Tóm tắt Luận án Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi ban hành Hiến pháp năm
2013, vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế để bảo vệ có hiệu quả
các quyền con người, các quyền công dân càng trở nên cấp bách và trở
thành nhiệm vụ của toàn xã hội. Để đẩy mạnh công tác tư pháp cho ngang
tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị
quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như “bảo đảm tranh tụng với Luật
sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.”, “ các cơ
quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá
trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận
dân chủ tại phiên toà.”.
Hoạt động bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng là cần thiết khách
quan. Khi tham gia giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong phạm vi được pháp luật
cho phép, Luật sư bào chữa có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện các hoạt động
nghề nghề nghiệp khác nhau nhằm bào chữa cho bị can, bị cáo một cách có
hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động bào chữa của Luật sư thời gian qua còn nhiều
bất cập, hạn chế. Nguyên nhân của các bất cập, hạn chế đó là do bất cập
trong quy định của pháp luật cũng như nhận thức và tổ chức thực hiện hoạt
động bào chữa trên thực tế. Trong quá trình tham khảo các tài liệu có liên
quan, nghiên cứu sinh nhận thấy mới chỉ có các công trình nghiên cứu ở cấp
độ thạc sỹ, tiến sỹ, đề tài khoa học cấp cớ sở, cấp Bộ, các bài viết viết trên
các tạp chí chuyên ngành của các nhà khoa học, những người làm công tác
thực tiễn về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung hoặc
vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền của bị can, bị cáo hay chỉ đề cập
đến khía cạnh hẹp của vấn đề mà chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách trực diện, chuyên sâu về vấn đề hoạt động thực tế của luật sư đặc biệt
là hoạt động bào chữa của luật sư. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ các vấn
đề lý luận liên quan đến hoạt động bào chữa của Luật sư trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự; đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn này và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào
chữa của Luật sư có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận và
phương diện thực tiễn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGÔ THỊ NGỌC VÂN HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 62 38 01 04 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS NGUYỄN VĂN HUYÊN 2. TS. PHAN THANH MAI Phản biện 1: PGS.TS. Hồ Trọng Ngũ Phản biện 2: TS. Nguyễn Ngọc Chí Phản biện 3: TS. Nguyễn Đức Phúc Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường, họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội, vào hồi h ngày tháng năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại: 1) Thư viện Quốc gia; 2) Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế để bảo vệ có hiệu quả các quyền con người, các quyền công dân càng trở nên cấp bách và trở thành nhiệm vụ của toàn xã hội. Để đẩy mạnh công tác tư pháp cho ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như “bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”, “ các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà...”. Hoạt động bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng là cần thiết khách quan. Khi tham gia giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong phạm vi được pháp luật cho phép, Luật sư bào chữa có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện các hoạt động nghề nghề nghiệp khác nhau nhằm bào chữa cho bị can, bị cáo một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động bào chữa của Luật sư thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Nguyên nhân của các bất cập, hạn chế đó là do bất cập trong quy định của pháp luật cũng như nhận thức và tổ chức thực hiện hoạt động bào chữa trên thực tế. Trong quá trình tham khảo các tài liệu có liên quan, nghiên cứu sinh nhận thấy mới chỉ có các công trình nghiên cứu ở cấp độ thạc sỹ, tiến sỹ, đề tài khoa học cấp cớ sở, cấp Bộ, các bài viết viết trên các tạp chí chuyên ngành của các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung hoặc vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền của bị can, bị cáo hay chỉ đề cập đến khía cạnh hẹp của vấn đề mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực diện, chuyên sâu về vấn đề hoạt động thực tế của luật sư đặc biệt là hoạt động bào chữa của luật sư. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động bào chữa của Luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của Luật sư có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Đề tài “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề 2 lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn về hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động bào chữa và các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự. Với mục đích đó, Đề tài nghiên cứu đặt ra các nhiệm vụ sau: - Làm rõ vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: xây dựng khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nội dung hoạt động bào chữa, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hoạt động này. - Làm rõ cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc). - Kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự . 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định pháp luật liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư, thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này. Phạm vi nghiên cứu: tập trung làm rõ khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cở sở pháp lý, nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động này; làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hoạt động bào chữa của luật sư và những phương hướng, yêu cầu đặt đối với việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác. Luận án nghiên cứu nội dung hoạt động bào chữa và thực trạng của hoạt động này trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và tại phiên toà sơ thẩm (không nghiên cứu hoạt động bào chữa của luật sư trong một số trường hợp đặc thù như bào chữa cho người chưa thành niên, theo thủ tục rút gọn và sau phiên toà sơ thẩm). Về pháp luật, luận án tập trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư. Ngoài ra, luận án cũng nghiên cứu các văn bản pháp luật TTHS khác và văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề này cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài ở mức độ phù hợp với yêu cầu và điều kiện nghiên cứu. Vấn đề thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luận án sẽ đánh giá thông qua việc nghiên cứu, tổng kết các vụ án đã xét xử sơ thẩm có sự tham gia của luật sư bào chữa từ năm 2005- 3 2014 và hoạt động thực tế của luật sư bào chữa ở một số tỉnh, thành phố trên cơ sở báo cáo của LĐLS Việt Nam, của VKSNDTC, TANDTC, phiếu khảo sát và các thông tin, tài liệu khác. 4. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác - Lê nin; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người, về vấn đề cải cách tư pháp và về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Tác giả chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với nội dung nghiên cứu. Cụ thể: - Sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp trong tất cả các chương của luận án để làm rõ các vấn đề về lý luận, thực trạng và giải pháp. - Sử dụng phương pháp so sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến luận án; so sánh với các chuẩn mực quốc tế; đánh giá tình hình luật sư tham gia bào chữa; đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư. - Sử dụng phương pháp thống kê khi tổng hợp các số liệu liên quan đến luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự; khảo sát, phỏng vấn đối với các luật sư đang hành nghề, người tiến hành tố tụng đánh giá về chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư. 5. Những điểm mới của luận án - Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư như xây dựng khái niệm hoạt động bào chữa, chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa, nội dung của hoạt động này trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về hành nghề luật sư ảnh hưởng đến hoạt động bào chữa của luật sư. - Làm rõ thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế của hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm thực hiện và nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Luận án này là một công trình khoa học có ý nghĩa lớn lao cả về lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể bổ sung lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng. Điều này có ý nghĩa không chỉ với các nhà nghiên cứu và đào tạo mà cả những người làm công tác xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Luận án cung cấp một bức tranh tổng quan về hệ thống các quy phạm pháp luật, 4 những hạn chế và yêu cầu cần sửa đổi pháp luật về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 7. Kết cấu của luận án Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, luận án có kết cấu gồm 4 chương chính như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận án sẽ gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2: Lý luận về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 3: Cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Ngoài 4 chương chính nêu trên, luận án còn bao gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, có không ít bài báo, công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đề cập đến quyền bào chữa và quyền có NBC. Những tác phẩm nổi bật, đáng chú ý bao gồm: sách “ Brownlie’s document on the man right” của tác giả Lan Brownlie, GuyS.Goodwin -Grill năm 2010; sách “Toward an international criminal procedure” của tác giả Christoph Saffeling năm 2003; bài viết “Basic principles on the role of lawyers” của tác giả Adam Paker năm 2008; bài viết “Quá trình phát triển luật hình sự ở Hoa Kỳ” của GS.JamesB.Jacobs, Warren.E.Burger tại tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ năm 2001. Ngoài ra, có một số nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng của người bị buộc tội được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người, trong đó bao gồm các nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Thanh Nga về quyền của người chưa thành niên bị buộc tội quy định trong Công ước về Quyền trẻ em ví dụ/; “Developments in the Right to Defence for Juvenile Offenders since Vietnam’s Ratification of the Convention on the Rights of the Child” trên tạp chí East Asia Law Review (2014) and “Juvenile Offenders in Vietnam and the Right to Defence” trên tạp chí Youth Justice. 5 Nghiên cứu lý luận cơ bản về mô hình tố tụng cần kể đến cuốn sách “Tư pháp hình sự so sánh” của Philip.L.Reichel (bản dịch tiếng Việt - Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý); cuốn sách “Khái quát hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ” (dịch từ nguyên bản tiếng Anh Outline of the U.S. Legal System, Congressional Quarterly, Inc, 2001); bài viết “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp” của tác giả James Claude và Joseph Daly; sách “Những mô hình tố tụng hình sự trên thế giới” của Jean -Philippe Rivaud; sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hành Quốc và Nga” do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010. Liên quan đến vấn đề hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cuốn sách “Bào chữa trong các vụ án hình sự ở Liên bang Nga” đăng trên trang web: của William Burnham năm 2012, Giáo sư Luật; trong tài liệu tại Hội thảo quốc tế về Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của luật sư bào chữa năm 2012, tác giả Tian Wen Chang - chuyên gia Trung Quốc công bố bài viết “Suy nghĩ và đánh giá tổng thể về bản dự thảo sửa đổi Luật tố tụng hình sự Trung Quốc”. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM 1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến cơ sở lý luận của luận án Những nghiên cứu về quyền con người có thể kể đến các cuốn sách chuyên khảo: “Quyền con người - tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học”- GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội 2010 (2 tập); “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người ”- G.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội 2011; “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” của nhóm tác giả gồm GS.TS Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao và Th.S Lã Khánh Tùng chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 và bài viết “ Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ” của PGS. TSKH. Lê Cảm, Tạp chí TAND số 11, 13 và 14/2006. Những nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền có NBC còn khá khiêm tốn, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào được thực hiện dưới góc độ so sánh pháp luật. Ở Việt Nam, các nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa và bảo đảm quyền có NBC như: “nghiên cứu QBC trong pháp luật TTHS và thực tiễn tại Việt Nam” do nhóm nghiên cứu Nguyễn Hưng Quang và cộng sự năm 2012; Luận văn thạc sỹ “Thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tường Vi; luận án tiến sỹ “Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Mỹ và Đức” của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh; cuốn “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội” của tác giả Phạm Hồng Hải xuất bản năm 1999; cuốn“Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả 6 Nguyễn Văn Tuân năm 2003. Những công trình khoa học nghiên cứu lý luận về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng gỡ tội cũng góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài luận án. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do VKSNDTC chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam; Luận án tiến sĩ “Các chức năng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2012; bài viết “Phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS: Buộc tội, bào chữa và xét xử” của tác giả Hà An. Các nghiên cứu về thủ tục, phương thức thực hiện các hoạt động tố tụng, trong đó có hoạt động bào chữa của luật sư cũng là những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, đặc biệt là các nghiên cứu về tranh tụng. Có thể kể đến luận án tiến sĩ “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010; bài viết “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTHS” của tác giả Lê Tiến Châu, tạp chí Khoa học pháp lý số 1, năm 2003; bài Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật TTHS của PGS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 6, năm 2004; bài “Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng ca ... ng, được bảo mật thông tin trao đổi giữa luật sư và người được bào chữa, không bị hạn chế số lần gặp, thời gian gặp, không bị kiểm soát về nội dung cuộc trao đổi mà chỉ kiểm soát về tầm nhìn; bảo đảm quyền gặp gỡ, thông tin liên lạc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị án và người bào chữa; trách nhiệm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan giam giữ có nghĩa vụ bảo đảm các cuộc gặp mặt và việc thông tin liên lạc giữa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị án với người bào chữa của họ một cách riêng tư và độc lập; chưa có quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm hình sự và dân sự của người bào chữa; chưa quy định trách nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố tụng phải tôn trọng kết quả bào chữa; xem xét các tài liệu, đồ vật do bên bào chữa cung 21 cấp; các tình tiết và những lập luận do bên bào chữa nêu ra. Các vi phạm quyền của người bào chữa từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bị xem là những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và không có giá trị chứng minh tại phiên toà. BLTTHS chưa quy định về cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền của người bào chữa; chế tài theo hướng quy định hậu quả pháp lý, theo đó nếu các cơ quan tiến hành tố tụng có vi phạm thì người tham gia tố tụng không phải gánh chịu hậu quả; Thứ hai: chưa quy định chế tài nghiêm ngặt để ràng buộc trách nhiệm cá nhân của người bào chữa; thiếu cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm của Cơ quan điều tra, VKS trong việc đảm bảo sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động điều tra khác; Thứ ba: một số quy định về thủ tục xét xử còn chưa thực sự bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước tòa án và chưa đảm bảo tăng cường tranh tụng; quy định trong phần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm chưa cụ thể hóa được chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, chưa nhấn mạnh được vai trò của luật sư bào chữa, chưa nâng cao được vị thế của luật sư cũng như trách nhiệm của luật sư với tư cách là chủ thể của bên gỡ tội. 3.3.2. Nguyên nhân khác 3.3.2.1. Từ phía luật sư - Trong hoạt động bào chữa của mình, nhiều Luật sư còn thiếu tinh thần trách nhiệm với thân chủ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề của Luật sư bào chữa còn chưa đồng đều; - Do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định, Luật sư đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho bị can, bị cáo. - Nhiều Luật sư có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhưng chưa có được một môi trường cạnh tranh lành mạnh; tổ chức Luật sư (các văn phòng Luật sư) chưa được tổ chức đầy đủ ở các địa phương; các tổ chức này phân bố không đồng đều ở các địa phương không đáp ứng nhu cầu bào chữa ở nhiều tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. 3.3.2.2. Từ phía cơ quan tiến hành tố tụng - Cơ quan tiến hành tố tụng còn gây khó khăn, không tạo điều kiện để luật sư thực hiện các quyền bào chữa theo quy định của pháp luật, nhận thức của người tiến hành tố tụng về hoạt động bào chữa của luật sư chưa đúng đắn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng chưa đồng đều. - Phẩm chất đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của các chủ thể tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế. - Trong quá trình tham gia tố tụng và liên quan đến việc hành nghề, nhiều luật sư bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, 22 LĐLSVN đã can thiệp rất mạnh mẽ, kiên quyết nhưng nhiều vụ việc không được Cơ quan tố tụng khẩn trương làm rõ, khiến cho quyền hành nghề của luật sư bị ảnh hưởng, giảm sút sự tin cậy của xã hội đối với vị trí, vai trò của đội ngũ luật sư. 3.3.2.3. Tuyên truyền giáo dục pháp luật Trên thực tế, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thực sự hiệu quả. Bởi lẽ, một số cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động này; chưa chủ động, tích cực trong tổ chức thực hiện; chưa linh hoạt trong việc tìm kiếm các mô hình, phương pháp, cách làm phù hợp với điều kiện của địa phương; lực lượng thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật chủ yếu là kiêm nhiệm nên chưa chuyên tâm với công việc. Kết luận chương 3 Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã thực sự mang lại hiệu quả không chỉ đối với bị can, bị cáo họ bảo vệ mà còn góp phần làm sáng tỏ vụ án, giúp Toà án có những phán quyết chính xác, đúng pháp luật. Mặc dù còn có những khó khăn nhất định nhưng nhìn chung hoạt động bào chữa của Luật sư đã đáp ứng được những yêu cầu bào chữa và đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, chất lượng bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn những hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng kém hiệu quả trong hoạt động bào chữa của Luật sư nước ta hiện nay xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và những điều kiện khách như quy định của pháp luật tố tụng hình sự và một số văn bản khác có liên quan chưa rõ ràng, đầy đủ; hạn chế về nhận thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề, đạo đức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng và từ phía luật sư; nhận thức của người dân (cả công dân nói chung và người bị buộc tội nói riêng). Chương 4 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 4.1. YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ 4.2. GIẢI PHÁP VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ - Thứ nhất: hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ của người bào chữa và việc đảm bảo thực hiện như bổ sung điều luật mới về trình tự và thủ tục gặp gỡ, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm 23 quyền gặp gỡ giữa người bào chữa và người bị giam, giữ; quy định rõ ràng, cụ thể quyền sao chụp hồ sơ, tài liệu của vụ án ở các giai đoạn tố tụng của người bào chữa, quy định cụ thể trình tự, thủ tục và việc bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa về đọc, sao chụp hồ sơ vụ án; quy định về cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền của người bào chữa và chế tài cần thiết đối với cơ quan, người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm; xây dựng chế tài nghiêm ngặt để ràng buộc trách nhiệm cá nhân của người bào chữa ... BLTTHS cũng cần quy định luật sư bào chữa phải được có mặt trong lần lấy lời khai đầu tiên của người bị tạm giữ hoặc bị can để đảm bảo tính khách quan, chính xác của lời khai; - Thứ hai: bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, thực hiện các quyền tư pháp; quy định trách nhiệm thông báo của người tiến hành tố tụng đối với các đối tượng thực hiện quyền bào chữa; - Thứ ba: quy định trách nhiệm, chế tài cụ thể của Đoàn luật sư, Văn phòng luật sư trong việc không cử người bào chữa sau khi cơ quan tiến hành tố tụng đã yêu cầu; bổ sung những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ chi phí cho người bào chữa trong các trường hợp bắt buộc và trường hợp người bào chữa có mặt trong lần đầu tiên lấy lời khai của người bị tạm giữ hoặc bị can. 4.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC 4.3.1. Đối với đội ngũ luật sư Xây dựng đội ngũ Luật sư theo hướng nắm vững luật pháp, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu bảo vệ chân lý khách quan trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền; nhanh chóng xây dựng đội ngũ Luật sư với số lượng và chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu tham gia bào chữa đối với tất cả các vụ án không chỉ ở những thành phố lớn như hiện nay. Luật sư bào chữa tại phiên toà phải được coi như một bên tranh tụng thực sự bình đẳng với cơ quan công tố; cần tăng cường công tác đào tạo và rèn luyện phẩm chất đạo đức của đội ngũ Luật sư, nâng cao chất lượng các khoá đào tạo nguồn luật sư đặc biệt chú trọng đào tạo về kỹ năng hành nghề nói chung và kỹ năng tranh tụng tại phiên toà nói riêng và tạo điều kiện để Luật sư được thử thách trong thực tiễn; thu hút chuyên gia giỏi về pháp luật tham gia đội ngũ Luật sư; hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư; tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý về luật sư và hành nghề luật sư, nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ cán bộ tư pháp thực hiện công tác quản lý luật sư và hành nghề luật sư; có chính sách kích thích nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức; ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực tham gia hoạt động hành nghề luật sư; có phương thức cung cấp thông tin và tiếp cận thông tin dễ dàng, thuận lợi giữa công dân, cơ quan, tổ chức với tổ chức, hoạt động luật sư; có chính sách ưu đãi đối với tổ chức, hoạt động luật sư ở các địa 24 phương vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; nâng cao vị trí, vai trò của đội ngũ luật sư trong việc tham gia hoạch định chính sách, xây dựng, giám sát thực thi pháp luật, thực hiện trách nhiệm xã hội, góp phần bảo đảm thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ công lý, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn; chế độ đãi ngộ đối với luật sư, nhất là luật sư chỉ định cần được quan tâm; cho phép người tập sự hành nghề luật sư được tham gia một số hoạt động tố tụng hình sự dưới sự kèm cặp, giám sát của luật sư hướng dẫn để tránh tình trạng thiếu vắng việc thực hành kỹ năng thực tế trong quá trình tập sự 4.3.2. Đối với người tiến hành tố tụng Cần xoá bỏ tư tưởng hạ thấp vai trò của Luật sư trong nhận thức của những người tiến hành tố tụng, thay đổi nhận thức “việc Luật sư tham gia chỉ là sự trang trí cho phiên toà”; phải tự trau dồi cho mình những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, nắm chắc các văn bản pháp luật, đặc biệt các văn bản pháp luật chuyên ngành để từ đó nâng cao năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế cho những người tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong quá trình thực thi nhiệm vụ và cơ quan tiến hành tố tụng phải đặt ra các yêu cầu cụ thể về việc thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp và chế tài áp dụng đối với những trường hợp vi phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần xây dựng cơ chế thu hút người có năng lực vào ngành tư pháp; phối hợp với những cơ sở đào tạo các chức đanh tư pháp xây dựng các chương trình đào tạo chức danh tư pháp chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thực tế. 4.3.3. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật - Làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Qua đó giúp người dân có ý thức tuân thủ pháp luật, nhận thức được và tự bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân. - Cần xây dựng thói quen sống và làm việc theo pháp luật của công dân; nâng cao trình độ dân trí; phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng bằng các hình thức đơn giản, dễ tiếp cận, lôi cuốn được sự chú ý của nhiều người như xây dựng những bộ phim trong đó đề cao vai trò của luật sư bảo vệ có hiệu quả cho người bị buộc tội không bị oan. Kết luận chương 4 Trong bối cảnh cải cách tư pháp tập trung vào việc tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự, trọng tâm là đổi mới hoạt động xét xử, vai trò của luật sư trong hoạt động tranh tụng càng phải được xem xét một cách toàn diện cùng với các yếu tố đảm bảo cho luật sư phát huy vai trò của mình trong thực tiễn. Hoạt động bào chữa của luật sư là vấn đề được quan tâm sâu sắc 25 trong quá trình thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp. Để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng, chúng tôi cho rằng cần tiến hành đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và xác định đúng vai trò, vị trí của người bào chữa trong tố tụng hình sự; hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo hướng bổ sung thêm quyền của người bào chữa khi tham gia tố tụng; có cơ chế đảm bảo cho các quy định của pháp luật về quyền của luật sư được thực hiện trên thực tế; nâng cao trình độ và kỹ năng nghiệp vụ, trau dồi đạo đức cho các luật sư. KẾT LUẬN Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là các công việc, thao tác nghề nghiệp do luật sư tiến hành trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức luật sư nhằm chống lại việc buộc tội, xác định sự vô tội của người bị buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần xác định sự thật vụ án. Thực tiễn cho thấy, những năm qua hoạt động bào chữa của Luật sư đã có đóng góp quan trọng góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; thực hiện việc dân chủ hoá hoạt động tố tụng, tăng cường tranh tụng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, hoạt động bào chữa của Luật sư thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Nguyên nhân của các bất cập, hạn chế đó là do bất cập trong quy định của pháp luật cũng như nhận thức và tổ chức thực hiện hoạt động bào chữa trên thực tế. Việc nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự; làm rõ chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chú trọng chức năng gỡ tội. Theo đó, vị trí của Luật sư phải được xem là một bên tham gia tố tụng, ngang hàng với Viện kiểm sát tại phiên toà nói chung và phiên toà sơ thẩm nói riêng. Nhận thức đó phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là những người tiến hành tố tụng và mọi công dân. Đồng thời, cần có giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, nâng cao phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn của Luật sư; chú ý đến vai trò của tổ chức Luật sư trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp; Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý và điều kiện cần thiết để khuyến khích Luật sư trong hoạt động nghề nghiệp, đồng thời nâng cao vai trò tự quản của Đoàn Luật sư. Trong quá trình cải cách tư pháp cần củng cố, tăng cường tổ chức và hoạt động của Luật sư. Sự đổi mới này phải đặt trong tổng thể cải cách tư pháp, trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. 26 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Ngô Thị Ngọc Vân (2015), “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở mô hình tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng”, Tạp chí Nghề luật, (5). 2. Ngô Thị Ngọc Vân (2015), “Cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt động bào chữa và nội dung hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Nghề luật, (6). 3. Ngô Thị Ngọc Vân (2015), “Một số vấn đề về quyền bào chữa của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật quốc tế”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (12).
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_hoat_dong_bao_chua_cua_luat_su_trong_giai_do.pdf