Tóm tắt Luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay – chân - Miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An lão, Bình lục, Hà Nam

Bệnh tay-chân-miệng (TCM) là một bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, do vi rút đường ruột gây

ra, bệnh thường gặp ở trẻ em (dưới 5 tuổi) với các biểu hiện sốt (trên 37,5oC), biếng ăn, mệt mỏi, đau họng, loét miệng hoặc bọng mụn nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng mông, đầu gối. Bệnh có thể lây theo đường tiêu hóa, nguồn lây trực tiếp từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh. Bệnh gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não, màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử lý kịp thời.

Bệnh TCM đã gặp ở tất cả các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Úc, Hungary, Trung Quốc, Nhật Bản,

Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam , nhưng tập trung chủ yếu tại các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Tại Việt Nam, ca bệnh TCM đầu tiên được phát hiện vào năm 2003 và bệnh có xu hướng tăng dần theo thời

gian. Năm 2011, bệnh TCM bùng phát trên toàn quốc với số người mắc và tử vong cao nhất từ trước đến nay và đã xuất hiện ở cả 63 tỉnh thành phố, với 112.370 ca bệnh, trong đó có 169 ca tử vong, số ca tử vong tăng gấp 6 lần so với năm 2010.

Hiện nay, bệnh TCM chưa có vắc xin dự phòng và thuốc điều trị đặc hiệu, việc điều trị chủ yếu là điều

trị triệu chứng và biến chứng, do vậy, kiến thức, thực hành của các bà mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phòng bệnh TCM. Với câu hỏi kiến thức và thực hành phòng bệnh TCM của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại huyện

Bình Lục, tỉnh Hà Nam như thế nào? những giải pháp can thiệp nào có thể cải thiện kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của những bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại đây? Để trả lời các câu hỏi này chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Đánh giá kết quả

can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam” với 2 mục tiêu:

1. Mô tả kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và Đồn Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam năm 2013.

2. Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà

mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, huyện Bình Lục, Hà Nam năm 2015.

pdf 17 trang dienloan 3180
Bạn đang xem tài liệu "Tóm tắt Luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay – chân - Miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An lão, Bình lục, Hà Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay – chân - Miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An lão, Bình lục, Hà Nam

Tóm tắt Luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay – chân - Miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An lão, Bình lục, Hà Nam
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG 
 LÊ THỊ LAN HƯƠNG 
 LÊ THỊ LAN HƯƠNG 
 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP 
 CẢI THIỆN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG 
 BỆNH TAY – CHÂN - MIỆNG CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 5 TUỔI 
 TẠI XÃ AN LÃO, BÌNH LỤC, HÀ NAM 
 Chuyên ngành: Y tế công cộng 
 Mã số chuyên ngành: 9720701 
 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG 
 HÀ NỘI – 2018 
 CÔNG TRÌNH NÀY ĐƯỢC HOÀN THÀNH 
 TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG 
Hướng dẫn khoa học: 
 1. PGS. TS. Lê Thị Tài 
 2. GS. TS. Lê Thị Hương 
Phản biện 1: 
Phản biện 2: 
Phản biện 3: 
 Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án Tiến sỹ cấp trường tại Trường Đại học Y tế Công 
cộng. Vào hồi......ngày......tháng......năm 2018. 
Có thể tìm luận án tại: 
 - Thư viện Quốc gia. 
 - Thư viện trường Đại học Y tế Công cộng 
 - Viện Thông tin - Thư viện Y học Trung Ương. 
 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC 
 ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Lê Thị Lan Hương, Lê Thị Tài, Lê Thị Hương (2016). Kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh tay 
 chân miệng của người dân tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam năm 2013. Tạp chí Y học Việt Nam, số 
 442, trang 232-237. 
2. Lê Thị Lan Hương, Lê Thị Tài, Lê Thị Hương, Nguyễn Văn Hiến (2016). Thay đổi về kiến thức, 
 thái độ, thực hành về bệnh tay chân miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi sau hai năm can thiệp 
 bằng truyền thông tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam. Tạp chí Y học Việt Nam, số 444, trang 143-148. 
 1 
 ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Bệnh tay-chân-miệng (TCM) là một bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, do vi rút đường ruột gây 
ra, bệnh thường gặp ở trẻ em (dưới 5 tuổi) với các biểu hiện sốt (trên 37,5oC), biếng ăn, mệt mỏi, đau họng, loét 
miệng hoặc bọng mụn nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng mông, đầu gối. Bệnh có thể lây theo đường tiêu 
hóa, nguồn lây trực tiếp từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh. Bệnh gây nhiều biến chứng nguy 
hiểm như viêm não, màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử lý 
kịp thời. 
 Bệnh TCM đã gặp ở tất cả các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Úc, Hungary, Trung Quốc, Nhật Bản, 
Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam, nhưng tập trung chủ yếu tại các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 
Tại Việt Nam, ca bệnh TCM đầu tiên được phát hiện vào năm 2003 và bệnh có xu hướng tăng dần theo thời 
gian. Năm 2011, bệnh TCM bùng phát trên toàn quốc với số người mắc và tử vong cao nhất từ trước đến nay 
và đã xuất hiện ở cả 63 tỉnh thành phố, với 112.370 ca bệnh, trong đó có 169 ca tử vong, số ca tử vong tăng 
gấp 6 lần so với năm 2010. 
 Hiện nay, bệnh TCM chưa có vắc xin dự phòng và thuốc điều trị đặc hiệu, việc điều trị chủ yếu là điều 
trị triệu chứng và biến chứng, do vậy, kiến thức, thực hành của các bà mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng trong 
việc phòng bệnh TCM. Với câu hỏi kiến thức và thực hành phòng bệnh TCM của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại huyện 
Bình Lục, tỉnh Hà Nam như thế nào? những giải pháp can thiệp nào có thể cải thiện kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM 
của những bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại đây? Để trả lời các câu hỏi này chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Đánh giá kết quả 
can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, 
Bình Lục, Hà Nam” với 2 mục tiêu: 
1. Mô tả kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và 
 Đồn Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam năm 2013. 
2. Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà 
 mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, huyện Bình Lục, Hà Nam năm 2015. 
 NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 
 Để phòng bệnh TCM, Bộ Y tế khuyến cáo người dân chủ động phòng bệnh, tuy nhiên trong thực tiễn, 
dịch bệnh TCM vẫn bùng phát ở một số địa phương, đặc biệt là những vùng có điều kiện vệ sinh môi trường 
chưa tốt. Cộng đồng nông thôn Hà Nam nói chung, xã An Lão nói riêng phát triển chăn nuôi rất mạnh, nhưng 
chưa giải quyết tốt vấn đề vệ sinh môi trường tạo điều kiện cho dịch bùng phát, trong đó có nguy cơ dịch bệnh 
TCM. 
 Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng là hoạt động nghiên cứu mang tính khoa học, có giá trị cao, 
kết quả đạt được thật sự là bằng chứng có sức thuyết phục đối với các nhà khoa học và các nhà quản lý. Hoạt 
động can thiệp dựa trên nguồn lực sẵn có từ hệ thống y tế cơ sở, cá nhân và sự tham gia của cộng đồng là 
chính, nên đảm bảo sự duy trì và tính bền vững. 
 Đề tài chứng minh được hiệu quả can thiệp TT-GDSK trên toàn cộng đồng. Về can thiệp đã có cái mới là đa 
kênh, đa hình thức về truyền thông và có sự giám sát của hệ thống y tế, đánh giá được kiến thức, thực hành của bà mẹ 
có con dưới 5 tuổi trong việc phòng bệnh TCM. Đây là cơ sở và là bằng chứng khoa học giúp cho các nhà quản lý vận 
dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn để nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình dự phòng, phòng bệnh TCM 
cho cộng đồng. 
 Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích DID (Difference in Difference) để đánh giá hiệu quả can 
thiệp về kiến thức/thực hành phòng chống bệnh TCM. Đây là một phương pháp mới trong đánh giá hiệu quả 
can thiệp khi không cùng cỡ mẫu trước và sau can thiệp. 
 Bố cục của luận án: Luận án gồm 123 trang, 21 bảng, 10 biểu đồ, 4 sơ đồ và 109 tài liệu tham khảo, 
trong đó có 58 tài liệu bằng tiếng Anh. Đặt vấn đề gồm 2 trang, tổng quan tài liệu 33 trang, đối tượng và 
phương pháp nghiên cứu 21 trang, kết quả nghiên cứu 38 trang, bàn luận 26 trang, kết luận 1 trang và khuyến 
nghị 1 trang. 
 Chương 1 
 TỔNG QUAN 
1.1. Giới thiệu về bệnh tay-chân-miệng 
 Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) – bệnh TCM là một bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, do 
các vi rút thuộc nhóm đường ruột gây ra. Bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi với các biểu hiện sốt (trên 
37,50C), biếng ăn, mệt mỏi, đau họng, loét miệng hoặc bọng nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng mông, 
đầu gối. Hầu hết các trường hợp là tự khỏi, mà không cần điều trị. Một tỷ lệ ít các trường hợp có thể nặng và 
biểu hiện triệu chứng thần kinh như viêm màng não, viêm não hoặc liệt do Enterovirus gây ra. Bệnh thường 
xảy ra quanh năm và có xu hướng theo mùa (tháng 3-5 và tháng 9-12). 
 2 
 Bệnh TCM lây theo đường tiêu hóa, nguồn lây trực tiếp từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm 
bệnh, hoặc gián tiếp qua nước, thực phẩm, tay bẩn bị nhiễm phân của người bệnh. 
 Để chủ động phòng bệnh TCM, Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần thực hiện 6 biện pháp: Rửa tay 
thường xuyên với xà phòng, thực hiện tốt vệ sinh ăn uống, vệ sinh bề mặt, dụng cụ tiếp xúc, sử dụng nhà tiêu 
hợp vệ sinh, không cho trẻ tiếp xúc với trẻ bệnh và cần đưa trẻ đi khám khi nghi ngờ trẻ mắc bệnh. 
1.2. Hoạt động truyền thông phòng bệnh tay-chân-miệng 
 Truyền thông giáo dục sức khoẻ (TT-GDSK) là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác 
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, góp phần giúp mọi người chủ động chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Trong việc 
phòng bệnh TCM tại cộng đồng, thực hiện TT-GDSK là không thể thiếu, dựa vào những hoạt động TT-GDSK 
để giúp các bà mẹ biết kiến thức về bệnh và thực hành phòng bệnh TCM thông qua truyền thông trực tiếp và 
truyền thông gián tiếp. 
 Bệnh TCM hiện nay chưa có vắc xin phòng bệnh và thuốc điều trị đặc hiệu, do vậy, để phòng bệnh 
TCM cho cộng đồng, một trong những hoạt động thiết yếu cần ưu tiên phối hợp liên ngành thực hiện là TT-
GDSK, các CBYT, tuyên truyền viên, lãnh đạo cộng đồng là những người phải có kiến thức tốt về bệnh TCM 
và thực hành đúng các hành vi phòng bệnh TCM đồng thời cần phải thực hiện các hoạt động TT-GDSK đến 
tất cả các đối tượng trong cộng đồng, ưu tiên bà mẹ có con dưới 5 tuổi và người trực tiếp chăm sóc trẻ. Nội 
dung TT-GDSK phòng bệnh chống TCM cho người dân, cần cụ thể, rõ ràng dễ đọc, dễ hiểu và có khả năng 
thực hiện. Các nội dung này bao gồm kiến thức bệnh TCM như biểu hiện của bênh, đường lây truyền... và thực 
hành phòng bệnh TCM như: rửa tay bằng xà phòng, thực hiện ăn chín, uống chín, thu gom rác thải, phân của 
trẻ đổ nhà tiêu hợp vệ sinh ...., giúp cho người dân thay đổi được các thói quen, lối sống, thực hành các hành vi 
có lợi, hạn chế hành vi có hại ảnh hưởng đến sức khoẻ và tránh sự lây lan của bệnh trong cộng đồng. 
 Đẩy mạnh công tác TT–GDSK phòng bệnh TCM là một chiến lược quan trọng giúp mọi người dân, cụ 
thể là các bà mẹ chủ động phòng chống dịch bệnh nói chung và bệnh TCM nói riêng, từ đó có cách nhìn nhận 
vấn đề sức khoẻ đúng đắn và hành động thích hợp. Để đảm bảo thành công trong các chương trình TT-GDSK 
trong phòng bệnh TCM, không chỉ ngành y tế mà các cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể cần phải tham gia 
vào hoạt động TT-GDSK. 
1.3. Một số nghiên cứu can thiệp phòng chống bệnh tay-chân-miệng trên thế giới và Việt Nam 
 Các chương trình phòng chống bệnh TCM tại cộng đồng đã được triển khai tại nhiều quốc gia. Các 
chương trình này có nhiều điểm tương đồng, bao gồm những nội dung chính: Giáo dục vệ sinh tốt và vệ sinh 
cơ bản thông qua chiến dịch truyền thông sâu rộng; xây dựng và củng cố hệ thống giám sát dịch; hỗ trợ cho 
trường học và các cơ sở chăm sóc trẻ; phổ biến những yếu tố nguy cơ của bệnh; tuyên truyền các biện pháp 
thực hành phòng bệnh. Các nghiên cứu đã có nhiều cách tiếp cận và nhiều biện pháp khác nhau để phòng bệnh 
TCM, triển khai các chương trình phòng bệnh TCM tại cộng đồng ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, 
Singapore..., nội dung chính gồm: Giáo dục vệ sinh tốt và vệ sinh cơ bản thông qua chiến dịch truyền thông 
sâu, rộng; Xây dựng và củng cố hệ thống giám sát dịch; hỗ trợ cho trường học và các cơ sở chăm sóc ban 
ngày; Phổ biến những yếu tố nguy cơ của bệnh; tuyên truyền các biện pháp thực hành phòng bệnh, các nghiên 
cứu đều đạt kết quả tốt trong quá trình thực hiện. 
 Một số can thiệp YTCC hiệu quả đã được áp dụng phòng chống bệnh TCM tại Trung Quốc, Singapore, 
Hồng Kông và được WHO khuyến cáo như: thiết lập hệ thống giám sát và cảnh báo dịch sớm, thường xuyên; 
triển khai các chiến dịch truyền thông; triển khai các chiến dịch vệ sinh, rửa tay bằng xà phòng, chủ động xây 
dựng kế hoạch, chính sách phòng bệnh TCM. 
 Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành quyết định số 581/QĐ-BYT ngày 24/2/2012 hướng dẫn “Giám sát 
và phòng bệnh TCM” nhằm tuyên truyền cho người dân các nội dung: Nguy cơ mắc bệnh; đường lây truyền; 
các triệu chứng của bệnh và những dấu hiệu bệnh chuyển nặng để người dân chủ động phòng bệnh, có thể phát 
hiện sớm các trường hợp mắc bệnh và đưa đến cơ sở y tế kịp thời; không để bệnh lây lan ra cộng đồng; Thực 
hiện 3 sạch: Ăn sạch, ở sạch, bàn tay và chơi đồ chơi sạch. Do vậy, cần có những nghiên cứu can thiệp tiếp 
theo, xây dựng mạng lưới truyền thông, huy động sự tham gia của cộng đồng để phòng chống dịch bệnh được 
tốt hơn. 
1.4. Khung lý thuyết nghiên cứu 
 Cơ sở xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu: 
 Kết quả tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam cho thấy việc phòng bệnh TCM của các bà 
mẹ có con dưới 5 tuổi phụ thuộc kiến thức của các bà mẹ. Kết quả này phù hợp với nguyên lý mà mô hình 
niềm tin sức khoẻ đưa ra. Bên cạnh các yếu tố thuộc về cá nhân, thì những yếu tố tác động từ môi trường xung 
quanh như gia đình, cộng đồng cũng ảnh hưởng đến việc phòng bệnh TCM. 
 3 
 Từ những phân tích trên, chúng tôi đã xây dựng khung lý thuyết cho nghiên cứu này dựa trên sự kết hợp 
từ 2 mô hình lý thuyết, đó là: mô hình lý thuyết thay đổi hành vi là Mô hình niềm tin sức khoẻ để phân tích các 
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe từ đó xác định yếu tố có thể can thiệp, và mô hình lý thuyết về truyền 
thông là Mô hình chiến lược truyền thông để xác định đối tượng, nội dung, phương pháp truyền thông phù 
hợp. 
 Sơ đồ 1.1: Khung lý thuyết nghiên cứu. 
 Chương 2 
 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
2.1.1. Thời gian nghiên cứu 
 Nghiên cứu được thực hiện từ: 6/2013 - 12/2015. 
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 
 Nghiên cứu được thực hiện tại 2 xã thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam: xã An Lão (xã can thiệp) và xã 
Đồn Xá (xã đối chứng). 
2.2. Đối tượng nghiên cứu 
• Đối tượng nghiên cứu định lượng: Bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và xã Đồn Xá của huyện 
 Bình Lục, Hà Nam. 
• Đối tượng nghiên cứu định tính: CBYT, đại diện cán bộ chính quyền và một số ban/ngành của huyện, 
 xã, đại diện bà mẹ có con dưới 5 tuổi. 
 4 
2.3. Phương pháp nghiên cứu 
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu 
 Nghiên cứu được thực hiện theo hai giai đoạn. 
- Giai đoạn 1: Nghiên cứu cắt ngang nhằm mô tả thực trạng kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của bà mẹ có 
 con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và Đồn Xá. 
- Giai đoạn 2: Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có nhóm chứng, để đánh giá thay đổi kiến thức, thực hành 
 phòng chống bệnh TCM của bà mẹ có có dưới 5 tuổi. 
2.3.2. Mẫu nghiên cứu 
2.3.2.1. Cỡ mẫu 
Ø Cỡ mẫu cho mục tiêu 1 
* Cỡ mẫu cho nghiên cứu định lượng: 
 Đề tài này là một phần của đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu thực trạng, xây dựng mô hình dự báo, kiểm soát 
một số nhóm bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam” mã số ĐTĐL.2012- G/32. Từ những người 
được phỏng vấn của mỗi xã chúng tôi chỉ lấy bà mẹ có con dưới 5 tuổi để phân tích mô tả thực trạng kiến thức, 
thực hành phòng bệnh TCM. Kết quả có 105 bà mẹ có con dưới 5 tuổi ở xã An Lão và 91 bà mẹ có con dưới 5 
tuổi ở xã Đồn Xá được đưa vào phân tích. 
* Cỡ mẫu cho nghiên cứu định tính: 
- Tuyến huyện: Thực hiện 02 cuộc phỏng vấn sâu và 01 cuộc thảo luận nhóm 
- Tuyến xã: Thực hiện 04 cuộc phỏng vấn sâu và 06 cuộc thảo luận nhóm. 
Ø Cỡ mẫu cho mục tiêu 2 
* Cỡ mẫu cho nghiên cứu định lượng: 
Trong đó: 
 n1: Cỡ mẫu cho nhóm chứng, n2: Cỡ mẫu cho nhóm can thiệp. 
 po= 0,44: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về phòng bệnh TCM theo nghiên cứu của Trần Thị Anh Đào. 
 p1= 0,8: Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về phòng bệnh TCM trong nhóm can thiệp dự kiến. 
 �: Mức độ chính xác mong muốn = 0,2. 
 Z: hệ số giới hạn tin cậy, ứng với độ tin cậy 95% = 1,96. 
 Từ đó tính được cỡ mẫu tối thiểu = 117, để tăng độ chính xác lấy hệ số thiết kế d = 2, do vậy cỡ mẫu 
 là 234 và thêm 5% dự phòng, do vậy cỡ mẫu làm tròn là 250 bà mẹ cho mỗi nhóm can thiệp và nhóm 
 chứng. 
• Cỡ mẫu cho nghiên cứu định tính: 
- Tuyến huyện: Thực hiện 02 cuộc phỏng vấn sâu và 01 cuộc thảo luận nhóm 
- Tuyến xã: Thực hiện 02 cuộc phỏng vấn sâu và 03 cuộc thảo luận nhóm. 
2.3.2.2. Chọn mẫu 
• Chọn mẫu cho mục tiêu 1: 
- Chọn huyện: Tại tỉnh Hà Nam, chọn chủ đích huyện Bình Lục 
- Chọn xã: Chọn chủ đích xã An Lão và xã Đồn Xá của huyện Bình Lục để tiến hành nghiên cứu. 
- Chọn đối tượng nghiên cứu: 
 + Ở mỗi xã, chọn ngẫu nhiên 04 thôn. Xã An Lão: Gồm các thôn Vĩnh Tứ, Đô Hai, Thứ Nhất, An Lão. 
 Xã Đồn Xá: Tiên lý 1, Tiên lý 2, Hoà Mục, Thôn Nghĩa. Kết quả giai đoạn này đã phỏng vấn được 
 105 bà mẹ tại xã An Lão và 91 bà mẹ tại xã Đồn Xá. 
 + Chọn ĐTNC cho nghiên cứu đính tính: Chọn chủ đích các đối tượng để thực hiện phỏng vấn sâu và ... 92 0,232 2,68 0,531 13,71 
 (β3) Tương tác 
 5,769 0,000 320,32 42,295 425,95 
 (Thời gian * can thiệp) 
* p (của mô hình) <0,05. 
Phương trình hồi qui logistic đa biến: 
Kiến thức = 0,992*Can thiệp + 0,493*Thời gian + 5,769*Tương tác – 3,795. 
Nhận xét: Có sự khác biệt về kiến thức phòng chống bệnh TCM trước và sau can thiệp với p(tương tác)<0,05. 
Sau can thiệp, khả năng nhóm can thiệp có kiến thức phòng chống bệnh TCM cao gấp 320,32 lần so với nhóm 
chứng có ý nghĩa thống kê do 95%CI: 42,295 - 425,95. 
- Đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi thực hành phòng chống bệnh TCM trước - sau can thiệp của bà mẹ 
 có con dưới 5 tuổi: 
 Bảng 3.19: Hiệu quả can thiệp thay đổi thực hành phòng chống bệnh TCM 
 95%CI for EXP(B) 
 Các yếu tố Hệ số B p Exp(B) 
 Lower Upper 
 (β0) Hằng số -3,379 0,000 0,034 
 (β1) Thời gian -0,112 0,880 0,89 0,21 3,83 
 (β2) Can thiệp 0,383 0,607 1,47 0,34 6,31 
 (β3) Tương tác 
 6,078 0,000 436,10 68,48 777,11 
 (Thời gian * can thiệp) 
* p của mô hình <0,05. 
Phương trình hồi quy logistic đa biến: 
Thực hành = 0,383*Can thiệp - 0,112*Thời gian + 6,078*Tương tác – 3,379 
Nhận xét: Có sự khác biệt về thực hành phòng chống bệnh TCM trước và sau can thiệp với p(tương 
tác)<0,05. Sau can thiệp, khả năng nhóm can thiệp có thực hành phòng chống bệnh TCM cao gấp 436,10 lần 
so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với 95%CI: 68,480 – 777,11. 
3.3.4. Khả năng duy trì và nhân rộng các hoạt động can thiệp 
 Người dân ủng hộ, tích cực tham gia, được CBYT xã An Lão đánh giá cao. Đây là một điểm quan trọng để có 
thể duy trì và nhân rộng các hoạt động can thiệp. 
 Các hoạt động can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của chúng tôi là một phần của 
Mô hình kiểm soát một số nhóm bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng đã được Trung tâm y 
tế huyện Bình Lục gửi công văn nhân rộng mô hình kiểm soát dịch bệnh kiên quan đến biến đổi khí hậu tại các 
xã/thị trấn trong huyện. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân xã An Lão cũng ra quyết định thành lập Nhóm Hành 
động Ứng phó nhanh với dịch bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu trong đó có bệnh TCM để khẳng định các 
hoạt động can thiệp tại xã An Lão có hiệu quả, được cộng đồng đánh giá cao. 
 Chương 4 
 BÀN LUẬN 
4.1. Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và 
xã Đồn Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam năm 2013 và một số yếu tố liên quan 
 Kiến thức về bệnh và phòng TCM của các ĐTNC chưa được tốt (bảng 3.3, bảng 3.4, bảng 3.5), các bà mẹ 
chưa có kiến thức đầy đủ về bệnh TCM cũng như về nguồn lây bệnh, đường lây truyền, dấu hiệu nhận biết 
bệnh và các biện pháp phòng bệnh. Trong bảng 3.6, bảng 3.7 cho thấy, việc thực hành các biện pháp phòng 
 12 
bệnh của ĐTNC chưa được toàn diện, việc lau rửa vệ sinh sàn nhà, đồ chơi, đồ dùng, của trẻ hàng ngày chưa 
được các bà mẹ quan tâm thực hiện. Vì vậy, trong các hoạt động can thiệp, cần tập trung công tác tuyên 
truyền, tập huấn bổ sung kiến thức cho các bà mẹ để các bà mẹ biết đầy đủ kiến thức về bệnh TCM, để các bà 
mẹ chủ động trong việc phòng bệnh cho con mình, sớm phát hiện bệnh kịp thời, tránh để bệnh TCM chuyển 
nặng, gây tử vong ở trẻ. 
 Các bà mẹ cũng mong muốn tìm hiểm về bệnh TCM qua ti vi, qua CBYT, và qua tờ rơi, do vậy cần phải nâng 
cao kiến thức phòng bệnh TCM cho các CBYT và kỹ năng TT-GDSK, đồng thời thiết kế tờ rơi rõ ràng, dễ hiểu, thu 
hút. 
 Trên cơ sở chấm điểm để đánh giá kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của bà mẹ có con dưới 5 tuổi, 
kết quả biểu đồ 3.4 cho thấy có mối liên quan tuyến tính giữa điểm kiến thức về bệnh TCM với điểm thực 
hành phòng bệnh TCM cho trẻ của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi. Những bà mẹ có con dưới 5 tuổi có kiến thức 
phòng bệnh TCM tốt có xu hướng thực hành phòng bệnh TCM tốt hơn so với những bà mẹ có kiến thức chưa 
tốt. Vì vậy, cần quan tâm tuyên truyền kiến thức về bệnh, phòng bệnh TCM đến các bà mẹ có con nhỏ nói 
chung, và bà mẹ có con dưới 5 tuổi nói riêng, kiến thức phòng bệnh TCM của các bà mẹ tốt sẽ thực hành 
phòng bệnh được tốt hơn. Đồng thời, cần quan tâm hơn đối với các bà mẹ là nông dân, những bà mẹ có học 
vấn thấp và những bà mẹ thuộc hộ nghèo vì trong nghiên cứu này họ có kiến thức, thực hành phòng bệnh 
TCM thấp hơn những bà mẹ khác. 
4.2. Kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 
tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam năm 2015 
4.2.1. Các hoạt động can thiệp đã được thực hiện 
• Xây dựng mạng lưới TT-GDSK: Chúng tôi đã xây dựng được mạng lưới TT-GDSK, thành lập được ban 
 chỉ đạo tuyến huyện, tuyến xã và phân công trách nhiệm cho người tham gia TT-GDSK phòng bệnh TCM tại 
 cộng đồng. Đây là một nhân tố rất quan trọng, nếu không có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền thì 
 cũng sẽ rất khó huy động được cộng đồng tham gia. 
• Kết quả phát triển tài liệu truyền thông: Qua các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với cán bộ y 
 tế, ban chỉ đạo huyện, người dân, bà mẹ có con dưới 5 tuổi. Tài liệu đã được các ĐTNC đánh giá cao về 
 giá trị nội dung, rất có ích, viết ngắn gọn, rõ ràng, đọc rất dễ hiểu. Cuốn tài liệu này rất phù hơp cho người 
 dân và người làm công tác tuyên truyền. 
• Kết quả tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ y tế. 
 Trong quá trình can thiệp chúng tôi đã tổ chức tập huấn cho các CBYT kiến thức về bệnh và cách phòng 
bệnh TCM, kỹ năng TT-GDSK, kỹ năng tư vấn sức khoẻ. Sau 18 tháng can thiệp, qua các cuộc phỏng vấn sâu 
lãnh đạo cộng đồng, thảo luận nhóm CBYT huyện, CBYT xã/thôn và thảo luận nhóm của người dân, các ý 
kiến đều cho rằng: Cán bộ tham gia đề tài đã được học tập về kiến thức, kỹ năng truyền thông nên đã áp dụng 
vào công việc của mình tốt, họ tự tin và chủ động hơn trong hoạt động TT-GDSK, biết kết hợp lồng ghép hoạt 
động phòng bệnh TCM với các hoạt động y tế khác ở địa phương. 
• Kết quả thực hiện TT-GDSK. 
 Các ý kiến đều cho rằng hoạt động TT-GDSK là phù hợp và được người dân chấp nhận, ủng hộ. Sự phù hợp 
của hoạt động can thiệp còn thể hiện ở chỗ các hoạt động TT-GDSK đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay trong phong 
trào xây dựng nông thôn mới, thu hút được chính quyền và nhiều ban ngành, đoàn thể tham gia. Trong các hoạt 
động can thiệp tại xã An Lão, chúng tôi quan tâm đến hoạt động TT-GDSK cho cộng đồng, coi đây là hoạt động 
can thiệp cốt lõi của nghiên cứu. 
 Bên cạnh những tác động tích cực đến người dân, các can thiệp cũng ảnh hưởng tích cực đến các nhà quản lý 
tại địa phương. Nhiều hoạt động chỉ đạo cụ thể của chính quyền xã, thôn đã tác động đến người dân theo nhiều 
kênh thông tin, giúp người dân nhớ được những kiến thức về bệnh và thường xuyên có các việc làm cụ thể, góp 
phần phòng chống bệnh tật nói chung và bệnh TCM nói riêng. 
4.2.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có 
con dưới 5 tuổi 
• Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 
 tuổi. 
 Sau thời gian can thiệp, sự thay đổi kiến thức về bệnh TCM của ĐTNC đã cho kết quả rõ rệt, kết quả này 
phần nào đã thể hiện các hoạt động TT-GDSK được thực hiện là phù hợp. Các hoạt động can thiệp đã được 
ĐTNC tích cực hưởng hứng thể hiện thông qua hiểu biết kiến thức của bệnh (bảng 3.13, bảng 3.14, bảng 
3.15). ĐTNC không chỉ quan tâm đến các biểu hiện của bệnh rõ ràng mà còn quan tâm đến các biểu hiện sớm, 
để có biện pháp xử trí kịp thời, tránh bệnh trầm trọng. Kết quả này cũng cho thấy hiệu quả của chương trình 
can thiệp phòng bệnh TCM tại xã An Lão, các bà mẹ có kiến thức phòng bệnh TCM tốt sẽ thực hành phòng 
bệnh TCM tốt hơn. 
 Như vậy hoạt động can thiệp phòng bệnh TCM của đề tài tại xã An Lão đã đạt được kết quả nhất định, 
kiến thức về bệnh TCM đã tăng lên đáng kể so với trước can thiệp và so với nhóm chứng. Tỷ lệ ĐTNC có kiến 
thức chung về bệnh TCM đạt của xã can thiệp là 97,6% cao hơn nhiều so với trước can thiệp là 5,7%, hiệu quả 
 13 
can thiệp đạt 1900%, tuy nhiên vẫn còn 2,4% bà mẹ có kiến thức về bệnh TCM chưa đạt, do vậy các hoạt 
động can thiệp tại xã tiếp tục phải được đẩy mạnh và duy trì thường xuyên, việc phòng bệnh tại địa phương 
được tốt hơn. Để phòng bệnh TCM, ngoài việc biết kiến thức về bệnh thì các bà mẹ cần phải biết các dấu hiệu 
bệnh TCM chuyển nặng là rất quan trọng, vì trẻ có những dấu hiệu này sẽ được đưa đến bệnh viện sớm để theo 
dõi và điều trị kịp thời, giúp giảm tỷ lệ biến chứng và tử vong ở trẻ. 
• Hiệu quả can thiệp thay đổi thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 
 tuổi. 
 Sau can thiệp, tỷ lệ ĐTNC thực hành các biện pháp phòng bệnh tăng lên ở cả hai xã nhưng xã can thiệp 
tăng nhiều hơn so với xã đối chứng và so với trước can thiệp (bảng 3.16, bảng 3.17). Tỷ lệ ĐTNC có thực 
hành chung về bệnh TCM đạt của xã can thiệp là 95,6% cao hơn nhiều so với trước can thiệp là 4,8%, hiệu 
quả can thiệp đạt 1918,9%. Sự vào cuộc của các cấp chính quyền, của các lãnh đạo cộng đồng và của người 
dân, đặc biệt là các bà mẹ có con dưới 5 tuổi của chương trình can thiệp đã tác động đến hành vi của người 
dân, đặc biệt là bà mẹ có con dưới 5 tuổi, họ đã chủ động trong việc phòng bệnh cho gia đình và cộng đồng, 
tránh sự lây lan của bệnh. 
 Dựa vào phân tích DID, kết quả (bảng 3.18, bảng 3.19) cho thấy các hoạt động can thiệp tiến hành tại xã 
An Lão có hiệu quả, cải thiện kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi. Sau 
can thiệp, khả năng nhóm can thiệp có kiến thức phòng bệnh TCM cao gấp 320,32 lần so với nhóm chứng có ý 
nghĩa thống kê với 95%CI: 42,295 - 425,95. Sau can thiệp, khả năng nhóm can thiệp có thực hành phòng 
chống bệnh TCM cao gấp 436,10 lần so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với 95%CI: 68,480 – 777,11. 
4.2.3. Khả năng duy trì và nhân rộng hoạt động can thiệp 
 Hoạt động TT-GDSK đã làm thay đổi kiến thức, thực hành của đối tượng tham gia nghiên cứu trong đó 
có CBYT. Với kết quả thảo luận nhóm trong ban chỉ đạo huyện Bình Lục cũng như lãnh đạo ban ngành của xã 
An Lão đã đánh giá cao giá trị của đề tài và mong muốn tiếp tục mở rộng hoạt động TT-GDSK và khẳng định 
hoạt động TT-GDSK có thể duy trì được. 
 Chúng tôi cho rằng, để duy trì các hoạt động can thiệp ở xã An Lão và mở rộng ra các xã khác cần tiếp 
tục đẩy mạnh TT-GDSK, hướng dẫn cộng đồng hành động. Mặt khác không thể thiếu sự chỉ đạo của chính 
quyền, ngành y tế và sự tham gia của các ban, ngành, đoàn thể để duy trì bền vững các hoạt động can thiệp 
phòng chống dịch bệnh trong đó có bệnh TCM. 
4.3. Ưu điểm và hạn chế của đề tài 
 Đề tài này là một phần của đề tài cấp nhà nước, đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình và hỗ trợ của các cấp 
chính quyền địa phương và người dân, cùng với sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ y tế từ tỉnh, huyện, xã 
đến thôn xóm nên các hoạt động can thiệp đều được triển khai đúng tiến độ. 
 Đề tài sử dụng một phần số liệu của đề tài cấp nhà nước, nên cỡ mẫu điều tra ban đầu được lấy từ đề tài 
cấp nhà nước, do vậy cỡ mẫu điều tra ban đầu nhỏ hơn cỡ mẫu đánh giá sau can thiệp. Tuy nhiên, chúng tôi đã 
tiến hành can thiệp toàn bộ cộng đồng, đồng thời chúng tôi cũng điều tra kiến thức, thực hành của các hộ gia 
đình trước can thiệp trong đó có cả bà mẹ có con dưới 5 tuổi. 
 Khi đánh giá thực hành của bà mẹ có con dưới 5 tuổi, chúng tôi chỉ khảo sát ý kiến của bà mẹ thông qua 
bộ câu hỏi, không quan sát được thực hành của các bà mẹ. Điều này chúng tôi đã khắc phục trong khi thiết kế 
bộ câu hỏi phỏng vấn các bà mẹ, những câu hỏi mang tính chất nhớ lại, chúng tôi có những câu hỏi kiểm tra 
chéo thông tin. 
 KẾT LUẬN 
1. Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi ở xã An Lão và xã 
Đồn Xá, Bình Lục, Hà Nam năm 2013. 
 Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh TCM năm 2013 của bà mẹ có con dưới 5 tuổi rất hạn chế, cần 
tập trung công tác tuyên truyền, tập huấn bổ sung kiến thức cho các bà mẹ để các bà mẹ biết đầy đủ đường lây 
truyền, biểu hiện của bệnh và các biện pháp phòng bệnh TCM. Không có sự khác biệt giữa nhóm can thiệp và 
nhóm chứng. 
 Tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi có kiến thức về bệnh và phòng chống bệnh TCM đạt chỉ 5,7%, không đạt 
chiến 94,3%. Tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi có thực hành phòng bệnh TCM đạt chỉ chiếm 4,8%, không đạt 
chiếm 95,2%. 
2. Kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 
5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam năm 2015 
 Hoạt động can thiệp được thực hiện tại xã An Lão, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam đã thu hút được sự 
tham gia của chính quyền, ban ngành, đoàn thể trong việc phòng chống bệnh TCM. Kiến thức, thực hành 
phòng chống bệnh TCM sau can thiệp của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tăng lên đáng kể. Có sự khác biệt kiến 
 14 
thức, thực hành phòng chống bệnh TCM giữa trước và sau can thiệp, giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng. Tỷ 
lệ ĐTNC có kiến thức mức đạt về bệnh và phòng bệnh TCM sau can thiệp đạt chiếm 97,6%. Hiệu quả can 
thiệp thay đổi kiến thức phòng bệnh TCM của bà mẹ có con dưới 5 tuổi mức đạt là 1900%, kiến thức đạt tăng 
thêm 91,9%. 
 Tỷ lệ ĐTNC thực hành phòng chống bệnh TCM mức đạt của các bà mẹ chiếm 95,6%. Hiệu quả can thiệp 
làm thay đổi thực hành phòng bệnh TCM của bà mẹ có con dưới 5 tuổi mức đạt là 1918,9%, thực hành đạt 
tăng thêm 90,8%. 
 Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: cần duy trì và mở rộng các hoạt động can thiệp TT-GDSK, huy động 
nguồn lực của cộng đồng và nâng cao nâng lực cho cộng đồng. Các hoạt động can thiệp phòng chống bệnh 
TCM có khả năng duy trì và nhân rộng ra các xã khác của huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, phù hợp với tiêu chí 
xây dựng nông thôn mới hiện nay. 
 KHUYẾN NGHỊ 
Đối với các bà mẹ: 
1. Duy trì các hoạt động phòng bệnh TCM đã thực hiện tại địa phương và áp dụng thực hiện tốt, thường 
 xuyên, đầy đủ các biện pháp phòng bệnh TCM khi chăm sóc trẻ. 
2. Chủ động và tích cực tham gia các hoạt động hướng dẫn phòng bệnh TCM do địa phương tổ chức. Tích 
 cực tham gia tuyên truyền cho gia đình, bạn bè, cộng đồng phòng bệnh TCM. 
Đối với chính quyền, CBYT, ban ngành đoàn thể liên quan: 
 1. Tăng cường công tác TT-GDSK trên các phương tiện thông tin đại chúng về nguồn lây bệnh, biểu hiện 
 của bệnh và các biện pháp phòng chống TCM tại cộng đồng. 
 3. Chính quyền UBND xã An Lão cần tiếp tục chỉ đạo, tăng cường sự phối hợp các ban ngành, đoàn thể để 
 duy trì và nhân rộng các kết quả can thiệp đã đạt được tại xã. 
 4. CBYT xã An Lão cần tiếp tục tăng cường lồng ghép thực hiện các hoạt động TT-GDSK, góp phần quan 
 trọng trong kiểm soát bệnh TCM. Tập huấn nâng cao trình độ cho CBYT công tác phòng chống bệnh 
 TCM và đội ngũ cộng tác viên, kỹ năng truyền thông cho cộng đồng. 
 5. Trung tâm y tế huyện Bình Lục cần có kế hoạch tiếp tục hỗ trợ trạm y tế xã trong việc duy trì hoạt động 
 TT-GDSK tại xã An Lão và mở rộng hoạt động TT-GDSK sang các xã khác trong huyện Bình Lục. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_danh_gia_ket_qua_can_thiep_cai_thien_kien_th.pdf