dương tính với các tác nhân virus đường ruột bao gồm EV71 (22%, 77/216) và các EV khác như Coxackie A16, Echo (chiếm 39,71%, 139/216). Từ năm 2011, bệnh TCM chính thức được đưa vào hệ thống báo cáo thường quy theo quy định tại Thông tư số 48/2010/TT-BYT, ngày 31/12/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Ngay trong năm này, hệ thống giám sát bệnh TCM ở khu vực phía Nam ghi nhận có sự gia tăng đột biến về ca mắc và tử vong, với số ca mắc gấp 6 lần, số ca tử vong gấp 6 - 24 lần so với giai đoạn 2008 - 2010. Tỉ lệ chết/mắc là 7 0,2%. Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở nhóm trẻ dưới 3 tuổi (chiếm 80%). Trước đây bệnh TCM có hai đỉnh dịch trong năm. Năm 2011 dịch chỉ có 1 đỉnh vào tháng 9-10. Năm 2012, theo Cục Y tế dự phòng bệnh TCM có số mắc đứng thứ 2 và số chết đứng thứ 3 trong 10 bệnh truyền nhiễm có số mắc và chết cao nhất ở Việt Nam. Tỷ lệ dương tính với Enterovirus chiếm từ 42,7% đến 83,1%, và trong số đó tỷ lệ dương tính với EV71 chiếm từ 40,2% đến 79,4% tùy theo vùng miền. 1.3. Các yếu tố nguy cơ của bệnh tay chân miệng nặng Tác nhân gây bệnh EV71 thường là tác nhân gây ra các vụ dịch TCM nặng. Tuy nhiên, EV71 có nhiều phân nhóm gen và phân nhóm nào quyết định mức độ trầm trọng của bệnh TCM vẫn chưa được biết. Các yếu tố khác HLA-A33 được cho là có liên quan đến tính cảm nhiễm EV71. Tính miễn dịch: trẻ có độ tuổi từ 1-5 thì mắc bệnh TCM nặng, có nhiều biến chứng thần kinh hơn so với trẻ trên 5 tuổi. Có lẽ vì khả năng miễn dịch ở trẻ em dưới 5 là thấp so với trẻ trên 5 tuổi. Các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng: sốt, thời gian kéo dài của sốt, không loét miệng, giật mình, ngủ gà, mạch nhanh, thở nhanh, tăng bạch cầu, tăng đường huyết là những dấu hiệu của bệnh TCM nặng. Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nhằm trả lời hai mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hai thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang và nghiên cứu bệnh chứng bắt cặp. 2.1. Nghiên cứu cắt ngang Toàn bộ ca bệnh TCM từ hệ thống giám sát trong giai đoạn 2012- 2015 được thu thập để mô tả các đặc điểm về con người, thời gian, 8 không gian. Đồng thời sử dụng dân số của tỉnh Đắk Lắk tương ứng theo từng năm để ước tính tỷ lệ mắc bệnh TCM. Ca bệnh được xác định dựa theo hướng dẫn của Bộ Y Tế. Tính tỷ lệ mắc bệnh TCM (trên 100.000) theo nhóm tuổi, theo giới, theo dân tộc, theo địa bàn cư trú. Tỷ lệ mắc TCM theo các tháng trong giai đoạn 2012-2015. Ngưỡng cảnh báo dịch: . Trong đó, là số mắc trung bình trong năm; SE là sai số chuẩn. 2.2. Nghiên cứu bệnh chứng bắt cặp Ca bệnh và ca chứng đều là những trường hợp mắc TCM nhập viện điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk và bệnh viện Nhi Đồng Nai. Mỗi ca chứng được bắt cặp với ca bệnh về tuổi, giới, dân tộc và địa bàn cư trú. Nhóm bệnh và nhóm chứng được so sánh với nhau về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ nặng của bệnh. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nặng bệnh có thể chia thành bốn nhóm: (i) nhóm các yếu thuộc về gia đình, môi trường; (ii) nhóm các yếu tố thuộc bản thân trẻ mắc bệnh; (iii) nhóm các yếu tố thuộc về người mẹ; (iii) nhóm các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng. 2.2.1. Định nghĩa ca bệnh và ca chứng Định nghĩa ca bệnh TCM: (i) có san thương điển hình ở da, niêm mạc; (ii) hoặc có bóng nước hoặc vết loét ở vòm khẩu cái, niêm mạc má, nướu, lưỡi, (iii) và xét nghiệm PCR dương tính với EV hoặc EV71. Định nghĩa ca bệnh trong nghiên cứu: bao gồm tiêu chí định nghĩa ca bệnh TCM và phân độ lâm sàng từ độ 2b trở lên (Bộ Y Tế). Định nghĩa ca chứng trong nghiên cứu: bao gồm tiêu chí định nghĩa ca bệnh TCM và phân độ lâm sàng từ độ 1 đến 2a (Bộ Y Tế) 2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu Số cặp các đối tượng cần thiết cho nghiên cứu được tính dựa theo công thức: 9 2 2 2 1 /2 1 2 ( +1)+Z ( +1) ( 1) ( 1) Z OR OR OR n OR Với các giả định sau: OR ≥ 2, giả định sự khác biệt về phơi nhiễm giữa ca bệnh và ca chứng là π=0,3 và sai lầm α=0,05, β=0,20, tỷ số bệnh chứng là 1:1. Cỡ mẫu n = 137. Thêm 10% số mẫu đề phòng mất thông tin, cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 150 cặp (150 bệnh và 150 chứng). 2.2.3. Chọn mẫu nghiên cứu Chọn nhóm bệnh: (i) Tất cả các ca được bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk chẩn đoán mắc TCM nặng (độ 2b trở lên), nhập viện từ ... a trẻ (con thứ), số con trong gia đình (≥ 3), suy dinh dưỡng thể gầy còm, tình trạng tiêm chủng (không đầy đủ), tiếp xúc nhóm (nhà trẻ) Bảng 3.17. Liên quan giữa không bú mẹ hoàn toàn và mắc TCM nặng Không đƣợc bú mẹ hoàn toàn Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 93 33 126 1,83 Không 18 6 24 (1,01-3,46) Tổng 111 39 150 Trẻ không được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu làm tăng nguy cơ mắc TCM nặng. Bảng 3.18. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và bệnh TCM nặng Suy dinh dƣỡng thể nhẹ cân Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Nhẹ cân Không NC Nhóm bệnh Nhẹ cân 6 33 39 2,06 Không NC 16 95 111 (1,10-4,01) Tổng 22 128 150 Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân làm tăng nguy cơ mắc TCM nặng. 16 Bảng 3.19. Liên quan giữa suy dinh dưỡng thể thấp còi và bệnh TCM nặng Suy dinh dƣỡng thể thấp còi Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Thấp còi Không TC Nhóm bệnh Thấp còi 12 43 55 2,26 Không TC 19 76 95 (1,29-4,11) Tổng 31 119 150 Trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi làm tăng nguy cơ mắc TCM nặng. 3.2.3. Các yếu tố thuộc về người mẹ Các yếu tố không liên quan đến mắc TCM nặng của con: nghề nghiệp của mẹ (nông dân), hiểu biết của mẹ về bệnh TCM, đưa con đến khám ngay khi trẻ ốm. Bảng 3.23. Liên quan giữa học vấn của mẹ và mắc TCM nặng Học vấn của mẹ thấp Tiểu học trở xuống Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 2 17 19 3,40 Không 5 126 31 (1,20 - 11,79) Tổng 7 143 150 Trẻ có mẹ học vấn thấp làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng Bảng 3.28. Liên quan giữa mức thực hành chăm sóc trẻ ốm của mẹ và mắc TCM nặng của con Số thực hành đúng Tần số Tỷ lệ % 1 3 1.00 2 23 7.67 3 71 23.67 4 52 17.33 5 55 18.33 6 49 16.33 7 32 10.67 8 15 5.00 Tổng 300 100,00 Trung bình: 4,61; độ lệch chuẩn: 1,69 OR = 0,60 (KTC 95%: 0,50 - 0,73); p < 0,001 Mẹ có điểm thực hành chăm sóc trẻ ốm đúng càng cao thì nguy cơ mắc TCM nặng của con càng thấp. 17 3.2.4. Một số yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng 3.2.4.1. Các dấu hiệu lâm sàng Bảng 3.31. Liên quan giữa sốt cao trên 39oC và mắc TCM nặng Sốt cao trên 39OC Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 52 71 123 7,10 Không 10 17 27 (3,64-15,44) Tổng 62 88 150 Sốt cao trên 39oC làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng. Bảng 3.32. Liên quan giữa sốt trên 38,5oC và kéo dài và mắc TCM nặng Sốt cao trên 38,5OC kéo dài trên 3 ngày Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 18 87 105 8,70 Không 10 35 45 (4,51-18,78) Tổng 28 122 150 Sốt kéo dài (SKD) trên 38,5oC trên 3 ngày làm tăng nguy cơ mắc TCM nặng. Bảng 3.33. Liên quan giữa bệnh sử giật mình và mắc TCM nặng Bệnh sử giật mình Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 58 77 135 25,67 Không 3 12 15 (8,46-127,19) Tổng 61 89 150 Bệnh nhân có bệnh sử giật mình làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng. Bảng 3.34. Liên quan giữa không loét miệng và mắc TCM nặng Không loét miệng Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 19 57 76 4,75 Không 12 62 74 (2,52-9,73) Tổng 31 119 150 18 Bệnh nhân không có dấu hiệu loét miệng (LM) làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng. 3.2.4.2. Các dấu hiệu cận lâm sàng Bảng 3.38. Liên quan giữa số lượng bạch cầu và mắc TCM nặng Tăng số lƣợng bạch cầu Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 3 29 32 4,83 Không 6 112 118 (1,97-14,24) Tổng 9 141 150 Bệnh nhân có số lượng bạch cầu ≥ 15,0 (K/µl) làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng. Bảng 3.39. Liên quan giữa số lượng tiểu cầu và mắc TCM nặng Tăng số lƣợng tiểu cầu Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% Có Không Nhóm bệnh Có 44 59 103 2,81 Không 21 26 47 (1,62-4,87) Tổng 65 85 150 Bệnh nhân có số lượng tiểu cầu ≥ 300 (K/µl) làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng Bảng 3.41. Liên quan giữa nhiễm EV71 và mắc TCM nặng Nhiễm Enterovirus Nhóm chứng Tổng OR KTC 95% EV71 EV khác Nhóm bệnh EV71 58 57 115 3,80 EV khác 15 20 35 (2,12-7,23) Tổng 73 77 150 Bệnh nhân nhiễm EV71 làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh TCM nặng 19 PHÂN TÍCH ĐA BIẾN Trong phân tích đơn biến, các yếu tố trước khi nhập viện và yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng có liên quan đến nguy cơ mắc TCM nặng với giá trị p < 0,20 là: Các yếu tố trước khi nhập viện và các dấu hiệu lâm sàng: (1) diện tích nhà ở bình quân, (2) không được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu; (3) suy dinh dưỡng thể nhẹ cân; (4) suy dinh dưỡng thể thấp còi; (5) suy dinh dưỡng thể gầy còm; (6) học vấn của mẹ thấp; (7) chăm sóc trẻ ốm; (8) không đến khám ban đầu tại cơ sở y tế; (9) sốt cao > 39 o C; (10) sốt kéo dài (sốt trên 38,5oC và kéo dài trên 3 ngày; (11) bệnh sử giật mình; (12) nôn ói. Các yếu tố cận lâm sàng: (1) tăng bạch cầu; (2) tăng tiểu cầu. Sau khi phân tích đa biến (hồi quy logistic có điều kiện) các yếu tố này, lựa chọn mô hình tối ưu chúng tôi được mô hình dưới đây. Bảng 3.42. Phân tích đa biến các yếu tố lâm sàng và bệnh TCM nặng Yếu tố OR KTC 95% p Mức chăm sóc trẻ ốm 0,63 0,44 - 0,91 0,013 Gầy còm 6,71 1,01 - 44,58 0,049 Sốt trên 38,5oC và trên 3 ngày 14,16 4,23 - 47,39 < 0,001 Không loét miệng 13,78 3,50 - 54,32 < 0,001 Bệnh sử giật mình 33,68 6,82 - 166,37 < 0,001 Các yếu tố: chăm sóc trẻ ốm đúng, suy dinh dưỡng thể gầy còm, sốt kéo dài, không loét miệng và bệnh sử giật mình là những yếu tố nguy cơ độc lập đối với tình trạng nặng của bệnh TCM. Bảng 3.43. Phân tích đa biến các yếu tố cận lâm sàng và bệnh TCM nặng Yếu tố OR KTC 95% p Tăng bạch cầu 4,15 1,67 - 10,33 0,002 Tăng tiểu cầu 2,57 1,53 - 4,31 < 0,001 Các yếu tố: tăng bạch cầu và tăng tiểu cầu là những yếu tố nguy cơ độc lập đối với tình trạng nặng của bệnh TCM. 20 Chƣơng 4 BÀN LUẬN 4.1. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng Tuổi mắc bệnh: nhóm dưới 5 tuổi chiếm tỷ lệ 96,67% trong số 9.010 ca TCM. Ở trẻ dưới 5 tuổi, tỷ lệ mắc/100.000 xuất hiện ở nhóm tuổi dưới 12 (tháng), sau đó tăng lên nhanh chóng ở nhóm tuổi 12-23 (tháng) rồi bắt đầu giảm dần cho đến nhóm tuổi 48-59 (tháng). Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu ở các vùng miền khác ở Việt Nam cũng như các nước trong khu vực. Tỷ lệ mắc bệnh TCM ở những nhóm tuổi khác nhau được cho liên quan đến kháng thể kháng enterovirus trong những năm đầu của cuộc sống. Nhóm tuổi mắc bệnh TCM cao nhất là từ 1-3 tuổi (chiếm 61,1%). Lứa tuổi này chưa có khả năng tự vệ sinh cá nhân, trong khi đó tỷ lệ người lành mang trùng trong cộng đồng cao (từ 50%-70%) làm khả năng kiểm soát bệnh TCM trong cộng đồng gặp nhiều khó khăn. Giới mắc bệnh: trong 4 năm từ 2012-2015, tỷ suất mắc bệnh ở Nam luôn cao hơn Nữ. Kết quả này cũng phù hợp với các kết quả khác ở Việt Nam và khu vực. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu kháng thể kháng enterovirus ở Nam và Nữ lại cho thấy kháng thể ở 2 giới là tương tự nhau. Do kết quả của chúng tôi ghi nhận các ca TCM tại hệ thống giám từ các cơ sở y tế nên có lẻ kết quả tỷ số mắc nam/nữ lớn hơn 1 được giải thích là (i) nam có đặc tính hiếu động, dễ tiếp xúc với nhiều nguồn lây hơn, do đó dễ mắc bệnh TCM hơn; (ii) ở những nước châu Á, nam được coi trọng hơn nữ cho nên nam mắc bệnh TCM thường được gia đình đưa đến cơ sở y tế khám và điều trị nhiều hơn. Dân tộc mắc bệnh: tỷ lệ mắc TCM (trên 100.000) ở người Kinh cao hơn so với người dân tộc thiểu số trong giai đoạn 4 năm nghiên cứu. Từ kết quả nghiên cứu này, chúng tôi cũng không chắc rằng khả năng mắc bệnh TCM của người Kinh là cao hơn người dân tộc thiểu số, bởi vì còn nhiều lý do khác nhau liên quan đến việc ghi nhận các ca bệnh như: quyết định của bệnh nhân đến khám tại các cơ sở y tế, 21 bệnh nhẹ triệu chứng không rõ ràng cũng như những hạn chế của hệ thống giám sát ca bệnh TCM. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào báo cáo khả năng mắc bệnh ở người Kinh và ở người dân tộc thiểu số, vì vậy cần có thêm những nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề này. Thời gian mắc bệnh: cũng như các vùng khác ở Việt Nam, bệnh TCM ở Đắk Lắk xuất hiện rải rác quanh năm, tăng cao vào những tháng cuối năm (tháng 9, 10, 11) nên các biện pháp phòng, chống dịch phải được triển khai một cách thường xuyên và cần chú trọng hơn vào những tháng cuối năm. Do thời gian giới hạn (bốn năm), nên chúng tôi không xác định chu kỳ dịch. Một số nghiên cứu khác trong khu vực có thời gian giám sát bệnh dài đã cho thấy dịch TCM cũng có chu kỳ từ 2-4 năm. Khu vực mắc bệnh: trong thời gian 4 năm, tất cả các huyện, thị ở Đắk Lắk đều xuất hiện bệnh TCM với tỷ lệ mắc/100.000 khác nhau. Chúng tôi chưa đủ thông tin để xác định yếu tố nào là quyết định cho sự xuất hiện và lan truyền của bệnh TCM theo các địa phương. Giả thuyết được đưa ra là điều kiện vệ sinh và ý thức vệ sinh cá nhân có thể là yếu tố quan trọng cho việc xuất hiện và lan truyền dịch bệnh này. 4.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng Để tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh TCM, chúng tôi sử dụng thiết kế nghiên cứu bệnh chứng. Do không đủ ca bệnh TCM nặng ở Đắk Lắk (cũng như những tỉnh ở khu vực Tây Nguyên), chúng tôi phải lấy thêm số liệu tại Đồng Nai (nơi xuất hiện vụ dịch TCM vào năm 2014-2015). Kết quả là số ca bệnh TCM nặng thu thập được là 150 (120 ở Đắk Lắk và 30 ở Đồng Nai), số ca bệnh TCM nhẹ là 150 (120 ở Đắk Lắk và 30 ở Đồng Nai). Cứ mỗi ca bệnh TCM nặng, chúng tôi chọn một ca bệnh TCM nhẹ tại cùng một bệnh viện, có cùng nhóm tuổi, giới tính, dân tộc và địa bàn cư trú với ca bệnh TCM nặng. Vì vậy, dù các đối tượng nghiên cứu được chọn tại hai tỉnh khác nhau, thiết kế nghiên cứu này đảm bảo tính giá trị 22 khi khảo sát mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và tình trạng nặng của bệnh TCM. Kết quả từ phân tích đa biến cho thấy có 5 yếu tố liên quan một cách độc lập đến bệnh TCM nặng là: mức điểm thực hành chăm sóc trẻ ốm của mẹ, suy dinh dưỡng thể gầy còm, sốt kéo dài (trên 38,5oC và trên 3 ngày), không có dấu hiệu loét miệng và bệnh sử giật mình. Trong một số nghiên cứu khác, các yếu tố liên quan đến TCM nặng có thể thay đổi tùy theo từng nghiên cứu. Các yếu tố này bao gồm: phát ban dạng sẩn, loét miệng, sốt cao và kéo dài trên 3 ngày, nôn ói nhiều, run chi, giật mình, ngủ gà, huyết áp bất thường, thở nhanh, mạch nhanh trên 150 lần /phút, phù phổi, xuất huyết phổi, tăng bạch cầu, tăng lactate huyết thanh, tăng đường huyết, nhiễm EV71. Năm yếu tố từ nghiên cứu của chúng tôi có thể không trùng khớp với kết quả của một số nghiên cứu khác. Điều này có thể được giải thích là do ở các nghiên cứu khác, nhóm bệnh TCM nặng bao gồm nhiều mức độ nặng khác nhau (có cả những trường hợp viêm não, hôn mê, tử vong) làm cho việc xem xét các yếu tố nguy cơ có thể khác nhau ở các nghiên cứu. Với các yếu tố cận lâm sàng: chúng tôi chỉ khảo sát các chỉ số huyết học bao gồm số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Dựa vào chỉ số hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu theo từng lứa tuổi, chúng tôi nhận nhận thấy số lượng hồng cầu không liên quan đến tình trạng nặng của bệnh TCM, nhưng số lượng bạch cầu và tiểu cầu thì có liên quan với OR tương ứng là 4,83 và 2,81. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng bạch cầu tăng là một yếu tố liên quan đến TCM nặng do tăng kích thích thần kinh giao cảm. Riêng đối với tiểu cầu, có rất ít nghiên cứu đề cập đến số lượng tiểu cầu và bệnh TCM nặng. Như vậy, ngoài tác nhân gây bệnh là EV71 (ít khi được xác định tại tuyến y tế cơ sở), các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng này là những chỉ dấu giúp cán bộ y tế nhanh chóng tiên lượng khả năng nặng của bệnh TCM. Khi có kết hợp đồng thời các yếu tố này, khả năng bệnh TCM nặng càng cao. 23 KẾT LUẬN 1. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh tay chân miệng tại tỉnh Đắk Lắk Tỷ lệ mắc bệnh TCM trên 100.000 dân/năm trong thời gian từ 2012 đến 2015 tương ứng là 277,1; 105,8; 85,4; 28,7 Tuổi mắc bệnh: bệnh xảy ra chủ yếu trẻ em, dưới 5 tuổi chiếm 96,7%, dưới 3 tuổi chiếm 79,6% trong tổng số mắc. Tỷ lệ mắc TCM cao nhất ở nhóm 1 tuổi (12-23 tháng), sau đó tỷ lệ mắc giảm dần cho đến 5 tuổi. Nam mắc nhiều hơn nữ: tỷ suất mắc nam/nữ từ 1,29 đến 1,53 Thời gian mắc: bệnh xuất hiện rải rác vào các tháng quanh năm, có 2 đỉnh dịch vào tháng 3 đến 5 và tháng 9 đến 11. Năm 2012 được xem là năm dịch trong giai đoạn này Địa bàn xuất hiện bệnh: bệnh xuất hiện ở tất cả các địa bàn trong toàn tỉnh Đắk Lắk 2. Những yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng Ở cùng độ tuổi, cùng giới tính, cùng dân tộc và cùng nơi cư trú, trẻ mắc bệnh tay chân miệng có những yếu tố nguy cơ của bệnh tay chân miệng nặng là: - Trẻ suy dinh dưỡng thể gầy còm có khả năng mắc bệnh tay chân miệng nặng cao hơn 6,71 lần (KTC 95%: 1,01-44,58) so với trẻ không bị suy dinh dưỡng thể thấp còi. - Trẻ thuộc bà mẹ có mức điểm chăm sóc trẻ ốm càng tốt thì khả mắc bệnh tay chân miệng của trẻ càng thấp với OR = 0,63 lần (KTC 95%: 0,44-0,91). - Trẻ sốt cao trên 38,5oC và kéo dài trên 3 ngày có khả nặng mắc bệnh tay chân miệng nặng gấp 14,16 lần (KTC 95%: 4,23-47,39) - Trẻ không có dấu hiệu loét ở miệng làm tăng nguy cơ mắc tay chân miệng nặng gấp 13,78 lần (KTC 95%: 3,50-54,32). - Bệnh sử có giật mình làm gia tăng khả năng mắc tay chân miệng nặng gấp 33,68 lần (KTC 95%: 6,82-166,37) 24 Ngoài ra, có hai xét nghiệm huyết học liên quan đến tình trạng nặng của bệnh tay chân miệng là tăng bạch cầu (OR=4,15; KTC95% 1,67-10,33) và tăng tiểu cầu (OR=2,57; KTC95% 1,53-4,31) Cuối cùng tác nhân gây bệnh là EV71 cũng tăng khả năng mắc tay chân miệng nặng với OR=3,80; KTC 95% 2,12-7,23 KIẾN NGHỊ - Giáo dục cho các bà mẹ về lợi ích của bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu của trẻ. - Hướng dẫn các bà mẹ về lợi ích của việc chăm sóc nuôi dưỡng khi trẻ ốm và không nên tự ý mua thuốc điều trị khi trẻ ốm. Các bác sĩ tuyến cơ sở - nơi không đủ điều kiện để xác định tác nhân gây bệnh, cũng như thiếu các trang thiết bị điều trị hỗ trợ - lưu ý đến những yếu tố, dấu hiệu liên quan đến khả năng mắc TCM nặng như: suy dinh dưỡng, sốt cao, không có dấu hiệu loét miệng, bệnh sử giật mình nhằm có hướng xử trí thích hợp: giữ lại hoặc chuyển tuyến kịp thời. 25 CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Thái Quang Hùng, Trần Đình Bình & Đinh Thanh Huề (2013), "Nhiễm enterovirus 71 (EV71): Virus học, dịch tễ học, biểu hiện lâm sàng và biện pháp phòng chống", Tạp chí Y Dược học- Trường Đại học Y Dược Huế, 18, tr. 5-12. 2. Thái Quang Hùng, Đinh Thanh Huề & Trần Đình Bình (2014), "Phân bố bệnh tay chân miệng và mối liên quan đến một số yếu tố khí hậu ở tỉnh Đắk Lắk năm 2012-2013", Tạp chí Y Dược học- Trường Đại học Y Dược Huế, 22+23, tr. 192-198. 3. Thái Quang Hùng, Đinh Thanh Huề & Trần Đình Bình (2017), "Một số yếu tố nguy cơ của bệnh tay chân miệng nặng", Tạp chí Y học cộng đồng, 36, tr. 6-11.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_dac_diem_dich_te_hoc_benh_tay_chan_mieng_tin.pdf