Tóm tắt Luận án Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội

Nghe kém là hiện tượng giảm một phần hay toàn bộ

khả năng cảm nhận về âm thanh. Nghe kém có thể gặp ở

mọi lứa tuổi và có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Theo

ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), có khoảng

5% dân số, tương đương với 360 triệu người trên toàn thế

giới bị nghe kém, trong đó có 32 triệu trẻ em bị vấn đề

này.

Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, toàn thành phố

có 840 trường mầm non, trong đó 85,0% là công lập

chiếm hơn 90,0% tổng số học sinh mầm non. Cũng như

các địa phương khác, đến nay Hà Nội vẫn chưa có nghiên

cứu nào nghiên cứu đặc điểmvà các yếu tố nguy cơ của

nghe kém ở trẻ em độ tuổi từ 2 tuổi đến 5 tuổi. Vì vậy,

việc nghiên cứu các đặc điểm và các yếu tố nguy cơ của

nghe kém ở trẻ trong độ tuổi nói trên là hết sức cần thiết

nhằm cung cấp những số liệu khoa học về các vấn đề nêu

trên.

Từ những lý do trên, đề tài nghiên cứu “Một số đặc

điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5

tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội” được

thực hiện với hai mục tiêu sau:

1. Mô tả một số đặc điểm của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi

đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội,

2011 - 2012.

2. Xác định một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em

từ 2 đến 5 tuổi khu vực nội thành Hà Nội.

pdf 30 trang dienloan 7500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội

Tóm tắt Luận án Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội
NGUYỄN TUYẾT XƯƠNG 
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ YẾU TỐ NGUY 
CƠ CỦA NGHE KÉM Ở TRẺ EM TỪ 2 ĐẾN 
5 TUỔI TẠI CÁC TRƯỜNG MẪU GIÁO 
NỘI THÀNH HÀ NỘI 
Chuyên ngành: Dịch tễ học 
Mã số: 62.72.01.17 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ DỊCH TỄ HỌC 
HÀ NỘI – 2014 
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG 
-----------------*------------------- 
Công trình được hoàn thành tại Viện Vệ sinh Dịch tễ 
Trung ương 
Người hướng dẫn khoa học: 
1. PGS. Ts. Nguyễn Anh Dũng 
2. PGS.Ts. Khu Thị Khánh Dung 
Phản biện 1: .... 
Phản biện 2: ............... 
Phản biện 3: . 
Luận án sẽ (hoặc đã) được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận 
án nhà nước họp tại 
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, vào hồi ... giờ ... , ngày 
... tháng ... năm 20.... 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
1. Thư viện Quốc gia 
2. Thư viện Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương 
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nghe kém là hiện tượng giảm một phần hay toàn bộ 
khả năng cảm nhận về âm thanh. Nghe kém có thể gặp ở 
mọi lứa tuổi và có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Theo 
ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), có khoảng 
5% dân số, tương đương với 360 triệu người trên toàn thế 
giới bị nghe kém, trong đó có 32 triệu trẻ em bị vấn đề 
này. 
Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, toàn thành phố 
có 840 trường mầm non, trong đó 85,0% là công lập 
chiếm hơn 90,0% tổng số học sinh mầm non. Cũng như 
các địa phương khác, đến nay Hà Nội vẫn chưa có nghiên 
cứu nào nghiên cứu đặc điểmvà các yếu tố nguy cơ của 
nghe kém ở trẻ em độ tuổi từ 2 tuổi đến 5 tuổi. Vì vậy, 
việc nghiên cứu các đặc điểm và các yếu tố nguy cơ của 
nghe kém ở trẻ trong độ tuổi nói trên là hết sức cần thiết 
nhằm cung cấp những số liệu khoa học về các vấn đề nêu 
trên. 
Từ những lý do trên, đề tài nghiên cứu “Một số đặc 
điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 
tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội” được 
thực hiện với hai mục tiêu sau: 
1. Mô tả một số đặc điểm của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi 
đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội, 
2011 - 2012. 
2. Xác định một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em 
từ 2 đến 5 tuổi khu vực nội thành Hà Nội. 
2 
Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ CÁC ĐÓNG GÓP MỚI 
CỦA LUẬN ÁN 
- Tính mới: Đây là nghiên cứu đầu tiên sử dụng máy đo 
OAE sàng lọc nghe kém ở lứa tuổi từ 2-5 tuổi tại các 
trường mẫu giáo tại Hà Nội. 
- Tính ứng dụng: Thông tin về tình hình dịch tễ học 
nghe kém ở trẻ từ 2-5 tuổi ở nội thành Hà Nội là bằng 
chứng, cơ sở khoa học nhằm xây dựng các chương trình 
sàng lọc, dự phòng nghe kém cho trẻ tại cộng đồng. 
Những kết quả nghiên cứu luận án là cơ sở cho các 
nghành có liên quan hoạch định chiến lược can thiệp nghe 
kém phù hợp và có hiệu quả. 
CẤU TRÚC LUẬN ÁN 
Luận án gồm 93 trang, 4 chương: Đặt vấn đề: 2 trang, 
Chương 1 - Tổng quan: 30 trang, Chương 2 - Đối tượng và 
phương pháp nghiên cứu: 14 trang, Chương 3 - Kết quả: 
23 trang, Chương 4 - Bàn luận: 21 trang, Kết luận: 1 trang, 
Khuyến nghị: 1 trang, Những đóng góp của luận án: 1 
trang. Luận án có 30 bảng, 4 biểu đồ, 8 hình, 1 sơ đồ, 134 
tài liệu tham khảo trong và ngoài nước. 
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 
1.4 Tình hình nghe kém 
1.4.1.3 Tình hình nghe kém ở trẻ dưới 6 tuổi 
Một nghiên cứu thuần tập ở Atlanta, Mỹ ở trẻ từ 3-10 
tuổi cho thấy tỷ lệ trẻ bị nghe kém nặng tăng dần theo độ 
tuổi, từ 0,67/1000 trẻ 3 tuổi đến 1,38/1000 ở trẻ 10 tuổi. 
Nghiên cứu cũng cho thấy nghe kém mức độ vừa là mức 
độ chủ yếu trong các mức độ nghe kém (46%). Các nước 
3 
có thu nhập thấp có tỷ lệ nghe kém ở trẻ em cao hơn ở các 
nước phát triển. 
1.4.2 Tình hình nghe kém ở Việt Nam 
Ở Việt Nam còn ít các nghiên cứu về giảm thính lực ở 
trẻ em. Năm 2001, tác giả Lê Thị Lan và cộng sự đã tiến 
hành nghiên cứu phản ứng thính giác trên 900 trẻ sơ sinh có 
nguy cơ cao tại bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em bằng 
chuông tự tạo. Kết quả cho thấy tỷ lệ không đáp ứng với âm 
thanh ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao là 4,4%. 
Phạm Thị Cơi và cộng sự đã xác định vai trò của âm 
phát ốc tai kích thích trong đánh giá thính giác ở 823 trẻ 
dưới 5 tuổi được chọn ngẫu nhiên tại Bắc Ninh, Thái 
Nguyên và Phú Thọ, kết quả cho thấy 4,87% cho kết quả 
nghi ngờ giảm thính lực cần phải kiểm tra lại. Gần đây, 
một nghiên cứu sàng lọc nghe kém ở trẻ sơ sinh đã được 
tiến hành với 12.202 trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà 
Nội bằng phương pháp đo âm ốc tai cho thấy, có tới 3,4% 
trẻ sơ sinh có nghi ngờ bị giảm thính lực. 
1.5. Các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ 
1.5.1 Các yếu tố bẩm sinh 
1.5.1.1 Yếu tố liên quan đến di truyền 
Khoảng 50% tất cả các trường hợp nghe kém bẩm sinh 
là do di truyền. Trong số đó, khoảng 70% nhiếm sắc thể 
(NST) thường dạng trội và 1 - 2% di truyền qua NST giới 
tính X. Nghe kém nằm trong hội chứng chiếm 30% tổng 
số điếc di truyền. 
1.5.1.2 Yếu tố nguy cơ trong quá trình mang thai 
1.5.1.2.1 Nhiễm khuẩn trong quá trình mang thai 
4 
Bà mẹ bị một số bệnh nhiễm trùng như Rubella, giang 
mai trong quá trình mang thai có thể là nguyên nhân gây 
nghe kém hoặc điếc ở những đứa trẻ do họ sinh ra. 
1.5.1.2.2 Dùng thuốc trong quá trình mang thai 
Sử dụng một số loại thuốc gây ngộ độc như nhóm 
aminoglycosides, cytotoxic, thuốc điều trị sốt rét và thuốc 
lợi tiểu trong quá trình mang thai có nguy cơ gây nghe 
kém bẩm sinh. 
1.5.1.3 Yếu tố nguy cơ trong khi sinh 
1.5.1.3.1 Đẻ non, cân nặng sơ sinh thấp 
Mối liên quan giữa trẻ sơ sinh đẻ non, cân nặng thấp 
lúc sinh (<1500g) và giảm thính lực đã được nêu ra trong 
nhiều nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên cơ chế thực chất 
của mối liên quan này vẫn còn chưa được hiểu rõ. 
1.5.1.3.2 Thiếu Oxy 
Những trẻ sơ sinh bị thiếu oxy hay ngạt các tế bào hạch 
ốc tai sẽ bị ảnh hưởng trước tiên. Thiếu oxy nặng hơn sẽ 
gây phá hủy ốc tai, đặc biệt là các tế bào lông ngoài và lớp 
vân mạch máu. Tuy nhiên cũng không có ngưỡng xác định 
về mức độ thiếu oxy gây ảnh hưởng đến thính lực. 
1.5.1.3.3 Vàng da sau sinh 
Tăng Bilirubin tự do có thể gây tổn thương chọn lọc 
nhân thần kinh thính giác thân não và cũng có thể phá hủy 
dây thần kinh thính giác và tế bào hạch ốc tai do tác động 
làm ứ trệ canxi nội bào noron thần kinh. Cơ quan Corti và 
đường dẫn truyền thần kinh thính giác qua đồi thị -vỏ não 
thường không bị ảnh hưởng. Vàng da nặng trong giai đoạn 
5 
trẻ sơ sinh có thể gây tổn thương thần kinh nghe, qua đó 
gây nghe kém ở trẻ. 
1.5.2. Các nguyên nhân mắc phải 
1.5.2.1 Trẻ bị nhiễm khuẩn 
1.5.2.1.1 Viêm màng não 
Viêm màng não (VMN) là một yếu tố quan trọng gây 
nghe kém ở trẻ em. Nó cũng là nguyên nhân thường gặp 
nhất gây nghe kém tiếp nhận mắc phải. Có khoảng 10% 
trẻ em bị nghe kém ở các mức độ khác nhau sau khi bị 
VMN. Trẻ em bị VMNM có nguy cơ bị điếc cao nhất. 
1.5.2.1.2 Viêm tai mạn tính 
TCYTTG chỉ ra rằng, khoảng 90% ca mắc viêm tai tập 
trung ở các nước trong khu vực Đông Nam Á, Tây Thái 
Bình Dương và khu vực Châu Phi. 
1.5.2.2 Tiền sử sử dụng thuốc ở trẻ em 
1.5.2.2.1 Thuốc kháng sinh 
Các loại thuốc kháng sinh là lựa chọn tốt trong các điều 
trị nhiễm khuẩn, tuy nhiên chúng có thể gây ảnh hưởng 
đến bộ phận ốc tai và tiền đình. 
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1 Đối tượng nghiên cứu 
- Trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi 
- Các bà mẹ của trẻ đang học ở các trường mẫu giáo 
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn 
Trẻ có trong danh sách quản lý tại các trường mẫu giáo và 
các bà mẹ của trẻ đồng ý cho con tham gia vào nghiên cứu 
và trả lời phỏng vấn 
6 
2.2 Địa điểm nghiên cứu 
Các trường mẫu giáo tại các quận nội thành Hà Nội. 
2.3 Thời gian nghiên cứu 
Từ tháng 6/2011 đến tháng 02/2012 
2.4 Thiết kế nghiên cứu 
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang (phục vụ cho mục tiêu 1) 
- Nghiên cứu bệnh chứng (phục vụ cho mục tiêu 2) 
2.5 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 
2.5.1 Cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả cắt ngang: 
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu xác định tỷ lệ như sau: 
Trong đó: 
n: là cỡ mẫu tối thiểu 
: Độ tin cậy ở ngưỡng 95%, với α = 0,05, 
thì = 1,96 
p: tỷ lệ nghe kém ước tính ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu 
giáo, ước tính p = 0,015 
d: độ sai lệnh ước tính, d = 0,003 
Thay số vào ta có: 
Sau khi tính, làm tròn số, cộng thêm 10% số học sinh dự 
tính có thể bỏ cuộc thì số trẻ cần có cần cho nghiên cứu là 
7000 trẻ (thực tế nghiên cứu đã tiến hành trên 7.191 trẻ) 
7 
2.5.2 Cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh chứng 
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh – 
chứng như sau: 
Trong đó: 
n: Cỡ mẫu tối thiểu 
r: Tỷ số cỡ mẫu giữa 2 nhóm, trong nghiên cứu này thiết 
kế nghiên cứu bệnh:chứng theo tỷ lệ 1:2, do đó r=2 
β: Lực mẫu, lấy 80,0%, do đó Z=0,84 
α = 0,05, do đó Zα/2 = 1,96 
OR: Tỷ suất chênh mong muốn, lấy OR = 3 
p: Tỷ lệ mắc viêm tai giữa mạn ở trẻ em, ước tính p = 
4,0% 
Thay số vào ta có 
Như vậy cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu này là 762 trẻ, 
trong đó nhóm bệnh cần ít nhất 254 trẻ nghe kém, nhóm 
chứng cần ít nhất 508 trẻ không nghe kém. 
Định nghĩa ca bệnh: 
- Là những trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi có kết quả đo OAE lần 
1 âm tính trong sàng lọc nghe kém ở cộng đồng (mô tả ở 
mục tiêu 1), và có kết quả OAE lần 2 âm tính và được xác 
định nghe kém qua đo ABR hoặc đơn âm tại phòng cách 
8 
âm chuẩn tại Trung tâm thính học của Bệnh viện Nhi 
Trung ương 
- Có mẹ đẻ của trẻ trả lời phỏng vấn. 
Định nghĩa ca chứng: 
- Là những trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi tại các trường mẫu 
giáo công lập nội thành Hà Nội 
- Học cùng lớp với trẻ bị nghe kém 
- Được xác định không bị nghe kém trong đo âm ốc tai 
sàng lọc (OAE (+)) tại cộng đồng (mô tả ở mục tiêu 1) 
- Có mẹ đẻ của trẻ trả lời phỏng vấn 
Thực tế trong nghiên cứu này, tất cả 314 trẻ được khẳng 
định nghe kém qua đo ABR, hoặc đo đơn âm (nhóm bệnh) 
và 628 trẻ không nghe kém (nhóm chứng) đã được mời 
tham gia nghiên cứu 
2.6 Phương pháp thu thập số liệu 
Đo âm ốc tai của trẻ sử dụng máy đo OAE 
Điều tra viên sẽ mang máy đo OAE đến các trường mẫu 
giáo đã được chọn và tiến hành đo âm ốc tai trẻ theo quy 
trình chuẩn. 
Khám và đo thính lực 
Những trẻ có kết quả đo âm ốc tai OAE âm tính lần 1 
(lần đo tại các trường) sẽ được mời về Bệnh viện Nhi 
Trung ương để đo âm ốc tai kích thích lần 2 (OAE lần 2) 
và tiến hành khám thính lực. 
Phỏng vấn 
Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ của trẻ trong đối tượng 
nghiên cứu, sử dụng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn nhằm 
9 
thu thập thông tin về tuổi, giới, trường học của trẻở tất cả 
các trẻ. 
2.7 Công cụ thu thập số liệu 
- Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn 
- Máy đo OAE loại GSI, Audx của Mỹ 
- Máy đo ABR, đơn âm loại GSI của Mỹ 
- Bệnh án mẫu nghiên cứu được thiết kế sẵn 
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi 
3.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu 
Tổng số có 7191 trẻ em ở 5 quận tham gia vào nghiên cứu 
đáp ứng cỡ mẫu theo yêu cầu, số trẻ phân bố được chọn 
vào nghiên cứu của các quận không có sự khác biệt. 
3.1.2 Kết quả khám sàng lọc tại cộng đồng (đo âm Ốc 
tai lần 1) 
Sàng lọc được 337 trẻ có kết quả OAE (-) chiếm tỷ lệ 
4,7%. Trẻ 2 tuổi chiếm tỷ lệ 8,1%. Không có sự khác biệt 
giữa nam và nữ. 
3.1.2.4 Kết quả khám tại Bệnh viện Nhi (đo âm Ốc tai 
lần 2) 
Trong tổng số 337 trẻ có kết quả đo âm Ốc tai âm tính lần 
1, sau khi được khám tai và được đo OAE lần 2 tại phòng 
cách âm chuẩn của Trung tâm thính học có 314 trẻ có kết 
quả OAE (-), chiếm 93,2%. Tỷ lệ trẻ có kết quả OAE (+) 
lần 2 là 6,8%. 
3.1.3 Đặc điểm nghe kém của trẻ mẫu giáo nội thành Hà 
Nội qua đo ABR hoặc đơn âm 
3.1.3.1 Tỷ lệ nghe kém theo quận 
10 
Bảng 3.1: Tỷ lệ nghe kém theo quận (n=7191) 
Quận Không nghe kém Nghe kém 
Số trẻ % Số trẻ % 
Ba Đình 1.454 95,4 70 4,6 
Tây Hồ 1.480 96,0 62 4,0 
Đống Đa 1.118 95,5 53 4,5 
Thanh Xuân 1.388 95,6 64 4,4 
Hoàng Mai 1.437 95,7 65 4,3 
Tổng 6.877 95,6 314 4,4 
Toàn bộ 314 trẻ có kết quả OAE (-) lần 2 được đo và 
khám thính lực tại phòng cách âm tuyệt đối của bệnh viện 
Nhi Trung ương nhằm xác định tỷ lệ nghe kém và đặc 
điểm nghe kém của nhóm đối tượng này. Kết quả cho thấy 
toàn bộ 314 trẻ có kết quả OAE lần 2 âm tính đều được 
xác định là trẻ nghe kém sử dụng phương pháp đo ABR 
hoặc đơn âm. 
3.1.3.2 Tỷ lệ nghe kém theo lứa tuổi 
11 
7,9
5,4
3,1
2
4
6
8
10
Tỷ lệ %
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ nghe kém theo lứa tuổi (n=7.191) 
Trẻ 2 tuổi có tỷ lệ nghe kém cao nhất (7,9%), tiếp đó là trẻ 
3 tuổi (5,4%), trẻ 4 và 5 tuổi có tỷ lệ nghe kém thấp hơn, 
3,1% và 3,9%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với 
p<0,05. 
3.1.3.5 Đặc điểm nghe kém theo vị trí tai và giới 
Bảng 3.7: Đặc điểm trẻ nghe kém theo vị trí tai và giới 
Đặc điểm 
Nam (176) Nữ (138) Chung (314) 
Số 
trẻ 
% Số 
trẻ 
% Số 
trẻ 
% 
Chỉ nghe 
kém tai phải 
22 12,5 19 13,
8 
41 13,0 
Chỉ nghe 
kém tai trái 
32 18,2 21 15,
2 
53 16,9 
Nghe kém 
cả 2 tai 
122 69,3 98 71,
0 
220 70,1 
12 
Tổng 176 56,1 138 43, 314 100 
Kết quả nghe kém theo vị trí tai cho thấy nghe kém cả hai 
tai là nghe kém phổ biến nhất ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà 
Nội, chiếm 70,1%, tiếp đến là nghe kém tai trái (16,9%). 
Chỉ nghe kém tai phải là nghe kém thấp nhất, chỉ 13,0%. 
Tỷ lệ nghe kém theo vị trí tai ở nam và nữ là gần như nhau 
và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
3.1.3.8 Mức độ nghe kém của trẻ 
Bảng 3.10: Mức độ nghe kém của trẻ theo giới (n=314) 
Mức độ 
nghe kém 
Nam Nữ Chung 
Số 
trẻ 
(%) Số 
trẻ 
(%) Số 
trẻ 
(%) 
Nghe kém 
nhẹ (từ 21 - 
≤40 dB) 
80 45,5 64 46,4 144 45,9 
Nghe kém 
vừa (từ 41- 
70 dB) 
72 40,9 59 42,8 131 41,7 
Nghe kém 
nặng đến sâu 
(≥70dB) 
24 13,6 15 10,9 39 12,4 
Nghe kém mức độ nhẹ là mức độ nghe kém phổ biến nhất, 
chiếm 45,9% trong tổng số nghe kém, tiếp đó là nghe kém 
mức độ vừa, chiếm 41,7%, nghe kém nặng đến sâu có tỷ lệ 
13 
thấp nhất, chỉ 12,4%. Trẻ em nam có tỷ lệ nghe kém mức 
độ nhẹ và vừa thấp hơn trẻ em nữ, 45,5% so với 46,4% 
nghe kém mức độ nhẹ và 40,9% so với 42,8% nghe kém 
mức độ vừa. Tuy nhiên trẻ em nam có mức độ nghe kém 
nặng và sâu cao hơn trẻ em nữ, lần lượt là 13,6% và 
10,9%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
3.1.3.9. Hình thức nghe kém 
Bảng 3.12: Hình thức nghe kém theo giới (n = 314) 
Hình thức 
nghe kém 
Nam Nữ Chung 
Số 
lượng 
(%) Số 
lượng 
(%) Số 
lượng 
(%) 
Nghe kém 
dẫn truyền 
124 70,5 97 70,3 221 70,4 
Nghe kém 
tiếp nhận 
24 13,6 16 11,6 40 12,7 
Nghe kém 
hỗn hợp 
28 15,9 25 18,1 53 16,9 
Tổng 176 100 138 100 314 100 
Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém phổ biến nhất 
(70,4%), tiếp đến là nghe kém hỗn hợp (16,9%). Nghe 
kém tiếp nhận là hình thức nghe kém ít gặp nhất, chiếm 
12,7%. Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém phổ 
biến nhất ở trẻ em nam và trẻ em nữ. Trẻ em nam bị nghe 
14 
kém tiếp nhận cũng cao hơn trẻ em nữ. Tuy nhiên tỷ lệ trẻ 
em nữ nghe kém hỗn hợp là 18,1%, cao hơn trẻ em nam là 
15,9%. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống 
kê (p<0,05). 
3.2 Phân tích các yếu tố nguy cơ tới tình trạng nghe 
kém ở trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi 
3.2.2 Xác định các yếu tố nguy cơ của nghe kém 
15 
3.2.2.1Các yếu tố trước sinh 
Bảng 3.19: Mối liên quan giữa tiền sử mẹ bị bệnh khi mang thai và nguy cơ nghe kém ở trẻ 
Yếu tố nguy cơ 
Nghe kém Không nghe kém OR 
(95% CI) Số lượng (%) Số lượng (%) 
Tiền sử mẹ bị 
cúm 
Có 6 1,9 4 0,6 3,03 
(0,85-10,84) Không 308 98,2 624 99,4 
Tiền sử mẹ bị 
Rubella 
Có 7 2,2 3 0,5 4,75 
(1,22–18,49) Không 307 97,8 623 99,5 
Tiền sử mẹ bị sốt Có 2 0,6 1 0,2 4,02 
(0,36–44,49) Không 312 99,4 627 99,8 
Tiền sử gia đình 
có người nghe 
kém, điếc 
Có 0 0 0 0 
-- 
Không 314 100 628 100 
16 
Tiền sử mẹ bị Rubella trong quá trình mang thai là yếu tố nguy cơ của nghe kém. Những trẻ có mẹ có 
bị Rubella trong quá trình mang thai có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 4,75 lần trẻ không có mẹ bị 
Rubella (OR=4,75 [1,22–18,49]). 
3.2.2.2 Các yếu tố khi sinh 
Bảng 3.20: Mối liên quan giữa tiền sử khi sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ 
Yếu tố 
Nghe kém Không nghe kém OR 
(95% CI) Số lượng (%) Số lượng (%) 
Tuổi thai Thiếu tháng(<37 tuần) 7 2,2 3 0,5 4,75 
Đủ tháng (≥37 tuần) 307 97,8 625 99,5 1 
Cân nặng 
khi sinh 
< 2500 gam 10 3,2 6 1,0 3,41 
≥ 2500 gam 304 96,8 624 99,4 1 
Cách thức 
sinh 
Sinh thường 117 37,3 260 41,4 0,84 
Can thiệp 197 62,7 368 58,6 1 
17 
Thở O2 
sau sinh 
Có 14 4,5 2 0,3 14,70 
(3,32-65,11) Không 300 95,5 626 99,7 
Vàng da 
sau sinh 
Có 25 8,0 6 1,0 8,96 
(3,63-22,09) Không 279 92,0 622 99,0 
So với những trẻ sinh đủ tháng (≥37 tuần tuổi), những trẻ sinh thiếu tháng (<37 tuần tuổi) có nguy cơ 
bị nghe kém cao hơn 4,75 lần (OR=4,75 [1,22–18,49]). Trẻ khi sinh có cân nặng <2500g có nguy cơ bị 
mắc bệnh cao gấp hơn 3 lần so với những trẻ khi sinh có cân nặng ≥ 2500g (OR=3,41 [1,22 – 9,47]). 
Những trẻ phải can thiệp thở O2, bị ngạt sau khi sinh là yếu tố nguy cơ quan trọng của tình trạng nghe 
kém (OR=14,70 [3,32-65,11]. Những trẻ bị vàng da sau khi sinh phải điều trị có nguy cơ bị nghe kém 
cao hơn 8,96 lần so với những trẻ không bị. 
18 
3.2.2.3 Các yếu tố sau sinh 
Bảng 3.21: Mối liên quan giữa các yếu tố sau sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ 
Bệnh ở trẻ em 
Nghe kém Không nghe kém OR 
(95% CI) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) 
Sởi 
Có 1 0,2 0 0 
-- 
Không 313 99,8 628 100 
Sốt phát ban 
Có 6 1,9 4 0,6 3,03 
(0,85-10,84) Không 308 98,1 624 99,4 
Ho gà 
Có 0 0 0 0 
-- 
Không 314 100 628 100 
Bạch hầu 
Có 0 0 0 0 
-- 
Không 314 100 628 100 
19 
Quai bị 
Có 0 0 0 0 
-- 
Không 314 100 628 100 
Viêm não 
Có 3 1,0 1 0,2 6,04 
(0,62-58,38) Không 311 99,0 627 99,8 
Viêm màng 
não 
Có 12 3,8 2 0,3 12,43 
(2,76-55,92) Không 302 96,2 626 99,7 
Trẻ bị bệnh 
tai 
Có 177 56,4 70 11,1 10,29 
 (7,37-14,38) Không 137 43,6 558 88,9 
Kết quả phân tích không xác định được các yếu tố liên quan tới tình trạng nghe kém ở những trẻ bị 
mắc bệnh sởi, sốt phát ban, ho gà, bạch hầu, quai bị và viêm não. Các yếu tố trẻ bị vàng da sau sinh 
phải điều trị, trẻ bị VMN và trẻ bị bệnh ở tai là các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em. 
20 
3.2.2.4 Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong 
sinh và sau sinh tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích 
hồi quy đa biến 
Bảng 3.23: Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, 
trong sinh và sau sinh tới nghe kém ở trẻ - mô hình 
phân tích hồi quy đa biến, Mô hình 2 
Yếu tố OR hiệu 
chỉnh 
95%CI 
Mẹ bị Rubella khi mang 
thai 
11,73 2,90 – 47,33 
Trẻ phải thở Oxy sau 
sinh 
13,89 2,72 – 70,82 
Trẻ bị vàng da sau sinh 
phải điều trị 
13,47 5,09 – 35,59 
Trẻ bị viêm màng não 26,44 5,65 – 123,59 
Trẻ bị bệnh tai 14,03 9,85 – 19,97 
Các yếu tố có ý nghĩa thống kê trong mô hình đơn biến 
được đưa vào mô hình phân tích hồi quy đa biến. Kết quả 
cho thấy 5 yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em bao 
gồm: trẻ có mẹ bị Rubella khi mang thai (OR= 11,73, 
95%CI: 2,90 – 47,33), trẻ phải thở Oxy sau sinh hoặc bị 
vàng da sau sinh phải điều trị đều có nguy cơ bị nghe kém 
cao hơn 13 lần so với những trẻ không bị, trẻ bị VMN có 
nguy cơ nghe kém cao hơn 26,44 lần so với những trẻ 
21 
không bị (OR=26,44 [5,65 – 123,59], trẻ bị bệnh ở tai có 
nguy cơ nghe kém cao gấp hơn 14 lần trẻ không bị bệnh ở 
tai (OR=14,03 [9,85 – 19,97]. 
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN 
4.1 Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội 
4.1.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Trong nghiên cứu này 7191 trẻ từ 2 đến 5 tuổi ở các 
trường mẫu giáo thuộc 5 quận là Ba Đình, Tây Hồ, Đống 
Đa, Thanh Xuân và Hoàng Mai được sàng lọc nghe kém. 
Trong số trẻ được sàng lọc nghe kém, trẻ 2 tuổi có số 
lượng thấp nhất (9,7%) và số lượng trẻ tăng dần theo tuổi, 
cao nhất ở trẻ 5 tuổi có số lượng cao nhất (33,7%). 
4.1.2.Tỷ lệ nghe kém qua sàng lọc bằng phương pháp 
OAE 
Kết quả sàng lọc giảm thính lực bằng đo âm ốc tai kích 
thích lần 1 với 7.191 trẻ mẫu giáo cho thấy có 337 trẻ có 
kết quả âm ốc tai kích thích âm tính (OAE(-)), chiếm 
4,7%. Tuy nhiên trong lần đó OAE thứ 2 đối với tất cả 337 
trẻ này chỉ có 314 trẻ có kết quả OAE (-), chiếm 93,2% số 
trẻ OAE (-) trong lần 1. 
Kết quả của nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên 
cứu của Phạm Thị Cơi và cs năm 2001 về đánh giá vai trò 
của âm ốc tai trong thính học tại cộng đồng ở 3 tỉnh Bắc 
Ninh, Thái Nguyên và Phú Thọ trên 823 trẻ dưới 5 tuổi 
với tỷ lệ trẻ có kết quả OAE (-) là 4,87%. Nghiên cứu 
giảm thính lực ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai sàng lọc cho 
trẻ sơ sinh tại Hà Nội của Nguyễn Thu Thủy cho thấy 
trong số 11.789 trẻ sơ sinh được đo OAE sàng lọc 1 lần, 
22 
có 413 trẻ, chiếm 3,4% số trẻ sơ sinh có kết quả sàng lọc 
âm tính. 
4.1.3 Tỷ lệ nghe kém qua đo OAE theo tuổi 
Trong nghiên cứu này, trẻ 2 tuổi có kết quả OAE (-) 
cao nhất, chiếm 7,9%. Kết quả này tương tự nghiên cứu ở 
Mỹ cho thấy, trẻ 2 tuổi là tuổi có tỷ lệ OAE(-) cao nhất, 
chiếm 10,5%. Tỷ lệ OAE (-) có xu hướng giảm dần theo 
độ tuổi tăng dần. 
4.1.5 Nghe kém theo vị trí tai 
Kết quả sàng lọc nghe kém qua đo OAE cho thấy nghe 
kém cả 2 tai là hình thức nghe kém phổ biến nhất, chiếm 
70,1% tổng số nghe kém. Chỉ nghe kém tai phải hoặc tai 
trái chiếm tỷ lệ thấp 13,0% và 16,9%. Kết quả này cũng 
tương tự các kết quả nghiên cứu trước đây qua sàng lọc 
nghe kém bằng đo âm ốc tai. Nghiên cứu của Nguyễn Thu 
Thủy (2005) cho thấy nghe kém cả 2 tai chiếm 85,0%, chỉ 
nghe kém tai phải hoặc tai trái chỉ chiếm 15,0%. Tương tự 
như vậy, sàng lọc nghe kém ở trẻ sơ sinh tại Thái Bình 
cũng cho thấy trẻ có kết quả OAE âm tính ở cả 2 tai chiếm 
tỷ lệ cao nhất (51,6%). Nghiên cứu của Olusanya (2008) 
tại Nigeria cũng cho thấy nghe kém cả 2 tai chiếm đa số ở 
trẻ nhỏ bị nghe kém (83,9%). 
4.1.6 Mức độ nghe kém ở trẻ mẫu giáo 
Tất cả trẻ em được xác định có nghe kém qua đo OAE 
lần 2 tại Trung tâm thính học tiếp tục được đo bằng các 
xét nghiệm chuyên sâu hơn như ABR hoặc đơn âm nhằm 
xác định trẻ thực sự có nghe kém và mức độ nghe kém của 
trẻ. Kết quả cho thấy nghe kém mức độ nhẹ (21- ≤40 dB) 
23 
là mức độ nghe kém phổ biến nhất (45,9%) sau đó là mức 
độ nghe kém vừa (41,7%), đặc biệt trẻ có mức độ nghe 
kém nặng đến sâu (>70dB) chiếm tới 12,4%. 
4.1.7 Hình thức nghe kém ở trẻ mẫu giáo 
Tương tự nhiều nghiên cứu khác trên thế giới và tại 
Việt Nam, nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe phổ 
biến nhất so với nghe kém tiếp nhận và nghe kém hỗn hợp 
(dẫn truyền và tiếp nhận). Như trên đã đề cập, ở nước ta, 
phần lớn các nghiên cứu chỉ tiến hành sàng lọc giảm thính 
cho trẻ bằng phương pháp OAE, do đó không cho biết cụ 
thể về hình thức giảm thính ở đối tượng nghiên cứu. Chính 
vì vậy, rất ít tài liệu tham khảo được tìm thấy nhằm bàn 
luận với kết quả của nghiên cứu này. 
4.2 Các yếu tố nguy cơ nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2-
5 tuổi nội thành Hà Nội 
4.2.1 Các yếu tố trước sinh 
Trong nghiên cứu này yếu tố tiền sử mẹ bị rubella trong 
khi mang thai là yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ, 
OR=4,75 (1,22-18,49). Hơn thế nữa trong mô hình phân 
tích hồi quy logistic đa biến, sau khi kiểm soát các yếu tố 
trong quá trình sinh và sau sinh cho thấy trẻ có mẹ bị 
nhiễm rubella trong khi mang thai có khả năng bị nghe 
kém cao gấp gần 12 lần trẻ không có mẹ bị nhiễm rubella 
(OR=11,73 95%CI: 2,90-47,33). Lê Thị Thu Hà (2011) 
nghiên cứu trẻ sơ sinh có nguy cơ cao đã cho thấy trẻ có 
mẹ bị nhiễm vi rút (chủ yếu là rubella) trong thai kỳ có 
nguy cơ bị nghe kém cao gấp 7,97 lần so với những trẻ có 
mẹ không bị (OR=7,97, 95%CI: 3,69-17,2). 
24 
4.2.2 Các yếu tố trong khi sinh 
4.2.2.1 Tuổi thai và cân nặng sơ sinh 
Trong phân tích đơn biến tìm yếu tố nguy cơ của nghe 
kém ở trẻ từ 2-5 tuổi ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội cho 
thấy tuổi thai khi sinh là yếu tố nguy cơ của nghe kém, với 
những trẻ sinh đủ tháng từ 37 tuần trở lên, trẻ sinh thiếu 
tháng (<37 tuần) có khả năng bị nghe kém cao gấp gần 5 
lần (OR=4,75, 95%CI [1,22-18,49]). Kết quả trong nghiên 
cứu của chúng tôi có sự khác biệt với những nghiên cứu 
trước đây về yếu tố nguy cơ này. Kết quả nghiên cứu cắt 
ngang sàng lọc bằng OAE ở trẻ sơ sinh tại Hà Nội cũng 
cho thấy trẻ đẻ non dưới 37 tuần có kết quả OAE (-) cao 
gấp 9,01 lần trẻ đủ tháng (≥37 tuần), sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê, với p <0,05). 
Tương tự như tuổi thai, trong phân tích đơn biến ở 
nghiên cứu này cũng cho thấy trẻ có cân nặng khi sinh 
dưới 2500 gam có khả năng bị nghe kém cao gấp 3,41 lần 
so với trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2500 gam trở lên, 
(95%CI: 1,22-9,47). 
4.2.2.2 Thở Oxy sau sinh 
Trong mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ 
được can thiệp thở Oxy có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 
13,89 lần so với trẻ không có can thiệp thở oxy sau khi 
sinh (95%CI: 2,72-70,82). Tương tự, một nghiên cứu khác 
ở Hà Nội cũng cho thấy trẻ sơ sinh bị ngạt khi sinh có có 
kết quả đo OAE sàng lọc âm tính lớn gấp 7,23 lần trẻ sơ 
sinh không bị ngạt (95%CI: 2,64-18,72). Bên cạnh đó 
nghiên cứu cũng cho thấy trẻ sơ sinh phải thở máy có 
25 
nguy cơ bị nghe kém cao gấp 22,51 lần trẻ sơ sinh không 
phải thở máy (95%CI: 10,24-49,13) [37]. Nghiên cứu ở 
Mỹ cho thấy yếu tố can thiệp thở Oxy kéo dài là yếu tố 
nguy cơ quan trọng gây nghe kém ở trẻ phải điều trị tích 
cực, OR: 4,61 (95%CI: 1.98-10.71). 
4.2.2.3 Vàng da sau sinh phải điều trị 
Nghiên cứu này cho thấy vàng da sau sinh phải điều trị 
tại các cơ sở y tế là một yếu tố nguy cơ của tình trạng nghe 
kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường công lập nội thành Hà 
Nội, với nguy cơ bị nghe kém cao gấp 13,47 lần trẻ không 
bị (95%CI: 5,09-35,59). Nghiên cứu sàng lọc trẻ nghe kém 
tại Hà Nội có 100 trẻ bị vàng da sơ sinh bất thường phải 
điều trị (chiếu đèn, truyền dịch) tại khoa hồi sức sơ sinh, 
trong đó 52 trẻ có kết quả đo OAE (-). Nguy cơ trẻ có nghi 
ngờ giảm thính lực trong nghiên cứu này ở trẻ vàng da sơ 
sinh bất thường phải điều lớn gấp 35,23 lần trẻ không bị. 
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà (2011) cũng cho thấy 
vàng da tăng bilirubin tự do không phải là yếu tố nguy cơ 
của giảm thính lực. Tuy nhiên vàng da do tăng bilirubin tự 
do phải thay máu và có vàng nhân não ở trẻ có nguy cơ 
cao đều là yếu tố nguy cơ của nghe kém (OR=5,3, 95%CI: 
4,19-6,72). 
4.2.3 Các yếu tố sau sinh 
4.2.3.1 Trẻ bị viêm màng não 
Trong mô hình phân tích đơn biến và hồi quy logistic 
đa biến đều cho thấy trẻ bị VMN là một yếu tố nguy cơ 
của nghe kém. Kết quả nghiên cứu này cũng giống với y 
văn trên thế giới và tại Việt Nam. Nghiên cứu bệnh chứng 
26 
tại Mexico cho thấy nghe kém tiếp nhận là loại nghe kém 
thường gặp ở trẻ phải điều trị tại các đơn vị điều trị tích 
cực. VMN là một yếu tố nguy cơ quan trọng của những trẻ 
nghe kém này, OR= 4,368, 95% CI:1,7-10,9. 
4.2.3.2 Trẻ bị bệnh ở tai 
Tương tự các nghiên cứu trước đây về mối liên quan 
giữa các bệnh ở tai như viêm tai giữa, viêm tai thanh 
dịchvới tình trạng nghe kém, trong nghiên cứu của 
chúng tôi, mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến cho 
thấy trẻ bị các bệnh ở tai có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 
14 lần trẻ không bị bệnh ở tai (95%CI : 9,85-19,97). 
Chúng tôi nhận thấy 56,4% trẻ ở nhóm bệnh đã từng bị 
bệnh ở tai, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm chứng là 11,1%. 
Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy bệnh ở tai là bệnh 
thường gặp ở lứa tuổi trẻ em, đặc biệt là trẻ mẫu giáo. 
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài An (2003) tại một số 
phường của Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc viêm tai giữa ứ 
dịch kéo dài là 8,9%, trong đó trẻ 2 tuổi có tỷ lệ mắc cao 
nhất, chiếm 12,21%. 
KẾT LUẬN 
1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường 
mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội năm 2011 – 2012. 
1.1 Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội 
năm 2011- 2012 là 4,4%, trong đó tỷ lệ nghe kém ở trẻ em 
nam và trẻ em nữ lần lượt là 4,7% và 4,0%. 
1.2 Nghe kém cả hai tai là hình thức nghe kém phổ biến 
nhất, chiếm 70,1%. Chỉ nghe kém một tai phải hoặc tai trái 
chiếm tỷ lệ thấp, lần lượt là 13,0% và 16,9%. 
27 
1.3 Nghe kém mức độ nhẹ chiếm 41,9%, nghe kém vừa 
chiếm 41,7%. Nghe kém nặng đến sâu chiếm 12,4% trong 
tổng số trẻ nghe kém. 
1.4 Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém thường 
gặp nhất ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội bị nghe kém, 
chiếm hơn 70% tổng số nghe kém. Nghe kém tiếp nhận và 
hỗn hợp chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,7% và 16,9%. 
2. Một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 
tuổi đến 5 tuổi khu vực nội thành Hà Nội 
2.1 Mẹ bị nhiễm rubella trong khi mang thai (OR = 11,73, 
95%CI: 2,90 – 47,33). 
2.2 Trẻ phải can thiệp thở Oxy sau khi sinh (OR = 13,89 , 
95%CI: 2,72 – 70,82). 
2.3 Trẻ bị vàng da sau sinh bất thường phải điều trị (OR = 
13,47 , 95%CI: 5,09 – 35,59). 
2.4 Trẻ bị viêm màng não (OR = 26,44 , 95%CI: 5,65 – 
123,59). 
2.5 Trẻ bị bệnh ở tai (OR = 14,03 , 95%CI: 9,85 – 19,97). 
KHUYẾN NGHỊ 
1. Những trẻ có các yếu tố nguy cơ nghe kém như mẹ bị 
nhiễm rubella, thở oxy sau sinh, vàng da bất thường sau 
sinh, viêm màng não và các bệnh ở tai cần được kiểm tra 
thính lực sớm tại các Trung tâm thính học. 
2. Cần đưa các hoạt động sàng lọc trẻ nghe kém thành 
một chương trình trong những nội dung chăm sóc sức 
khỏe trẻ em của các ngành y tế, giáo dục, dân số và kế 
hoạch hóa gia đình. 
DANH MỤC CÁC SẢN PHẨM LIÊN QUAN ĐẾN 
LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 
Bài báo khoa học 
1. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị 
Khánh Dung (2014), “Tổng quan các nguyên nhân nghe 
kém ở trẻ em”, Tạp chí Y học thực hành, 1(902), tr. 19-23 
2. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị 
Khánh Dung (2014), “Tỷ lệ nghe kém và một số đặc điểm 
nghe kém ở trẻ từ 2 – 5 tuổi tại các trường mẫu giáo công 
lập nội thành Hà Nội”, Tạp chí Y học Việt Nam, 1 (414), 
tr.15-19 
3. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị 
Khánh Dung , Nguyễn Đức Trọng (2014), “Các yếu tố 
nguy cơ của nghe kém ở trẻ từ 2 đến 5 tuổi tại các trường 
mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội”, Tạp chí Y học dự 
phòng, 2 (151), tr.76-80 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_mot_so_dac_diem_va_yeu_to_nguy_co_cua_nghe_k.pdf