Tóm tắt Luận án Kết quả cắt một phần thùy nông tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành

Bướu tuyến mang tai chiếm tỉ lệ 3% trong tất cả bướu vùng đầu

cổ, có 80% là bướu hỗn hợp lành tính. Thùy nông tuyến mang tai chiếm

80% nhu mô tuyến mang tai. Khoảng 90% bướu hỗn hợp lành ở thùy

nông tuyến mang tai.

Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính yếu cho bướu hỗn hợp

tuyến mang tai. Trước đây, việc điều trị bằng phẫu thuật thường không

đạt hiệu quả an toàn bởi vì để đạt được tỉ lệ tái phát thấp thì thường phải

hy sinh dây thần kinh mặt khi cắt trọn tuyến mang tai. Ngược lại nếu

chỉ lấy bướu để bảo tồn dây thần kinh mặt thì tỉ lệ tái phát rất cao. Năm

1934, Henri Redon và Podovani đã đề xuất và thực hiện cắt bỏ tuyến

mang tai toàn phần có bảo tồn thần kinh mặt bằng cách bóc tách tỉ mỉ

và giữ lại tất cả các nhánh của dây thần kinh này. Để hạn chế những

biến chứng sau mổ của phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần có bảo

tồn thần kinh mặt mà không làm tăng tỉ lệ tái phát, phẫu thuật cắt thùy

nông tuyến mang tai đã mang lại hiệu quả nhất định và đã được chấp

nhận rộng rãi trong điều trị bướu hỗn hợp ở thùy nông tuyến mang tai.

pdf 27 trang dienloan 5720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Kết quả cắt một phần thùy nông tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Kết quả cắt một phần thùy nông tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành

Tóm tắt Luận án Kết quả cắt một phần thùy nông tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
NGUYỄN HỮU PHÚC 
KẾT QUẢ CẮT MỘT PHẦN 
THÙY NÔNG TUYẾN MANG TAI 
TRONG ĐIỀU TRỊ BƢỚU HỖN HỢP LÀNH 
Chuyên ngành: Ung thư 
Mã số: 62720149 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC 
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2017 
Công trình được hoàn thành tại: 
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Người hướng dẫn khoa học: 
GS.TS. NGUYỄN SÀO TRUNG 
Phản biện 1: PGS.TS. NGÔ THU THOA 
 Bệnh viện K Hà Nội 
Phản biện 2: PGS.TS. HUỲNH QUYẾT THẮNG 
 Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ 
Phản biện 3: TS. PHẠM XUÂN DŨNG 
 Bệnh viện Ung bướu Thành Phố Hồ Chí Minh 
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại: 
Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh 
Vào lúc. giờ. ngày.. tháng năm 
Có thể tìm hiểu thêm về luận án tại: 
- Thư viện Quốc gia Việt Nam 
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM 
- Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM 
1 
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN 
1. Đặt vấn đề 
Bướu tuyến mang tai chiếm tỉ lệ 3% trong tất cả bướu vùng đầu 
cổ, có 80% là bướu hỗn hợp lành tính. Thùy nông tuyến mang tai chiếm 
80% nhu mô tuyến mang tai. Khoảng 90% bướu hỗn hợp lành ở thùy 
nông tuyến mang tai. 
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính yếu cho bướu hỗn hợp 
tuyến mang tai. Trước đây, việc điều trị bằng phẫu thuật thường không 
đạt hiệu quả an toàn bởi vì để đạt được tỉ lệ tái phát thấp thì thường phải 
hy sinh dây thần kinh mặt khi cắt trọn tuyến mang tai. Ngược lại nếu 
chỉ lấy bướu để bảo tồn dây thần kinh mặt thì tỉ lệ tái phát rất cao. Năm 
1934, Henri Redon và Podovani đã đề xuất và thực hiện cắt bỏ tuyến 
mang tai toàn phần có bảo tồn thần kinh mặt bằng cách bóc tách tỉ mỉ 
và giữ lại tất cả các nhánh của dây thần kinh này. Để hạn chế những 
biến chứng sau mổ của phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần có bảo 
tồn thần kinh mặt mà không làm tăng tỉ lệ tái phát, phẫu thuật cắt thùy 
nông tuyến mang tai đã mang lại hiệu quả nhất định và đã được chấp 
nhận rộng rãi trong điều trị bướu hỗn hợp ở thùy nông tuyến mang tai. 
Trong những năm gần đây, nhằm hạn chế đến mức tối đa các biến 
chứng, phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai được lựa 
chọn cho tất cả các bệnh nhân bướu lành tuyến mang tai có kích thước 
nhỏ hơn 4cm, ở thùy nông nhằm làm giảm tối đa biến chứng liệt thần 
kinh mặt tạm thời sau mổ và hội chứng Frey nhưng tỉ lệ tái phát không 
cao hơn so với các phẫu thuật kinh điển để nâng cao chất lượng cuộc 
sống cho bệnh nhân. 
Câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu là khi thực hiện phẫu thuật cắt 
một phần thùy nông tuyến mang tai tại Bệnh viện Ung Bướu thì tỉ lệ tái 
phát sau phẫu thuật có tương đương với các phẫu thuật kinh điển trước 
2 
đây hay không? Phẫu thuật này có mang lại những lợi ích đáng kể cho 
bệnh nhân và chúng tôi có thể áp dụng phẫu thuật này như một phẫu 
thuật tiêu chuẩn để điều trị cho những bệnh nhân có bướu tuyến mang 
tai có kích thước nhỏ hơn 4cm nằm ở thùy nông hay không? 
Thực hiện đề tài này chúng tôi có các mục tiêu nghiên cứu sau: 
1. Xác định tỉ lệ tái phát sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành. 
2. Xác định các yếu tố liên quan đến biến chứng liệt thần kinh 
mặt tạm thời, hội chứng Frey. 
3. Đánh giá kết quả thẩm mỹ của các phương pháp tạo hình 
khuyết hổng sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai. 
2. Tính cấp thiết của đề tài 
Phẫu thuật bướu lành tuyến mang tai đã trải qua một lịch sử lâu 
dài với nhiểu cải tiến kỹ thuật, mục đích nhằm hạn chế tái phát và sau 
đó làm giảm thiểu các biến chứng nghiêm trọng như liệt dây thần kinh 
mặt tạm thời, hội chứng Frey và thêm vào đó là lấy đầy khuyết hổng 
sau phẫu thuật. Bệnh viện Ung Bướu là nơi có bề dày kinh nghiệm phẫu 
thuật các loại bướu tuyến nước bọt hỗn hợp. 
Trong các thập niên vừa qua khuynh hướng trên thế giới là phẫu 
thuật tối thiểu cho các bướu lành tuyến mang tai có kích thước nhỏ ở 
thùy nông tuyến mang tai Lợi điểm chủ yếu của phẫu thuật này là hạn 
chế tỉ lệ liệt thần kinh mặt sau mổ, tần xuất hội chứng Frey so với các 
phẫu thuật kính điển trước đây như cắt thùy nông tuyến mang tai, cắt 
tuyến mang tai toàn phần có bảo tồn thần kinh mặt nhưng vẫn đảm bảo 
về mặt ung bướu với một tỉ lệ tái sau sau mổ thấp tương đương với các 
phẫu thuật kinh điển trước đây. Do đó nghiên cứu “Kết quà cắt một 
phần thùy nông tuyến mang trong điều trị bướu hỗn hợp lành” sẽ đóng 
3 
thêm những kinh nghiệm và dữ liệu cho điều trị loại bệnh lý này ở Việt 
Nam. 
3. Những đóng góp mới của luận án 
Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị của một loại kỹ thuật mới so 
với các kỹ thuật mổ trinh điển trước dây cho thấy tỉ lệ kiểm soát bướu 
của loại phẫu thuật này tương tư, nhưng đả làm giảm đáng kê tỉ lệ liệt 
thần kinh mặt cũng như hội chứng Frey sau mổ. Nghiên cứu cũng phân 
tích các yếu tố liên quan dến tình trạng liệt thần kinh mặt tạm thời sau 
mổ. 
Tạo hình khuyết hổng sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai được thực hiện một cách thường qui cho bệnh nhân sau 
phẫu thuật nhằm che lấp khuyết hổng sau phẫu thuật mang lại kết quả 
thẫm mỹ cao sau phẫu thuật. Đây cũng là điểm mới trong nghiên cứu. 
4. Bố cục của luận án 
Luận án dày 120 trang gồm: Đặt vấn đề: 2 trang; Tổng quan tài 
liệu: 40 trang; Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 11 trang; Kết 
quả: 22 trang; Bàn luận: 43 trang; Kết luận và kiến nghị: 2 trang. Có 33 
bảng, 33 hình, 5 biểu đồ và 2 sơ đồ, 182 tài liệu tham khảo, trong đó có 
19 tài liệu tiếng Việt. 
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.5 Điều trị bƣớu tuyến mang tai 
1.5.1. Ý nghĩa diện cắt trong phẫu thuật tuyến mang tai 
Vào những năm của nửa đầu của thế kỷ 20, phẫu thuật bướu hỗn 
hợp chủ yếu là bóc bướu trong vỏ bao. Thời gian này, phẫu thuật viên 
quan tâm nhiều đến tổn thương thần kinh mặt hơn là sự tái phát. Chấn 
thương thần kinh mặt tương đối ít gặp nhưng tỉ lệ tái phát tại chỗ lên 
đến 35%, cao đến mức không thể chấp nhận được. 
4 
Theo Henri Redon và Jacques Delarue, đa số các trường hợp 
bướu hỗn hợp không có vỏ bao. Vỏ bao của bướu chỉ là một vỏ bao giả 
do chèn ép cơ học. Do đó phẫu thuật bóc bướu có thể để sót lại những 
chồi bướu ngoài vỏ bao và đây là nguyên nhân dẫn đến tái phát. Tác giả 
cũng ghi nhận bướu nguyên phát thường có nhiều ổ, ở vị trí cách xa 
bướu chính, có khi ở thùy còn lại. Những ổ bướu ở xa thường là những 
ổ vi thể và rất khó được phát hiện. Tính đa ổ trong bướu hỗn hợp chiếm 
tỉ lệ cao và đặc biệt trong các trường hợp bướu tái phát. Năm 1934, 
Henri Redon đề xuất một loại phẫu thuật mang tên ông: “Cắt tuyến 
mang tai toàn phần bảo tồn thần kinh mặt” với mục đích phẫu tích lấy 
toàn bộ mô tuyến mang tai ở lần phẫu thuật đầu tiên. Những tranh luận 
về việc xử trí đúng mức bướu hỗn hợp tuyến mang tai phát xuất từ 
những ghi nhận có tính trái ngược nhau trên y văn về tính đa ổ của bướu 
nguyên phát.. Ngày nay các nghiên cứu đều nhận định tỉ lệ bướu đa ổ 
rất thấp dưới 2% và nhận thấy khoảng 90% các trường hợp bướu hỗn 
hợp tuyến mang tai xuất phát từ thùy nông tuyến mang tai. Do vậy, việc 
coi tính đa ổ là nguyên nhân của sự tái phát bướu đã không còn được 
ủng hộ nhiều. 
Năm 1957, Martin và sau đó là Patey và Thackray, đã đề nghị cắt 
thùy nông tuyến mang tai đối với bướu hỗn hợp ở thùy nông dựa trên 
những ghi nhận kết hợp giữa phẫu thuật và mô bệnh học, với lý do là 
tránh bỏ sót những sang thương vệ tinh trong quá trình bóc bướu. Các 
tác giả chứng minh được vỏ bao của bướu có nhiều nơi bị thiếu và có 
nhiều ổ bướu vi thể bên ngoài bướu chính. Vì vậy, tái phát hoặc mổ còn 
sót đều do những ổ bướu này được để lại sau phẫu thuật, nhất là mổ 
“bóc nhân” có tỉ lệ tái phát rất cao. Phương pháp cắt thùy nông là một 
kỹ thuật được chấp nhận rộng rãi nhất trong điều trị bướu hỗn hợp ở 
thùy nông. Ngày nay, phẫu thuật cắt thùy nông vẫn được xem là phẫu 
5 
thuật tiêu chuẩn trong điều trị bướu hỗn hợp tuyến mang tai với tỉ lệ tái 
phát 0-5%. Đây là một tỉ lệ chấp nhận được. Tuy nhiên việc bóc tách 
toàn bộ các nhánh của thần kinh mặt, lấy đi phần lớn mô tuyến mang tai 
có thể gây ra nhiều biến chứng hậu phẫu như liệt thần kinh mặt tạm thời 
kéo dài, tần suất hội chứng Frey cao. Tỉ lệ liệt thần kinh mặt vĩnh viễn 
sau cắt tuyến mang tai toàn phần 5-10%, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời 
có thể lên đến 20-50%. Tỉ lệ này trong cắt thùy nông tuyến mang tai 
chiếm lần lượt là 5-8% và 15-25%. Tần suất của hội chứng Frey theo 
nhiều tác giả sau cắt thùy nông trên 10% và sau cắt tuyến mang tai toàn 
phần trên 30%. Vì những biến chứng hậu phẫu này chiếm một tỉ lệ khá 
cao khi điều trị một bệnh lý lành nên trong suốt 20 năm qua, một số kỹ 
thuật cắt một phần tuyến mang tai đã được giới thiệu với mục đích là 
chỉ bóc tách một phần thần kinh mặt và chỉ lấy đi một phần tuyến mang 
tai. Những tiến bộ của kỹ thuật này làm giảm đáng kể tỉ lệ liệt thần kinh 
mặt tạm thời và hội chứng Frey. Theo dõi trong thời gian dài cho thấy 
những kỹ thuật này không làm gia tăng tỉ lệ tái phát của bướu hỗn hợp. 
Với mong muốn có được hiệu quả tốt hơn, tỉ lệ biến chứng thấp hơn, 
bảo tồn được chức năng tuyến mang tai, trong những năm gần đây có 
nhiều cải tiến về mặt kỹ thuật mổ như cắt một phần tuyến mang tai hoặc 
cắt bướu ngoài vỏ bao. Y văn cũng ghi nhận sau phẫu thuật cắt một 
phần thùy nông tuyến mang tai hay cắt bướu ngoài vỏ bao, tỉ lệ biến 
chứng giảm đi rõ rệt so với các phẫu thuật tiêu chuẩn trước đây. Các kết 
quả này cũng nhận định rằng lượng mô tuyến mang tai cắt bỏ đi dường 
như là một trong những yếu tố nguy cơ chính cho sự phát triển các biến 
chứng.Những phẫu thuật này dựa trên nguyên lý cơ bản là lấy đi vài 
milimét mô tuyến bình thường bao quanh bướu cũng đủ để ngăn ngừa 
tái phát. Nhìn chung đây là những phẫu 
6 
1.6. Biến chứng sau phẩu thuật cắt tuyến mang tai 
1.6.1. Liệt thần kinh mặt 
Biến chứng liệt dây thần kinh mặt có nhiều mức độ khác nhau, 
liệt mặt chiếm tỷ lệ khoảng 10-30%, liệt mặt kéo dài < 3%. Tỷ lệ liệt 
mặt trong phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần bảo tồn thần kinh 
mặt cao hơn trong cắt thùy nông. Thời gian hồi phục liệt mặt tạm thời 
sau phẫu thuật cắt thùy nông nhanh hơn do ít bóc tách nâng mạng thần 
kinh mặt, ít sang chấn hơn so với phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn 
phần. Theo tác giả Witt, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời là 80% sau 
phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần bảo tồn thần kinh mặt, 20% sau 
cắt thuỳ nông tuyến mang tai và không có trường hợp nào liệt thần kinh 
mặt vĩnh viễn. 
1.6.2. Hội chứng Frey 
Tần suất mắc hội chứng Frey thay đổi theo mức độ để ý trong 
chẩn đoán và thời gian sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai, khoảng 10%, 
có thể đến 30-40% nếu đánh giá chính xác. Nếu dùng test Minor, tỉ lệ 
dương tính có thể lên đến 95% trên tất cả các bệnh nhân trải qua phẫu 
thuật cắt tuyến mang tai. Tỉ lệ hội chứng Frey sau mổ cắt tuyến mang 
tai là 10-30%. Việc bóc tách tất cả các nhánh của thần kinh mặt trong 
phẫu thuật cắt tuyến mang tai dẫn đến gia tăng nhiều hơn tỷ lệ tổn 
thương thần kinh mặt và hội chứng Frey. Khi thực hiện phẫu thuật cắt 
một phần thùy nông tuyến mang tai chỉ bóc tách những nhánh thần kinh 
mặt gần khối bướu giúp giảm đáng kể nguy cơ tổn thương thần kinh 
mặt. Thêm vào đó, mô tuyến mang tai được cắt đi ít hơn làm giảm đi tỷ 
lệ hội chứng Frey. 
1.6.3. Khuyết hổng sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai 
Phẫu thuật cắt tuyến mang tai làm loại bỏ nhiều hoặc hầu hết tế 
bào tuyến. Mức độ không cân xứng hai bên mặt phụ thuộc vào thể tích 
7 
mô được loại bỏ sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai, để lại khuyết hổng 
sau xương hàm dưới gây lõm đường cong khuôn mặt. Để tránh sự biến 
dạng khuôn mặt, một số kỹ thuật đã phát triển giúp ngăn ngừa các biến 
chứng này. Tỉ lệ khuyết hổng sau mổ là 9-34%. 
Vạt cơ ức đòn chũm thường được dùng để tạo hình sau phẫu 
thuật. Vạt này có thể dùng đơn độc hay kết hợp với các vạt khác nhằm 
làm tăng hiệu quả che lấp khuyết hổng. Đường mổ cổ điển hay đường 
mổ căng da mặt trong phẫu thuật tuyến mang tai giúp đánh giá đầy đủ 
toàn bộ cơ ức đòn chũm cho phép lấy vạt dựa vào cuống trên hay cuống 
dưới hoặc vạt cả hai cuống. 
Phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai cho thấy tỷ lệ 
tái phát và hội chứng Frey thấp, tổn thương thần kinh mặt cũng thấp khi 
so sánh với các kỹ thuật khác. Hơn thế nữa, việc bảo tồn tuyến mang tai 
được sử dụng để đạt được sự phục hồi khuyết hổng tốt hơn do đó cắt 
một phần tuyến mang tai là điểm mấu chốt trong việc cải thiện thẩm mỹ 
trong phẫu thuật bướu hỗn hợp tuyến mang tai. 
1.6.4. Tụ dịch sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai 
Tụ dịch nước bọt là một biến chứng thường xảy ra sau phẫu thuật 
cắt tuyến mang tai. Dù đây là biến chứng khá phổ biến nhưng có rất ít 
thông tin trong y văn liên quan đến nguyên nhân của hiện tượng này. Tụ 
dịch nước bọt là tình trạng dịch nước bọt tích tụ sau mổ ở vết thương 
trong những ngày đầu hậu phẫu. Hầu hết các trường hợp tự ít dần, có 
thể tự khỏi sau vài tuần mà không cần điều trị. Biến chứng này có thể 
làm cho bệnh nhân lo ngại, đôi khi dẫn đến tình trạng nhiễm trùng. 
8 
Chƣơng 2 
ĐỐI TƢƠNG PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Các trường hợp bướu tuyến mang tai được điều trị tại khoa Ngoại 
3 Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ tháng 3/2010 đến tháng 
12/2013 thỏa tiêu chuẩn 
Bướu ở thùy nông có kích thước nhỏ hơn 4cm được xác định trên 
siêu âm. 
Có kết quả FNA và giải phẫu bệnh sau mổ phù hợp là bướu hỗn 
hợp. 
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 
Bướu tuyến mang tai tái phát. 
Diện cắt phẫu thuật còn bướu. 
Bướu vỡ vỏ bao trong lúc phẫu thuật. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn được 145 bệnh nhân 
vào lô nghiên cứu, trong quá trình phẫu tích cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai, 5 trường hợp chúng tôi làm vỡ vỏ bao bướu trong lúc 
phẫu thuật. Các trường hợp này chúng tôi chuyển sang phẫu thuật cắt 
thùy nông tuyến mang tai. Có 5 trường hợp kết quả FNA trước mổ là 
bướu hỗn hợp, nhưng kết quả giải phẫu bệnh sau mổ là bướu tuyến đơn 
dạng 3 trường hợp, 2 trường hợp là bướu tuyến tế bào đáy. Các trường 
hợp này chúng tôi loại khỏi mẫu nghiên cứu. Như vậy, chúng tôi chọn 
được 135 bệnh nhân đưa vào phân tích. 
2.2. Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả loạt ca, có theo dõi dọc 
9 
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong thời gian từ tháng 32010 đến tháng 12/2013 chúng tôi ghi 
nhận 135 trường hợp được thực hiện phẫu thuật cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai tại Khoa Ngoại 3 Bệnh Viện Ung Bướu đủ tiêu chuẩn 
chọn bệnh vào mẫu nghiên cứu. 
3.1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu 
3.1.1. Tuổi, giới 
Độ tuổi thường gặp trong nghiên cứu là 40-60, tuối trung bình: 
40,7 ± 12,3 tuổi. Giới tính: Nữ giới thường gặp hơn nam giới, tỉ lệ nữ: 
nam là 3:1. 
3.1.3. Thời gian khởi bệnh 
Thời gian khởi bệnh trung bình: 33,4 tháng, thời gian khởi bệnh 
trung vị: 24 tháng (1 -120 tháng). 
3.1.5. Kích thƣớc bƣớu 
Kích thước bướu trung bình: 22,8 m ... cứu vào ngày 01/06/2015. Tỉ lệ theo dõi 
được trong lô nghiên cứu là 89,9%. Thời gian theo dõi trung bình là 40 
tháng, thời gian theo dõi trung vị là 39 tháng,thời gian theo dõi ngắn 
nhất là 17 tháng, thời gian theo dõi lâu nhất là 63 tháng. Hiện tại đến 
17 
thời điểm chấm dứt nghiên cứu, chúng tôi chưa ghi nhận có trường hợp 
nào tái phát sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai. 
Chƣơng 4: BÀN LUẬN 
4.3. Kết quả điều trị 
4.3.1. Tỉ lệ tái phát tại chổ 
Nghiên cứu bệnh chứng của Plaza G và cộng sự tại Bệnh viện 
Fuenlabrada ở Madrid, Tây Ban Nha bao gồm 25 bệnh nhân cắt thùy 
nông tuyến mang tai và 25 bệnh nhân cắt một phần thùy nông tuyến 
mang tai. Cả hai nhóm bệnh bệnh nhân có sự tương đồng về độ tuổi, 
giới tính, kích thước bướu, giải phẫu bệnh. Tác giả nhận thấy cả hai kĩ 
thuật phẫu thuật đều rất hiệu quả, không thấy bướu tái phát trong thời 
gian theo dõi trung bình là 48 tháng. Sự tái phát tại chỗ hiếm gặp đối 
với những trường hợp các bướu lành tuyến mang tai có kích thước nhỏ. 
Tác giả Witt đã tổng kết y văn, cho thấy hầu như bướu tái phát sau một 
năm theo dõi; tuy nhiên cũng có trường hợp đến tận 10 năm sau phẫu 
thuật. Tỉ lệ tái phát thấp đã khiến một số tác giả đề nghị kéo dài thời 
gian theo dõi sau 2 năm, nhưng có lẽ điều này không cần thiết. Hầu hết 
các tác giả đều đồng ý thời gian theo dõi nên dài hơn, trên 10 năm, đặc 
biệt với những bướu có kích thước trên 4 cm. Tác giả Roh tại Hàn Quốc 
thực hiện một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh giữa hai nhóm, 
một nhóm thực hiện phẫu thuật kinh điển bao gồm cắt tuyến mang tai 
toàn phần bảo tồn thần kinh mặt hoặc cắt thùy nông tuyến mang tai với 
một nhóm thực hiện cắt một phần thùy nông tuyến mang tai. Nghiên 
cứu được thực hiện từ năm 2002 đến năm 2004 với 50 bệnh nhân được 
thực hiện phẫu thuật cắt một phần thùy nông so với nhóm còn lại bao 
gồm 49 bệnh nhân trong đó có 45 bệnh nhân được thực hiện cắt thùy 
nông tuyến mang tai và 4 bệnh nhân cắt tuyến mang tai toàn phần bảo 
18 
tồn thần kinh mặt. Với thời gian theo dõi trung bình là 48 tháng, tác giả 
cũng không ghi nhận có trường hợp nào tái phát ở cả hai nhóm bệnh. 
Nghiên cứu của chúng tôi bắt đầu thực hiện từ tháng 4/2010 đến 
tháng 12/2013 bao gồm 135 trường hợp. Tất cả đều được phẫu thuật cắt 
một phần thùy nông tuyến mang tai. Với thời gian theo dõi trung bình là 
47 tháng, chúng tôi chưa ghi nhận có trường hợp nào tái phát sau phẫu 
thuật. Thời gian theo dõi ngắn nhất là 24 tháng. Đây có thể là đủ thời 
gian để đánh giá tái phát sớm sau phẫu thuật. Các trường hợp bướu hỗn 
hợp nếu có tái phát sớm sau phẫu thuật thì thường trong vòng 2 năm 
đầu. Các trường hợp tái phát trễ có thể gặp sau 5 năm hay thậm chí 10 
năm sau phẫu thuật, thường gặp trên những bệnh nhân sau phẫu thuật 
cắt thùy nông tuyến mang tai hay cắt tuyến mang tai toàn phần có bảo 
tồn thần kinh mặt. Thời gian theo dõi dài nhất là 69 tháng. Đây cũng là 
một mốc thời gian khá đủ để đánh giá tái phát sau phẫu thuật cắt một 
phần thùy nông tuyến mang tai. Thời gian theo dõi trung bình 47 tháng 
cũng đủ để đánh giá tái phát. Kết quả trên cũng là cơ sở để chọn lựa kỹ 
thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai nhằm thay thế cho phẫu 
thuật cắt thùy nông tuyến mang tai kinh điển trước đây. Nghiên cứu này 
cũng cho thấy tính an toàn về mặt ung bướu học khi thực hiện chọn lựa 
phẫu thuật này ở nhóm bệnh nhân có bướu hỗn hợp nằm ở thùy nông có 
kích thước bướu nhỏ hơn 4cm. Đây cũng là nhóm bệnh nhân thường 
gặp nhất của bướu hỗn hợp tuyến mang tai. 
Một đặc điểm quan trọng khác cần lưu tâm đến là khi thực hiện 
bất kỳ phẫu thuật nào, phẫu thuật viên phải tránh làm vỡ vỏ bao bướu 
trong lúc phẫu thuật. Vỡ vỏ bao bướu được ghi nhận với tỉ lệ 5%-10% 
đối với cắt thùy nông tuyến mang tai cũng như 0-9,2% đối với cắt bướu 
ngoài vỏ bao. Vỡ vỏ bao là một biến chứng của phẫu thuật nhưng rõ 
19 
ràng có thể tránh được. Tỉ lệ tái phát bướu cũng có liên quan đến tình 
trạng vỡ vỏ bao trong lúc phẫu thuật. 
4.3.3. Tỉ lệ liệt thần kinh mặt sau phẫu thuật cắt một phần thùy 
nông tuyến mang tai 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời 
chiếm 37%, chủ yếu ở mức độ nhẹ. Tỉ lệ này có cao hơn so với các 
nghiên cứu khác trên y văn. Tuy nhiên khi so sánh với phẫu thuật cắt 
thùy nông được thực hiện tai Bệnh viện Ung Bướu trước đây, chúng tôi 
nhận thấy tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời sau phẫu thuật cắt một phần 
thùy nông có giảm đi nhiều (37%) so với phẫu thuật cắt thùy nông 
tuyến mang tai (74,1%). Phần lớn các trường hợp liệt thần kinh tạm thời 
trong nghiên cứu của chúng tôi ở mức độ nhẹ và mức độ trung bình 
theo phân độ của House- Brackmann. Khoảng 25,2% bệnh nhân có liệt 
mặt theo phân độ House-Brackmann độ II, 7,4% bệnh nhân có House-
Brackmann độ III và 4,4% bệnh nhân có House-Brackmann độ IV. Tác 
giả Roh ghi nhận trong nghiên cứu phần lớn các trường hợp liệt thần 
kinh mặt tạm thời sau mổ ảnh hưởng chủ yếu đến nhánh bờ hàm dưới, 
House- Brackmann độ II và độ III. Trong 59 trường hợp cắt một phần 
tuyến mang tai, tác giả Witt ghi nhận 50 trường hợp có House-
Brackmann độ I, 5 trường hợp có House-Brackmann độ II, 3 trường hợp 
House-Brackmann độ III và 1 trường hợp House- Brackmann độ IV. 
Nghiên cứu của tác giả O'Brien, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời sau sau 
cắt thùy nông giới hạn là 27%. Theo tác giả Roh tỉ lệ liệt mặt sau cắt 
một phần thùy nông tuyến mang tai là 11,5%, tác giả Nicolaos, tỉ lệ liệt 
mặt sau phẫu thuật này là 2,9%. Tác giả Garcia- Purrinos, nghiên cứu 
trên 57 trường hợp phẫu tích cắt một phần thùy nông tuyến mang tai có 
thời gian theo dõi từ 3 đến 13 năm, tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời 
chiếm 24,5%. Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy thời gian hồi phục 
20 
trung bình của liệt mặt tạm thời là 11 tuần, đa phần các trường hợp bị 
liệt nhánh bờ hàm dưới. Các yếu tố liên quan đến liệt thần kinh mặt sau 
phẫu thuật cắt tuyến mang tai vẫn còn tranh cãi chưa có sự thống nhất. 
Các yếu tố này bao gồm độ rộng của phẫu thuật, liên quan đến bướu ác 
tính, kích thước sang thương, tuổi bệnh nhân, phẫu thuật tuyến mang tai 
trước đó, thời gian phẫu thuật, tình trạng bệnh lý kèm theo như tiểu 
đường. Trong nghiên cứu của Ikoma tác giả nhận thấy tỉ lệ liệt thần 
kinh mặt tạm thời là 18,9%, thời gian thần kinh mặt hồi phục chức năng 
là 2,7 tháng. Khi phân tích đa biến tác giả nhận thấy liên quan giữa tỉ lệ 
liệt thần kinh mặt tạm thời và vị trí bướu: trên > dưới (OR= 
4,93,p sau (OR= 2,91, p=0,021) và thùy sâu > thùy 
nông (OR= 2,76,p=0,033). Tác giả cũng nhận thấy có đến 75,8% trường 
hợp liệt thần kinh mặt liên quan đến nhánh bờ hàm dưới. Tổn thương 
nhánh bờ hàm dưới dễ gây liệt mặt vì nhánh này ít có các nhánh nối với 
các nhánh khác, đường kính nhỏ và đường đi dài. Nghiên cứu của 
chúng tôi cũng nhận thấy phần lớn các trường hợp chiếm 82% thần kinh 
mặt hồi phục sau 3 tháng. Sau thời gian theo dõi 6 tháng tỉ lệ hồi phục 
thần kinh mặt chiếm tỉ lệ 100%. Trong các yếu tố dẫn đến liệt thần kinh 
mặt sau phẫu thuật tuyến mang tai, hầu hết các tác giả đều đồng ý rằng 
cắt một phần tuyến mang tai so với các phẫu thuật cắt thùy nông tuyến 
mang tai hay cắt tuyến mang tai toàn phần có bảo tồn thần kinh mặt ít 
gây ra liệt mặt hơn. Điểm khác biệt này có ý nghĩa thống kê qua nhiều 
nghiên cứu được báo cáo trên y văn. Độ rộng bóc tách thần kinh mặt có 
liên quan đến sang chấn thần kinh mặt và gây ra liệt mặt. Theo tác giả 
Witt, liệt thần kinh mặt vĩnh viễn tăng gấp 3 lần, liệt thần kinh mặt tạm 
thời tăng gấp 2 lần ở bệnh nhân phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần 
có bảo tồn thần kinh mặt so với phẫu thuật cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai. Tác giả Yuan cũng ghi nhận bệnh nhân có đái tháo 
21 
đường nguy cơ gây liệt mặt cao hơn, do tế bào Schwann, sợi myelin của 
thần kinh dễ bị tổn thương hơn. Trong nghiên cứu này, khi phân tích 
các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ liệt mặt sau mổ chúng tôi cũng nhận 
thấy thời gian khởi bệnh ngắn, bướu có kích thước nhỏ, bóc tách càng ít 
nhánh thần kinh ít có nguy cơ liệt thần kinh mặt tạm thời sau mổ khi 
phân tích đơn biến. Khi phân tích đa biến chúng tôi nhận thấy phẫu 
thuật bóc tách nhiều nhánh thần kinh mặt và kích thước bướu lúc phẫu 
thuật lớn là 2 yếu tố tiên lượng độc lập đối với liệt thần kinh mặt tạm 
thời sau mổ. 
4.3.4. Tái tạo khuyết hổng sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai 
Chúng tôi ghi nhận có 11 trường hợp có khuyết hổng sau phẫu 
thuật cắt một phần tuyến mang tai chiếm tỉ lệ 8,1%, bao gồm 1 trường 
hợp không có tạo hình sau phẫu thuật, 2 trường hợp tạo hình sau phẫu 
thuật bằng vạt SMAS, 2 trường hợp tạo hình sau phẫu thuật bằng vạt cơ 
ức đòn chũm và 6 trường hợp tạo hình sau phẫu thuật bằng cách kết hợp 
vạt cơ ức đòn chũm và vạt SMAS. 
Cắt một phần thùy nông tuyến mang tai bằng phối hợp vạt cơ ức 
đòn chũm và vạt SMAS chiếm tỉ lệ 83,3%. Trong nghiên cứu này, có 4 
trường hợp không tạo hình sau phẫu thuật và có 6 trường hợp tạo hình 
bằng vạt SMAS, 10 trường hợp tạo hình bằng vạt cơ ức đòn chũm. 
Trong 4 trường hợp không tạo hình có 1 trường hợp có khuyết hổng sau 
tái tạo chiếm tỉ lệ 25%. Trong 10 trường hợp tạo hình bằng vạt cơ ức 
đòn chủm có 2 trường hợp có khuyết hổng sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ 
20%. Trong 6 trường hợp có tạo hình bằng vạt SMAS có 2 trường hợp 
có khuyết hổng sau tạo hình chiếm tỉ lệ 33,3%. Phần lớn các trường hợp 
đều được tạo hình bằng cách phối hợp vạt cơ ức đòn chũm và vạt 
SMAS, chúng tôi ghi nhận 115 trường hợp có tạo hình và sau thời gian 
theo dõi có 6 trường hợp có khuyết hổng chiếm tỉ lệ 5,2%. Như vậy so 
22 
sánh giữa các phương pháp tạo hình, chúng tôi nhận thấy việc phối hợp 
vạt cơ ức đòn chũm và vạt SMAS có vẻ lý tưởng hơn. Tỉ lệ khuyết hổng 
sau tạo hình chiếm tỉ lệ thấp. Nghiên cứu Bianchi phân tích hiệu quả 
của việc đường căng da mặt, vạt cơ ức đòn chũm và hệ thống cân nông 
vùng cổ trong việc cải thiện thẩm mỹ trên bệnh nhân cắt một phần 
tuyến mang tai. Từ 1/1996-1/2007, 172 bệnh nhân được cắt một phần 
tuyến mang tai được chia làm 4 nhóm: Nhóm 1: cắt một phần tuyến 
mang tai với đường rạch Blair biến đổi mà không có tạo hình. Nhóm 2: 
cắt một phần tuyến mang tai với đường căng da mặt mà không tạo hình. 
Nhóm 3: cắt một phần tuyến mang tai với đường căng da mặt có tạo 
hình bằng cơ ức đòn chũm. Nhóm 4: cắt một phần tuyến mang tai với 
đường căng da mặt, tạo hình bằng hệ thống cân cổ nông. Bệnh nhân 
được theo dõi ít nhất 18 tháng để đánh giá chức năng và thẩm mỹ. Tác 
giả nhận thấy sử dụng đường căng da mặt đơn độc có cải thiện thẩm mỹ 
cao có ý nghĩa. Khi sử dụng đường căng da mặt kèm tạo hình bằng vạt 
cơ ức đòn chũm hoặc hệ thống cân cơ nông vùng cổ cải thiện kết quả 
thẩm mỹ hơn nữa. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa vạt 
cơ ức đòn chũm và hệ thống cân nông vùng cổ. 
4.3.5. Hội chứng Frey sau phẫu thuật cắt tuyến mang tai 
Phần lớn hội chứng Frey xuất hiện sau phẫu thuật cắt tuyến mang 
tai toàn phần bảo tồn thần kinh mặt. Độ rộng của phẫu thuật càng lớn 
thì tần suất hội chứng Frey càng cao. Tần suất hội chứng Frey cao khi 
bệnh nhân có phẫu thuật cắt tuyến mang tai toàn phần bảo tồn thần kinh 
mặt, kế đến cắt thùy nông tuyến mang tai. Cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai có tần suất hội chứng Frey thấp nhất. Trong nghiên cứu 
này, ở thời điểm theo dõi bệnh nhân sau phẫu thuật 6 tháng, chúng tôi 
không ghi nhận bất cứ bệnh nhân nào có hội chứng Frey. Sau thời gian 
theo dõi 24 tháng sau phẫu thuật, 6 trường hợp có hội chứng Frey được 
23 
chẩn đoán bằng test Minor, chiếm tỉ lệ 4,4%. Tạo hình khuyết hổng 
bằng vạt cơ ức đòn chũm có tỉ lệ bị hội chứng Frey cao hơn so với tạo 
hình bằng vạt kết hợp cơ ức đòn chũm và vạt SMAS (10% so với 
4,3%). Tần suất hội chứng Frey trong nghiên cứu này dường như thấp 
hơn các nghiên cứu khác, có thể do tất cả bệnh nhân của chúng tôi được 
cắt một phần thùy nông tuyến mang tai. Mặc khác, phần lớn các trường 
hợp đều được tạo hình sau phẫu thuật đã góp phần làm đáng kể tần suất 
của hội chứng Frey. Như vậy, phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến 
mang tai đã làm hạn chế sự xuất hiện hội chứng Frey. 
4.3.6. Tụ dịch tuyến nƣớc bọt 
Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận có 10 trường hợp tụ 
dịch sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ 7,4%. Các trường hợp này được xử trí 
bằng chọc hút dịch và băng ép và đều tự khỏi sau 4-6 tuần. 
Tần suất tụ dịch tuyến nước bọt sau cắt tuyến mang tai thay đổi 
từ 5-39%, do ảnh hưởng từ nhiều loại phẫu thuật tuyến mang tai, từ cắt 
bướu ngoải vỏ bao đến cắt một phần thùy nông tuyến mang tai hay cắt 
thùy nông tuyến mang tai hay cắt tuyến mang tai toàn phần bảo tồn thần 
kinh mặt. Điều trị tụ dịch tuyến nước bọt chủ yếu là dẫn lưu dịch. 
KẾT LUẬN 
Trong thời gian từ tháng 3/2010 đến thang 12/2013 chúng tôi 
thực hiện 135 trường hợp cắt một phần thùy nông tuyến mang tai tại 
Khoa ngoại 3 Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM với đặc điểm nhóm 
nghiên cứu: tuổi thường gặp từ 40-60 tuổi. Nữ thường gặp hơn nam với 
thời gian khởi bệnh trung bình là 32 tháng, kích thước bướu trung bình 
là 23mm, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 
1. Với trung vị thời gian theo dõi là 39 tháng, chúng tôi chưa 
ghi nhận được trường hợp nào tái phát sau phẫu thuật cắt một 
phần thùy nông tuyến mang tai. 
24 
2. Tỉ lệ liệt thần kinh mặt tạm thời sau phẫu thuật cắt một phần 
thùy nông tuyến mang tai chiếm 37%. Số nhánh thần kinh 
mặt bóc tách trong lúc phẫu thuật, kích thước bướu có yếu tố 
quyết định liên quan đến tình trạng liệt thần kinh mặt tạm 
thời sau mổ. Tần suất hội chứng Frey sau phẫu thuật chiếm tỉ 
lệ thấp 4,4%. Tạo hình khuyết hổng bằng vạt cơ ức đòn chũm 
có tỉ lệ bị hội chứng Frey cao hơn so với tạo hình bằng vạt 
kết hợp cơ ức đòn chũm và vạt SMAS (10% so với 4,3%). 
3. Tạo hình khuyết hổng phối hợp vạt cơ ức đòn chũm và vạt hệ 
thống cân nông vùng cổ sau phẫu thuật cắt một phần thùy 
nông tuyến mang tai mang lại kết quả thẩm mỹ cao 94,8%. 
Phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai đã mang lại 
kết quả tốt cho nhóm bệnh nhân có bướu hỗn hợp ở thùy nông có kích 
thước nhỏ hơn 4cm với tỉ lệ kiểm soát bướu tại chỗ và kết quả thẩm mỹ 
cao. 
KIẾN NGHỊ 
Nên thực hiện phẫu thuật cắt một phần thùy nông tuyến mang tai 
cho các trường hợp sau: 
- Bướu tuyến mang tai ở thùy nông 
- Kích thước bướu nhỏ hơn 4cm 
- FNA trước mổ là bướu hỗn hợp lành 
- Phải bóc tách các nhánh thần kinh có liên quan đến bướu trong 
lúc phẫu thuật 
- Phải có cắt lạnh diện cắt trong lúc phẫu thuật 
Nên thực hiện tạo hình sau phẫu thuật cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai. 
 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 
1. Nguyễn Hữu Phúc và cộng sự (2012), “Cắt một phần thùy nông 
tuyến mang tai trong điều trị bướu hỗn hợp lành”, Tạp chí Ung thư 
học Việt Nam, số 4, tr. 66-71. 
2. Nguyễn Hữu Phúc (2015), “Liệt mặt sau phẫu thuật cắt một phần 
thùy nông tuyến mang tai”, Y học TPHCM, tập 13, Phụ bản số 6, tr. 
143-147. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_ket_qua_cat_mot_phan_thuy_nong_tuyen_mang_ta.pdf