Tóm tắt Luận án Đánh giá hiệu quả can thiệp làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012

Làm mẹ an toàn (LMAT) là chương trình theo dõi, phát hiện những biểu hiện

bất thường trong quá trình bắt đầu từ mang thai, sinh đẻ cho đến 42 ngày sau sinh.

Chăm sóc trước, trong và sau sinh là các yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo cho sức

khoẻ bà mẹ cũng như đứa trẻ được sinh ra hoàn toàn bình thường. Theo TCYTTG,

ước tính mỗi năm có khoảng 585.000 phụ nữ tử vong do những nguyên nhân có

liên quan đến thai sản, 99% số tử vong này xuất hiện ở các nước đang phát triển,

chủ yếu ở Châu Phi, Trung Á, Tây Á và Đông Nam Á. Có ít nhất 7 triệu phụ nữ

sau khi sinh có những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng và hơn 50 triệu phụ nữ có

những hậu quả về sức khoẻ sau khi sinh.

Ba tỉnh miền núi phía Bắc là Hà Giang, Hòa Bình, Phú Thọ và hai tỉnh Tây

Nguyên và ven biển miền Trung là Kon Tum và Ninh Thuận là những tỉnh có tỷ

suất chết của trẻ em < 1="" tuổi="" và="" tỷ="" số="" tử="" vong="" mẹ="" rất="" cao="" trong="" cả="" nước.="" chính="">

vậy, các tỉnh trên đã được chọn để can thiệp trong chương trình CSSKSS do Chính

phủ Việt Nam và Quỹ Dân số Liên hiệp quốc tài trợ trong giai đoạn 2006-2012.

Nghiên cứu này được tiến hành với các mục tiêu sau:

1. Đánh giá sự thay đổi về kiến thức, thực hành sau can thiệp của chương

trình làm mẹ an toàn của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh Hà Giang,

Hòa Bình, Phú Thọ, Kon Tum và Ninh Thuận giai đoạn 2006-1012.

2. Xác định những yếu tố về cung cấp dịch vụ ảnh hưởng đến kết quả can thiệp

làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh trên giai đoạn 2006-

2012.

pdf 28 trang dienloan 5160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Đánh giá hiệu quả can thiệp làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Đánh giá hiệu quả can thiệp làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012

Tóm tắt Luận án Đánh giá hiệu quả can thiệp làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012
1 
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG 
---------------------*--------------------- 
NGUYỄN THỊ THANH TÂM 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP LÀM MẸ 
AN TOÀN Ở CÁC BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI 
TẠI 5 TỈNH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2012 
Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế 
Mã số: 62.72.01.64 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC 
Hà Nội - 2014 
2 
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI: 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG 
Người hướng dẫn khoa học: 
1. PGS.TS Nguyễn Viết Tiến 
2. GS. Đào Văn Dũng 
Phản biện 1: . 
Phản biện 2: . 
Phản biện 3: . 
Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án cấp Viện tại Viện 
Vệ sinh Dịch tễ Trung ương vào hồi  giờ, ngày . tháng  năm . 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
- Thư viện Quốc gia 
- Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương 
3 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Làm mẹ an toàn (LMAT) là chương trình theo dõi, phát hiện những biểu hiện 
bất thường trong quá trình bắt đầu từ mang thai, sinh đẻ cho đến 42 ngày sau sinh. 
Chăm sóc trước, trong và sau sinh là các yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo cho sức 
khoẻ bà mẹ cũng như đứa trẻ được sinh ra hoàn toàn bình thường. Theo TCYTTG, 
ước tính mỗi năm có khoảng 585.000 phụ nữ tử vong do những nguyên nhân có 
liên quan đến thai sản, 99% số tử vong này xuất hiện ở các nước đang phát triển, 
chủ yếu ở Châu Phi, Trung Á, Tây Á và Đông Nam Á. Có ít nhất 7 triệu phụ nữ 
sau khi sinh có những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng và hơn 50 triệu phụ nữ có 
những hậu quả về sức khoẻ sau khi sinh. 
 Ba tỉnh miền núi phía Bắc là Hà Giang, Hòa Bình, Phú Thọ và hai tỉnh Tây 
Nguyên và ven biển miền Trung là Kon Tum và Ninh Thuận là những tỉnh có tỷ 
suất chết của trẻ em < 1 tuổi và tỷ số tử vong mẹ rất cao trong cả nước. Chính vì 
vậy, các tỉnh trên đã được chọn để can thiệp trong chương trình CSSKSS do Chính 
phủ Việt Nam và Quỹ Dân số Liên hiệp quốc tài trợ trong giai đoạn 2006-2012. 
Nghiên cứu này được tiến hành với các mục tiêu sau: 
1. Đánh giá sự thay đổi về kiến thức, thực hành sau can thiệp của chương 
trình làm mẹ an toàn của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh Hà Giang, 
Hòa Bình, Phú Thọ, Kon Tum và Ninh Thuận giai đoạn 2006-1012. 
2. Xác định những yếu tố về cung cấp dịch vụ ảnh hưởng đến kết quả can thiệp 
làm mẹ an toàn ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh trên giai đoạn 2006-
2012. 
Chương 1 
TỔNG QUAN 
1.1. Chăm sóc trước, trong và sau sinh 
1.1.1. Chăm sóc trước sinh (CSTS) 
Theo báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) giai đoạn 2003-
2007, tỷ lệ phụ nữ độ tuổi 15-49 có thai được cán bộ y tế khám thai ít nhất 1 lần 
trên toàn thế giới là 77%, thấp nhất là khu vực Nam Á là 68%, cao nhất là khu vực 
4 
Mỹ La tinh và khu vực Caribe là 94%, các nước đang phát triển là 77% và các 
nước kém phát triển là 64%. Tỷ lệ khám thai còn thấp hơn nhiều như ở các quốc 
gia có xung đột sắc tộc và chiến tranh như Afghanistan 16%. Theo báo cáo tổng 
quan các nghiên cứu về chăm sóc SKSS tại Việt Nam giai đoạn 2000-2005 của 
Quỹ Dân số Liên Hiệp quốc thì có khoảng 1/10 đến 1/3 số phụ nữ không đi khám 
thai khi mang thai, số phụ nữ khám thai ít nhất 3 lần thay đổi từ 1/5 cho đến 1/3 
phụ thuộc vào tôn giáo và nơi ở của phụ nữ. Tính bình quân, số lần khám thai 
trung bình của một phụ nữ khi mang thai là 2,7 lần ở khu vực miền núi và 3,7 lần 
ở khu vực đồng bằng. Tỷ lệ phụ nữ làm nghề nông khám thai đủ 3 lần thấp hơn so 
với các phụ nữ làm nghề khác, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
1.1.2. Chăm sóc trong khi sinh 
Tổ chức Y tế Thế giới ước tính mỗi năm trên toàn thế giới có khoảng 136 
triệu ca sinh; tại các nước đang phát triển có dưới hai phần ba số ca sinh do cán bộ 
y tế đỡ đẻ. Năm 2007, UNICEF công bố ở một số quốc gia châu Á, tỷ lệ phụ nữ 
mang thai được cán bộ y tế đỡ đẻ chiếm khoảng 31- 40% trong giai đoạn 1995-
2005. Tại Trung Quốc, tỷ lệ phụ nữ sinh con tại các cơ sở y tế công chiếm 87%, 
còn lại các bà mẹ sinh tại các phòng khám tư nhân hoặc tại nhà riêng. Việc sinh 
con tại các cơ sở y tế phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, những phụ nữ có điều kiện 
kinh tế khá giả thường sinh con tại các bệnh viện và những phụ nữ nghèo thường 
sinh con tại nhà, chính vì vậy đã có khoảng cách lớn giữa tình trạng sức khỏe của 
những phụ nữ giàu và nghèo. Nguy cơ tử vong của phụ nữ mang thai do các tai 
biến trong thời kỳ mang thai hoặc khi sinh tại Nigiêria là 1/7 trong khi tại Ailen 
chỉ là 1/48.000. Ngoài ra, tử vong mẹ cao ở các vùng nông thôn, vùng nghèo và 
cộng đồng có học vấn thấp. Tại vùng sa mạc Sahara châu Phi, nơi có tình trạng 
kinh tế và văn hóa thấp nhất châu Phi, tỷ số tử vong mẹ cao nhất thế giới. Ở Việt 
Nam có hai lựa chọn của người phụ nữ khi sinh: sinh ngoài cơ sở y tế (sinh tại 
nhà hoặc sinh ở nhà các bà mụ vườn) và sinh tại cơ sở y tế (y tế tư nhân hoặc trạm 
y tế xã và các cơ sở y tế tuyến cao hơn). Theo báo cáo công tác chăm sóc sức khỏe 
năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010 của Vụ Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ 
em – Bộ Y tế, toàn quốc vẫn còn 20% số bà mẹ ở các tỉnh miền núi Tây Bắc khi 
đẻ chưa được cán bộ y tế được đào tạo hỗ trợ, chăm sóc. 
5 
1.1.3. Chăm sóc sau sinh 
Theo kết quả phân tích đa biến những phụ nữ đã gặp khó khăn trở ngại trong 
khi sinh con những lần trước, phụ nữ đã bị sinh mổ hoặc có can thiệp thủ thuật 
trong khi sinh, có xu hướng khám lại sau sinh cao hơn những phụ nữ sinh thường; 
các phụ nữ sinh tại y tế tư nhân khám lại sau sinh cao hơn sinh tại y tế công. Báo 
cáo tổng quan các nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe sinh sản tại Việt Nam giai 
đoạn 2000 - 2005 của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc thì hầu hết các phụ nữ tử vong 
ở trong giai đoạn sau sinh hơn 4/5 (80-83%) là chết ngay trong ngày đầu tiên sau 
đẻ. Số còn lại chủ yếu chết trong tuần lễ đầu tiên. Tỷ lệ phụ nữ khám lại sau sinh 
thấp hơn nhiều nếu so sánh với tỷ lệ khám thai, dao động từ 1/4 (23,8%) cho đến 
2/3 (70%) phụ thuộc từng tỉnh. Chất lượng của chăm sóc sau sinh cũng không 
đáp ứng nhu cầu của bà mẹ. Chỉ 1/3 (31%) được khuyến khích nhận các thăm 
khám thường xuyên trong vòng 42 ngày sau đẻ. Sau khi sinh tại cơ sở y tế, các bà 
mẹ trở về nhà và phải tuân theo rất nhiều các phong tục truyền thống theo gia 
đình và cộng đồng. 
1.1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận các dịch vụ y tế làm mẹ an toàn 
Tiếp cận địa lý không chỉ bao gồm khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế mà 
còn là chất lượng của đường xá, sự sẵn có của các loại phương tiện giao thông. 
Sự khan hiếm của các phương tiện đi lại, đặc biệt ở những vùng sâu vùng xa và 
điều kiện đường xá không đảm bảo đã ảnh hưởng đến việc tiếp cận cơ sở y tế của 
phụ nữ. Ở nhiều nơi khó khăn, phụ nữ thường đi bộ đến cơ sở y tế là việc thường 
gặp. Nhìn chung, khoảng cách đến cơ sở y tế thường được đo lường bằng thời 
gian đến cơ sở y tế bởi các phương tiện thông thường. 
Đo lường bằng khả năng chi trả các loại chi phí trực tiếp (bằng tiền túi của 
cá nhân) để được chăm sóc y tế (gồm các loại chi phí chính thức và không 
chính thức, phí vận chuyển, ăn ở, chi phí cho người chăm sóc...). Những người có 
thu nhập cao thì đến những cơ sở y tế có chất lượng chăm sóc tốt cho dù khoảng 
cách có xa hơn. Những người phụ nữ nghèo thường ở nhà và tự điều trị bằng 
những thuốc y học cổ truyền hoặc đến các y tá tư gần nhà. Nghiên cứu định tính 
tiến hành tại Việt Nam cho thấy “nghèo” ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định sử 
dụng dịch vụ y tế của người dân tộc thiểu số. 
6 
Tỷ lệ tử vong mẹ thường bị tác động bởi hủ tục truyền thống và văn hóa mà 
thường cản trở phụ nữ có được sự chăm sóc sức khỏe trước trong và sau sinh. Sự 
tiếp cận văn hóa được đo lường bằng sự phù hợp về văn hoá, phong tục tập quán 
và khả năng giao tiếp với các nhóm thiểu số không nói được ngôn ngữ phổ thông. 
Niềm tin văn hoá, cấu trúc xã hội và đặc tính của mỗi cá nhân cũng rất quan 
trọng. 
1.2. Một số can thiệp về làm mẹ an toàn 
 Mục tiêu của can thiệp về LMAT là hướng tới làm giảm các yếu tố cản trở 
các bà mẹ tiếp cận và nhận dịch vụ chăm sóc sản khoa và chăm sóc sơ sinh 
(CSSS). Nhìn chung các giải pháp can thiệp LMAT trên thế giới và Việt nam đều 
tập trung vào một số giải pháp: Hỗ trợ các cơ sở LMAT nâng cấp cơ sở vật chất, 
cung cấp trang thiết bị y tế và thuốc cần thiết; Đào tạo cán bộ y tế cung cấp dịch 
vụ LMAT và CSSKSS; Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các chính sách và các 
hướng dẫn chuẩn quốc gia về SKSS và LMAT; Truyền thông nâng cao nhận thức 
của người dân về LMAT và SKSS cùng các loại hình dịch vụ y tế cung cấp tại các 
cơ sở y tế địa phương; Xây dựng, vận hành và duy trì hệ thống chuyển tuyến cộng 
đồng, đặc biệt cho những vùng xa xôi, có nhiều khó khăn trong vận chuyển bệnh 
nhân. 
Chương 2 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
- Các bà mẹ có con dưới 2 tuổi trong thời gian triển khai chương trình làm mẹ 
an toàn tại 5 tỉnh Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Kon Tum và Ninh Thuận 
giai đoạn 2006 – 2012 và tự nguyện tham gia nghiên cứu 
- Cán bộ y tế trong lĩnh vực CSSKSS 
2.2. Thời gian và địa điểm can thiệp và thu thập số liệu 
Thời gian nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2012 tại 5 tỉnh Hà Giang, Phú 
Thọ, Hòa Bình, Ninh Thuận, Kon Tum. 
7 
2.3. Phương pháp nghiên cứu 
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu 
Là một thiết kế nghiên cứu can thiệp trên cộng đồng không đối chứng sử 
dụng mô hình đánh giá hiệu quả “trước-sau” can thiệp (Quasi-experimental study). 
Nghiên cứu sử dụng cả hai kỹ thuật thu thập số liệu định lượng (phỏng vấn các bà 
mẹ là đối tượng nghiên cứu) và kỹ thuật định tính (phỏng vấn sâu cán bộ y tế). 
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu và chọn mẫu 
2.3.2.1 Chọn mẫu và cỡ mẫu cho nghiên cứu định lượng: 
2
21
2
22111)2/1(
21
)(
])1()1([)1(2[
pp
ppppZppZ
nn
  
Trong đó: 
 n1 = Số bà mẹ có con dưới 2 tuổi được phỏng vấn trước can thiệp 
 n2 = Số bà mẹ có con dưới 2 tuổi được phỏng vấn sau can thiệp 
)2/1( Z = Hệ số tin cậy với mức xác suất 95% = 1,96 
)1(  Z = Lực mẫu (80%) 
 p1 = Tỷ lệ bà mẹ khám sau sinh trước can thiệp ước tính là 30% [60] 
 p2 = Tỷ lệ bà mẹ khám sau sinh sau can thiệp ước 50% [60] 
P = p1 + p2 /2 là tỷ lệ trung bình của bà mẹ được cán bộ y tế đỡ đẻ trước 
và sau can thiệp. 
 Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu là 210 đối tượng nghiên cứu/tỉnh. Tổng số bà mẹ 
có con dưới 2 tuổi trong nghiên cứu tại 5 tỉnh là 210 x 5 tỉnh = 1050. 
Chọn mẫu nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện trên 5 tỉnh, mẫu nghiên cứu được chọn là mẫu 
30 chùm ngẫu nhiên. Mỗi tỉnh chọn ra 30 chùm ngẫu nhiên (mỗi chùm là một xã), 
tại mỗi xã có 7 bà mẹ có con < 2 tuổi được lựa chọn theo phương pháp “cổng liền 
cổng”. 
2.3.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu định tính 
Chọn 10 xã để nghiên cứu định tính cho 5 tỉnh. Tại mỗi xã đã phỏng vấn sâu 
được tổng số 10 nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi. Tại mỗi tỉnh nghiên cứu phỏng vấn 
sâu được tổng số 10 cán bộ y tế. 
8 
2.3.3. Kỹ thuật và công cụ thu thập số liệu 
- Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ có con <2 tuổi bằng bộ câu hỏi. 
- Phỏng vấn sâu cán bộ y tế xã và tỉnh theo bộ hướng dẫn phỏng vấn sâu. 
2.3.4. Nội dung nghiên cứu chính 
Kiến thức và thực hành của các bà mẹ trước và sau can thiệp 
- Kiến thức và thực hành về khám thai 
- Kiến thức và thực hành về tiêm phòng uốn ván 
- Kiến thức và thực hành về các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai 
- Kiến thức và thực hành về dấu hiệu nguy hiểm khi sinh 
- Kiến thức và thực hành về nơi sinh 
- Kiến thức và thực hành về lựa chọn người đỡ đẻ 
- Kiến thức và thực hành về dấu hiệu nguy hiểm sau sinh 
- Kiến thức và thực hành về cho con bú 
- Kiến thức và thực hành về khám lại sau sinh 
Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả can thiệp làm mẹ an toàn: 
- Nhân lực y tế 
- Công tác giám sát 
- Sử dụng dịch vụ LMAT 
- Khả năng tiếp cận đến dịch vụ LMAT 
 2.3.5. Phân tích số liệu 
 Số liệu được phân tích và trình bày dưới dạng tần số và tỷ lệ %. Test χ2 và 
giá trị p được sử dụng để biểu thị sự khác biệt giữa các biến số độc lập và biến số 
phụ thuộc. Số liệu định tính thông qua các cuộc phỏng vấn sâu được phân tích 
theo kỹ thuật “phân tích nội dung”. Các thông tin được phân tích, tổng hợp và 
khái quát lại và kết luận theo nội dung nghiên cứu đã đề ra. 
2.3.7. Đạo đức trong nghiên cứu 
 Đề cương nghiên cứu đã được sự phê duyệt và hội đồng đánh giá của Viện 
Vệ sinh dịch tễ Trung ương thông qua vấn đề y đức. Đối tượng nghiên cứu đã được 
thông báo về mục đích của nghiên cứu và hoàn toàn tự nguyện tham gia nghiên cứu, 
được đảm bảo quyền lợi. Giữ hoàn toàn bí mật thông tin của những người tham 
gia và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. 
9 
Chương 3 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Một số đặc trưng cá nhân của các bà mẹ 
Phân bố nhóm tuổi trước và sau nghiên cứu không có sự khác biệt mang ý 
nghĩa thống kê. Tương tự, không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa trình 
độ học vấn của bà mẹ trước và sau can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ có trình độ học vấn 
trước và sau can thiệp cũng không khác biệt. Phân bố người dân tộc trước và sau 
nghiên cứu không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Tương tự, không có sự 
khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa tôn giáo của bà mẹ trước và sau can thiệp. 
Không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa số con/bà mẹ trước và sau can 
thiệp. 
3.2. Hiệu quả can thiệp về kiến thức chăm sóc trước trong và sau sinh 
3.2.1. Hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc trước sinh 
3.2.1.1. Hiệu quả can thiệp về kiến thức chăm sóc thai trước sinh 
Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về cần được khám thai đủ từ 3 lần trở lên trước 
can thiệp chiếm 84,4% tăng lên sau can thiệp là 90,4%, sự khác biệt mang ý nghĩa 
thống kê với p<0,05 và CSHQ=12,1%. Sau can thiệp tỷ lệ bà mẹ hiểu biết cần 
tiêm ít nhất 1 mũi vắc xin dự phòng uốn ván giảm từ 5,4% xuống 4,4% và tỷ lệ bà 
mẹ có kiến thức về tiêm phòng 2 mũi vắc xin giảm từ 69,9% xuống còn 69,0%. Sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Trước can thiệp có đến 33,4% bà 
mẹ không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào trong khi mang thai nhưng sau 
can thiệp chỉ còn 20,4% bà mẹ không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào 
trong khi mang thai (giảm 13%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. 
Kiến thức của bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm nhất có thể ảnh hưởng lớn 
đến sức khỏe bà mẹ và thai nhi cần phải đi khám tại cơ sở y tế như chảy máu âm 
đạo, phù, co giật, đau bụng, đau đầu sốt cao kéo dài tăng nhanh sau can thiệp (Chỉ 
số hiệu quả tăng từ 9,5% - 23,1%). Những sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê 
với p<0,001. Tỷ lệ các bà mẹ hiểu biết về cách xử trí đúng các dấu hiệu nguy hiểm 
khi mang thai nếu mắc là đi khám chữa bệnh tại cơ sở y tế công tăng từ 58,9% 
trước can thiệp lên 75,5% sau can thiệp. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p<0,01. 
10 
3.2.1.2. Hiệu quả can thiệp về thực hành chăm sóc thai trước sinh 
Tỷ lệ các bà mẹ được khám thai đầy đủ từ 3 lần trở lên/lần mang thai tăng từ 
77,2% trước can thiệp tăng lên 84,8% sau can thiệp. Sự thay đổi này có ý nghĩa 
thống kê với p<0,05. 
Tỷ lệ phụ nữ ti ... Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ các bà mẹ thay đổi kiến thức về cán bộ 
y tế là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau can thiệp tăng từ 81,7% lên 92%. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Tỷ lệ các bà mẹ thay đổi kiến thức về bà đỡ 
địa phương là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau can thiệp giảm từ 4,3% xuống 
0,7%. Các phụ nữ mang thai có hai lựa chọn: sinh ngoài cơ sở y tế (sinh tại nhà 
và sinh ở nhà các bà mụ vườn) và sinh tại cơ sở y tế (TTYT và các cơ sở y tế 
tuyến cao hơn). Hiện nay ở các tỉnh miền núi ngành y tế đã xây dựng được hệ 
thống “cô đỡ thôn bản” được đào tạo 6-9 tháng. Hệ thống “cô đỡ thôn bản” đã 
hoạt động tốt ở những tỉnh này và đã đóng góp tích cực cho việc nâng cao kiến 
thức cho phụ nữ mang thai. 
4.1.3.2. Thay đổi kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm khi sinh và xử trí 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy tỷ lệ bà mẹ hiểu biết các dấu 
hiệu nguy hiểm trong khi chuyển dạ tăng rõ rệt sau can thiệp có ý nghĩa thống kê 
với p<0,01. Tỷ lệ bà mẹ hiểu triệu chứng đau bụng dữ dội khi chuyển dạ tăng từ 
28% trước can thiệp lên 41,4% sau can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ hiểu triệu chứng ra 
nhiều máu khi chuyển dạ tăng từ 36,7% trước can thiệp lên 53,6% sau can thiệp. 
Tỷ lệ bà mẹ hiểu triệu chứng co giật, vỡ ối sớm khi chuyển dạ tăng từ 4,3% và 
17,8% trước can thiệp lên 16,8% và 35,2% sau can thiệp. Đặc biệt tỷ lệ bà mẹ 
không biết một triệu chứng nào giảm từ 38,6% xuống còn 27% sau can thiệp. 
Trước can thiệp, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm khi 
chuyển dạ chiếm 5,7% và tăng lên 28,1% sau can thiệp. So sánh với kết quả trong 
bài báo của tác giả Nguyễn Viết Tiến cũng cho kết quả tương tự với 31,4% phụ nữ 
21 
hiểu về dấu hiệu đau bụng dữ dội khi sinh, và 33,7% phụ nữ không biết dấu hiệu 
nguy hiểm nào. 
4.1.3.3.Thay đổi về thực hành chăm sóc trong khi sinh 
Sinh con tại cơ sở y tế, đặc biệt là ở các bệnh viện đang là một lựa chọn phổ 
biến, đặc biệt ở những khu đô thị, có điều kiện kinh tế và đường xá đi lại thuận 
tiện. Mặt khác, sinh con tại nhà còn gặp ở các khu vực miền núi, xa xôi 
và có nhiều người dân tộc sinh sống. Hiện nay, tại đa số quốc gia trên thế 
giới sinh con ở tại cơ sở y tế hiện trở thành lựa chọn phổ biến, vì đây là nơi có đủ 
các trang thiết bị y tế cần thiết và đội ngũ cán bộ y tế có đủ trình độ để chăm sóc 
tốt nhất cho sức khỏe của bà mẹ cũng như của thai nhi. 
Việc sinh con tại nhà có thể là bình thường khi có cán bộ y tế đỡ đẻ. Một 
nghiên cứu tại các nước phát triển cho thấy những phụ nữ khỏe mạnh có mong 
muốn được sinh tại nhà không làm tăng nguy cơ có hại cho cả bà mẹ và trẻ sơ 
sinh. Lý do của việc mong muốn sinh con tại nhà là do khi phụ nữ sinh con ở nhà 
đều có các bác sỹ và nữ hộ sinh chăm sóc, mặt khác khi có bất thường thì việc 
chuyển sản phụ đến nhà cũng rất dễ dàng và nhanh chóng. Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ 
sinh con tại nhà trong nghiên cứu tại nước Ấn Độ 37% bà mẹ sinh con tại nhà, 
32% sinh tại phòng khám tư nhân và 31% sinh con tại cơ sở y tế. Nghiên cứu tại 
Lào cũng chỉ ra rằng chỉ có 56,3% bà mẹ đã được các nhân viên y tế đỡ đẻ trong 
lần sinh vừa qua, trong khi đó tỷ lệ bà mẹ được mụ vườn đỡ đẻ là 13,6% và còn tỷ 
lệ lớn bà mẹ được người khác đỡ đẻ (như mẹ, chồng, bạn bè), chiếm 30,1%. 
4.1.4. Hiệu quả can thiệp về kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh 
4.1.4.1.Khám lại sau sinh 
Khám lại cho các bà mẹ và trẻ sơ sinh sau khi sinh có vai trò rất quan trọng, 
giúp theo dõi chặt chẽ và chăm sóc sản phụ nhằm phát hiện sớm những bất 
thường của cả sản phụ và sơ sinh, đồng thời giúp cấp cứu sớm các tai biến sản 
khoa. Trên thế giới có khoảng 4 triệu trẻ sơ sinh chết hàng năm, trong đó 75% trẻ 
sơ sinh chết trong tuần đầu tiên sau khi sinh. Các trường hợp tử vong có liên quan 
chặt chẽ đến chăm sóc trẻ sơ sinh như ủ ấm trẻ để phòng giảm thân nhiệt, cho trẻ 
bú sớm và tắm cho trẻ 24 giờ sau đẻ; Bệnh tật và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh phụ 
22 
thuộc vào việc chăm sóc trẻ rất nhiều. Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ tử vong mẹ 
xảy ra cao nhất ở thời điểm sau sinh chiếm 60,6%. 
Tại Việt Nam hầu hết các phụ nữ tử vong trong giai đoạn sau sinh chết ngay 
trong ngày đầu tiên sau đẻ dao động trong khoảng 80-83%; số còn lại chủ yếu chết 
trong tuần lễ đầu tiên. Những can thiệp đơn giản, giá thành thấp nhưng góp phần 
đáng kể trong việc hạ thấp tỷ lệ tử vong mẹ và bé sơ sinh đó là theo dõi sát tình 
trạng bà mẹ và bé, cho trẻ tiêm vitamin K để dự phòng xuất huyết não màng não 
[45], thăm khám lại bà mẹ sau sinh, ủ ấm trẻ, cho bú sớm, tắm trẻ sau 24 giờ sau 
sinh. Tại Lào, theo báo cáo thống kê năm của Viện Bà mẹ và trẻ em Trung ương 
Lào 2008 cho thấy số thai phụ được khám thai là 222.198 ca trong khi đó số bà mẹ 
được thăm khám và theo dõi sau sinh chỉ có 30.016 ca. Riêng ở tỉnh Bo Lị Khăm 
Xay số phụ nữ có thai được khám là 9.515 và thăm khám và theo dõi sau sinh là 
2.014 bà mẹ. 
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp 
4.2.1. Thiếu nhân lực y tế 
Số lượng CBYT còn rất thiếu ở tất cả các tuyến. Ở một xã thuộc huyện 
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, dân số đông tới 11.760 người, tuy nhiên số lượng biên 
chế CBYT xã không được tăng thêm do phía trên cho rằng địa bàn xã gần với 
bệnh viện đa khoa huyện, khiến cho việc triển khai công việc gặp khó khăn, trạm y 
tế phải ký hợp đồng thêm với CBYT để thực hiện công việc. Cán bộ y tế làm công 
tác khám chữa bệnh trong hệ thống Sản Nhi đặc biệt là nhi khoa còn thiếu về số 
lượng và hạn chế về chất lượng, đặc biệt là ở các khu vực miền núi, vùng sâu, 
vùng xa, vùng khó khăn. Cũng theo báo cáo trên 62,9% TYT hiện đã có bác sỹ. 
Bác sỹ được nói đến ở đây là bất kể cán bộ nào có trình độ đại học y trở lên, bao 
gồm: BSĐK, BSCK I, II hoặc chuyên khoa định hướng Sản/Nhi, và BS chuyên 
khoa khác. Tỷ lệ TYT trên cả nước có NHS trung học trở lên là 73,3%. Tỷ lệ TYT 
có NHS hoặc YSSN là 93,7% và TYT có NHS trung học trở lên hoặc YSSN là 
91,3%. 
Bên cạnh thiếu nhân lực, trình độ cán bộ y tế yếu cũng được xác định là một 
trong những rào cản trong triển khai các dịch vụ y tế tại cơ sở. Đại đa số bác sỹ ở 
tuyến dưới là đào tạo cử tuyển và theo địa chỉ, chuyên tu, không có bác sỹ chuyên 
23 
khoa sản, cho nên trình độ yếu. Theo báo cáo thống kê y tế năm 2008, tình hình 
đào tạo cán bộ địa phương của 5 tỉnh tham gia nghiên cứu cho thấy Hà Giang 
(1.310 học sinh), Hòa Bình (1.552 học sinh) và Kon Tum (942 học sinh) có số học 
sinh đang được đào tạo tại các trường y tế tương đối cao so với cả nước. Tuy nhiên 
tại 2 tỉnh còn lại Phú Thọ chỉ có 91 học sinh đang được đào tạo về y tế và tỉnh 
Ninh Thuận là 121 học sinh. Đây là số liệu phản ánh bức tranh về công tác phát 
triển nhân lực y tế trong tương lai tại các tỉnh trên. 
Đi sâu phỏng vấn và phân tích các khó khăn về cơ sở vật chất, các trạm y tế 
không đủ khoa phòng để bố trí theo đúng yêu cầu, phải kết hợp nhiều phòng với 
nhau: phòng đẻ với phòng kỹ thuật và khám phụ khoa (Thạch Khoán, Thanh Sơn – 
Phú Thọ) hoặc thậm chí kết hợp cả 3 phòng: khám phụ khoa, khám thai và phòng 
sản vào cùng một phòng (Tumorong – Kontum) là những bất cập chính trong triển 
khai cung cấp dịch vụ chăm sóc sản khoa và trẻ sơ sinh. Mặc dù dự án đã hỗ trợ 
nhiều về TTB, tuy nhiên khảo sát thực tế vẫn cho thấy rằng nhiều địa phương còn 
thiếu một số TTB hết sức cơ bản như thiếu tủ thuốc, bàn chăm sóc trẻ sơ sinh hoặc 
đã bị hỏng trong quá trình sử dụng chưa được thay thế. 
Bên cạnh thiếu TTB, vấn đề sử dụng TTBYT còn chưa hiệu quả, chưa đồng 
bộ (cung cấp, bảo dưỡng và sửa chữa) cũng là một điểm cần lưu ý. Nhiều khi TTB 
hỏng lại không được sửa chữa kịp thời khiến cho việc vận hành để cung cấp dịch 
vụ bị đình trệ. Ở một số địa phương, do điều kiện khó khăn cho nên nếu dù có bố 
trí kinh phí để trang bị máy điều hòa, máy sưởi ấm thì cũng không có khả năng 
kinh phí vận hành hoạt động. Do vậy cần phải đảm bảo được điều kiện cơ sở vật 
chất của địa phương cho đồng bộ với trang thiết bị máy móc ngành y tế trang bị thì 
mới phát huy được hiệu quả của TTB. 
4.2.2. Công tác theo dõi giám sát còn chưa được đồng bộ 
Mặc dù chương trình can thiệp đã cố gắng thiết lập được hệ thống theo dõi 
giám sát khá hiệu quả, tuy nhiên vẫn còn một số điểm còn bất cập. Mặc dù đã có 
nhiều cố gắng nhưng ngành y tế hiện nay vẫn chưa đưa ra được một cách toàn diện 
các chỉ số để theo dõi giám sát tiến độ thực hiện của các chương trình can thiệp về 
LMAT, đặc biệt là các chỉ số quá trình. Điều này cũng là một khó khăn trong việc 
đánh giá kết quả thực hiện của chương trình. 
24 
Việc huy động được đội ngũ giám sát viên có cam kết cao còn gặp nhiều 
khó khăn vì công việc của họ quá bận, chúng ta chưa có hệ thống giám sát riêng 
biệt cho CSSKSS, các cán bộ giám sát vẫn chính là các cán bộ y tế đang công tác 
tại các bệnh viện hoặc các cơ sở y tế. Mặt khác trình độ chuyên môn cũng như kỹ 
năng giám sát của các cán bộ y tế hiện nay còn nhiều hạn chế khiến cho việc hỗ 
trợ tuyến dưới triển khai công việc rất khó, đặc biệt những kỹ thuật yêu cầu người 
giám sát phải 
Công tác giám sát của chương trình can thiệp về LMAT tại 5 tỉnh được thực 
hiện theo các tuyến khác nhau. Chương trình can thiệp đào tạo các cán bộ giám sát 
tuyến trung ương. Các cán bộ giám sát tuyến này thường là các cán bộ của các 
bệnh viện trung ương. Họ có nhiệm vụ đào tạo cán bộ giám sát tuyến tỉnh và trực 
tiếp giám sát dịch vụ LMAT tại tuyến tỉnh là chính nhưng cũng có tham gia các 
hoạt động giám sát tuyến huyện và tuyến xã nhưng không thường xuyên. Các cán 
bộ giám sát tuyến tỉnh thường là các cán bộ của các bệnh viện tỉnh. Họ có nhiệm 
vụ đào tạo cán bộ giám sát tuyến huyện và trực tiếp giám sát dịch vụ LMAT tại 
tuyến huyện là chính nhưng cũng có tham gia các hoạt động giám sát tuyến xã 
nhưng không thường xuyên. Tương tự, các cán bộ giám sát tuyến huyện thường là 
các cán bộ của các bệnh viện huyện hoặc trung tâm y tế huyện. Họ có nhiệm vụ 
trực tiếp giám sát dịch vụ LMAT tại tuyến xã và phối hợp với cán bộ y tế xã giám 
sát các hoạt động của “cô đỡ thôn bản”. 
4.2.3. Sử dụng dịch vụ tuyến dưới ngày càng ít 
Xu thế ít sử dụng dịch vụ tuyến cơ sở đã được xác định ở các địa bàn dự án. 
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc ít sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến cơ sở. Một 
trong những yếu tố chính có liên quan tới địa bàn sống. Người dân sống ở các 
vùng miền xa xôi, đặc biệt là các huyện vùng núi phía bắc, đường giao thông chưa 
thuận tiện có xu hướng ít sử dụng dịch vụ y tế do điều kiện kinh tế thấp, trình độ 
dân trí thấp cũng như đường xá đi lại khó khăn ít đi khám chữa bệnh. Điều kiện 
kinh tế khó khăn cũng hạn chế việc sử dụng dịch vụ y tế tại các cơ sở y tế địa 
phương. Có những huyện như Tu mơ rông và Kon PLong có trên 90% bà con là 
người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó việc đi lại rất là khó khăn và không có tiền chi 
trả dịch vụ là những rào cản chính khiến cho người dân không sử dụng dịch vụ tại 
25 
cơ sở y tế. 
Bên cạnh yếu tố về kinh tế, đường giao thông thì phong tục tập quán, ngôn 
ngữ có ảnh hưởng nặng nề tới hành vi CSSKSS của người dân địa phương. Ở 
những địa phương như Tu mơ rông thì việc đi khám và đẻ tại cơ sở y tế còn gặp 
nhiều rào cản. Người dân cảm thấy xấu hổ, không muốn khám, và cho rằng đẻ tại 
nhà thì thoải mái và thuận tiện hơn, phỏng vấn cán bộ quản lý xã Mang Ri, 
Tumorong, tỉnh Kon Tum. 
KẾT LUẬN 
1. Hiệu quả can thiệp về chăm sóc trước trong và sau sinh ở các bà mẹ 
- Chương trình can thiệp đã có hiệu quả rất rõ nhằm nâng cao kiến thức và 
thực hành chăm sóc trước sinh của các bà mẹ. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức về cần 
được khám thai đủ từ 3 lần trở lên tăng lên sau can thiệp (tăng từ 84,4% lên 
90,4%. 
- Hiệu quả của chương trình can thiệp cũng được thể hiện rõ rệt, tăng kiến 
thực và thực hành chăm sóc trong khi sinh sau can thiệp. Tỷ lệ các bà mẹ thay đổi 
kiến thức về cán bộ y tế là người đỡ đẻ tốt nhất trước và sau can thiệp (tăng từ 
81,7% lên 92%). Sau can thiệp đã làm tăng kiến thức của các bà mẹ về dấu hiệu 
nguy hiểm khi sinh. Thực hành của bà mẹ về nơi sinh tại cơ sở y tế tăng cao hơn 
sau can thiệp (từ 73,4% lên 80,7%). Tỷ lệ các bà mẹ được cán bộ y tế đỡ đẻ tăng 
nhẹ sau can thiệp (từ 83,5% lên 88,6%). 
- Hiệu quả của chương trình can thiệp cũng được thể hiện rõ ở việc gia tăng 
kiến thức và thực hành của các bà mẹ về chăm sóc sau khi sinh. Tỷ lệ các bà mẹ 
biết các dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh tăng lên sau can thiệp từ 5,5% 29,1%. 
Thực hành khám lại sau khi sinh trong vòng 6 tuần của các bà mẹ tăng nhanh sau 
khi can thiệp tăng từ 38,2% lên 56,8%. 
2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp 
- Thiếu nhân lực y tế, đặc biệt là nhân lực y tế tuyến cơ sở (y tế xã và huyện) 
là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của chương trình can thiệp. 
Thiếu các trang thiết bị y tế thiết yếu cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của chương 
trình. 
26 
- Ít sử dụng dịch vụ tuyến cơ sở (trạm y tế xã và bệnh viện huyện), đặc biệt 
là ở các vùng núi vùng sâu vùng xa cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả 
của chương trình can thiệp. 
- Công tác theo dõi giám sát các hoạt động can thiệp chưa thật đồng bộ đã 
ảnh hưởng đến hiệu quả của chương trình can thiệp. Nguyên nhân chính của giám 
sát chưa đồng bộ là do thiếu nhân lực và thiếu các chỉ số giám sát đầy đủ. 
KIẾN NGHỊ 
- Tăng cường nhân lực cho tuyến y tế cơ sở (trạm y tế xã và khoa sản và nhi 
bệnh viện huyện), đặc biệt ở các xã và huyện vùng núi vùng sâu vùng xa. 
- Tăng cường công tác đào tạo chuyên sâu về cấp cứu sản khoa, cấp cứu sơ sinh 
cho tuyến y tế cơ sở 
- Cung cấp một số trang thiết bị cần thiết, đặc biệt là các trang thiết bị cấp cứu 
sản khoa và sơ sinh để đảm bảo được công tác cấp cứu sản khoa cư bản (tuyến 
y tế xã) và cấp cứu sản khoa toàn diện (bệnh viện huyện), tập trung cho các 
vùng sâu vùng xa phù hợp với thực trạng tình hình địa phương. 
- Tăng cường công tác giám sát hoạt động LMAT, đặc biệt cho tuyến xã và 
tuyến huyện. 
- Cần tập trung tăng cường công tác truyền thông thay đổi hành vi cho phụ nữ 
tuổi sinh đẻ trên các khía cạnh tài liệu truyền thông cần có cả tiếng dân tộc, với 
nhiều hình thức truyền thông phù hợp, phong phú hơn cho những vùng sâu 
vùng xa. 
27 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÓ LIÊN 
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 
1. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Viết Tiến, Đào Văn Dũng, (2013), Hiệu 
quả can thiệp về thực hành chăm sóc thai trước sinh của các bà mẹ có con dưới 
2 tuổi tại 5 tỉnh miền núi. Tạp chí Y học Thực hành, số 9 (879) tr 31-34. 
2. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Viết Tiến, Đào Văn Dũng (2013), Hiệu 
quả can thiệp về thực hành chăm sóc thai trong sinh của các bà mẹ có con dưới 
2 tuổi tại 5 tỉnh miền núi. Tạp chí Y học Thực hành, số 10 (881) tr 35-38. 
3. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Viết Tiến, Đào Văn Dũng, (2013), Hiệu 
quả can thiệp chăm sóc sau sinh của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại 5 tỉnh 
miền núi Việt Nam. Tạp chí Y học Dự phòng, số 7 (143) tr 117-22. 
28 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_danh_gia_hieu_qua_can_thiep_lam_me_an_toan_o.pdf