Tóm tắt Luận án Nghiên cứu điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ bằng phương pháp tạo hình bản sống kết hợp ghép san hô
Hẹp ống sống cổ là một bệnh lý thoái hóa cột sống thường gặp.
Bệnh thoái hóa đĩa đệm và các mặt khớp cột sống cổ thường xảy ra ở
người lớn, đặt biệt từ trên 40 tuổi. Theo Kramer Jurgen, tỷ lệ mắc bệnh
đĩa đệm cột sống cổ chiếm 36,1%, đứng thứ hai sau bệnh lý đĩa đệm cột
sống thắt lưng. Theo Kokubun (Nhật Bản), có 1,54 bệnh nhân trong
100 nghìn dân bị bệnh thoát vị đĩa đệm cổ cần can thiệp phẫu thuật. Ở
Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Ánh Hồng cho thấy hẹp ống
sống cổ do thoái hóa ngày càng thường gặp chiếm 51%. Bệnh hẹp ống
sống cổ có thể biểu hiện nhiều triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy mức
độ: từ đau cổ, đau vai hoặc đau theo rễ thần kinh cột sống cổ, có thể
biểu hiện bằng các thương tổn thần kinh như giảm cảm giác hoặc dị
cảm, yếu hoặc liệt vận động, teo cơ, rối loạn cơ vòng Nó làm giảm
một số chức năng thần kinh, từ đó làm giảm chất lượng sống. Việc điều
trị hẹp ống sống cổ nhằm phục hồi các chức năng thần kinh cho bệnh
nhân, làm giảm đau, bớt liệt, đưa bệnh nhân về cuộc sống bình thường
với chất lượng sống cao. Các phương pháp điều trị rất đa dạng từ điều
trị bảo tồn đến điều trị phẫu thuật tùy theo mức độ hẹp ống sống cổ.
Ở nước ta, trong quá trình hiện đại hóa các phương tiện chẩn đoán
đồng thời với sự nâng cao mức sống và dân trí, bệnh lý hẹp ống sống cổ
ngày càng được phát hiện nhiều hơn, đòi hỏi cần phải có các nghiên
cứu về chẩn đoán và điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ sâu hơn. Xuất
phát từ vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu điều trị
bệnh lý hẹp ống sống cổ bằng phương pháp tạo hình bản sống kết
hợp ghép san hô” với các mục tiêu như sau:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học của bệnh lý hẹp
ống sống cổ.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình bản sống cổ có ghép san
hô trong điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ qua các dữ liệu lâm sàng,
hình ảnh học, ưu điểm, nhược điểm và biến chứng của phẫu thuật.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ bằng phương pháp tạo hình bản sống kết hợp ghép san hô
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHAN QUANG SƠN NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ HẸP ỐNG SỐNG CỔ BẰNG PHƢƠNG PHÁP TẠO HÌNH BẢN SỐNG KẾT HỢP GHÉP SAN HÔ Chuyên ngành: Ngoại thần kinh - sọ não Mã số: 62720127 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015 Công trình được hoàn thành tại: Đại Học Y Dƣợc Thành Phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. VÕ TẤN SƠN 2. PGS.TS. TRẦN CÔNG TOẠI Phản biện 1: PGS.TS. KIỀU ĐÌNH HÙNG Trường ĐH Y Hà Nội Phản biện 2: PGS.TS. VŨ ANH NHỊ Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Phản biện 3: TS. VÕ XUÂN SƠN Phòng khám Exson TP.HCM Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường tại: Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh Vào hồi ..... giờ ..... ngày ..... tháng ..... năm .......... Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM - Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM 1 GIỚI THIỆU LUẬN ÁN 1. Đặt vấn đề Hẹp ống sống cổ là một bệnh lý thoái hóa cột sống thường gặp. Bệnh thoái hóa đĩa đệm và các mặt khớp cột sống cổ thường xảy ra ở người lớn, đặt biệt từ trên 40 tuổi. Theo Kramer Jurgen, tỷ lệ mắc bệnh đĩa đệm cột sống cổ chiếm 36,1%, đứng thứ hai sau bệnh lý đĩa đệm cột sống thắt lưng. Theo Kokubun (Nhật Bản), có 1,54 bệnh nhân trong 100 nghìn dân bị bệnh thoát vị đĩa đệm cổ cần can thiệp phẫu thuật. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Ánh Hồng cho thấy hẹp ống sống cổ do thoái hóa ngày càng thường gặp chiếm 51%. Bệnh hẹp ống sống cổ có thể biểu hiện nhiều triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy mức độ: từ đau cổ, đau vai hoặc đau theo rễ thần kinh cột sống cổ, có thể biểu hiện bằng các thương tổn thần kinh như giảm cảm giác hoặc dị cảm, yếu hoặc liệt vận động, teo cơ, rối loạn cơ vòng Nó làm giảm một số chức năng thần kinh, từ đó làm giảm chất lượng sống. Việc điều trị hẹp ống sống cổ nhằm phục hồi các chức năng thần kinh cho bệnh nhân, làm giảm đau, bớt liệt, đưa bệnh nhân về cuộc sống bình thường với chất lượng sống cao. Các phương pháp điều trị rất đa dạng từ điều trị bảo tồn đến điều trị phẫu thuật tùy theo mức độ hẹp ống sống cổ. Ở nước ta, trong quá trình hiện đại hóa các phương tiện chẩn đoán đồng thời với sự nâng cao mức sống và dân trí, bệnh lý hẹp ống sống cổ ngày càng được phát hiện nhiều hơn, đòi hỏi cần phải có các nghiên cứu về chẩn đoán và điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ sâu hơn. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ bằng phương pháp tạo hình bản sống kết hợp ghép san hô” với các mục tiêu như sau: 1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học của bệnh lý hẹp ống sống cổ. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình bản sống cổ có ghép san hô trong điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ qua các dữ liệu lâm sàng, hình ảnh học, ưu điểm, nhược điểm và biến chứng của phẫu thuật. 2. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều trị phẫu thuật, đối với hẹp ống sống cổ một hoặc hai tầng, phương pháp mổ đường trước được ưa chuộng với lấy nhân đệm hoặc cắt thân sống và ghép xương như phương pháp Cloward, 2 Robinson-Smith, Bailey-Badgley. Đối với hẹp ống sống cổ nhiều tầng (ba tầng trở lên), các phương pháp đường sau thường được chấp nhận. Giải áp đường sau bằng cắt bản sống cổ được biết có nhiều biến chứng hậu phẫu. Gần đây phương pháp tạo hình bản sống cổ đã được các tác giả Nhật Bản bước đầu sử dụng thay thế dần phương pháp cắt bản sống cổ. Do đó, đánh giá hiệu quả, biến chứng và chỉ định điều trị đúng loại bệnh này ở nước ta là hết sức cần thiết đối với chuyên ngành phẫu thuật thần kinh, đồng thời mở ra thêm một phương pháp mới để điều trị bệnh lý hẹp ống sống cổ đa tầng. 3. Những đóng góp mới của luận án Nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về lâm sàng, hình ảnh học góp phần chẩn đoán sớm và điều trị hiệu quả bệnh lý hẹp ống sống cổ. Phẫu thuật tạo hình bản sống cổ kết hợp ghép san hô là phương pháp điều trị hiệu quả bệnh lý hẹp ống sống cổ, tỷ lệ hồi phục cao, tỷ lệ tử vong và biến chứng rất thấp. Sử dụng mô ghép san hô vào phẫu thuật giúp rút ngắn thời gian mổ, tránh đau và di chứng về sau cho bệnh nhân do cuộc mổ lấy xương mào chậu gây ra. 4. Bố cục của luận án Luận án gồm 123 trang, đặt vấn đề 2 trang, tổng quan tài liệu 45 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 13 trang, kết quả 23 trang, bàn luận 37 trang, kết luận và kiến nghị 3 trang. Có 38 bảng, 19 biểu đồ, 37 hình, 103 tài liệu tham khảo. Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Lịch sử nghiên cứu tạo hình bản sống trong điều trị hẹp ống sống cổ 1.1.1. Ngoài nƣớc Tạo hình bản sống được các tác giả Nhật Bản thực hiện đầu tiên vào những năm 70 của thế kỷ 20. Năm 1971-1972, Hattori đã sử dụng phương pháp tạo hình bản sống kiểu Z, trong đó thành sau ống sống được bảo tồn hình chữ Z. Năm 1977, Hirabayashi với tạo hình bản sống loại mở cửa 1 bên đã mô tả những thuận lợi của phương pháp này. 3 1979, Itoh và Tsuji với tạo hình bản sống loại mở một bên nguyên khối có ghép xương. Sau đó, một số tác giả cải tiến tạo hình bản sống loại mở chính giữa. 1980, Kurokawa tạo hình bản sống loại chẻ đôi gai sau có ghép xương hoặc gốm (ceramic). 1984, Tomita tạo hình bản sống mở cửa kiểu Pháp (French-Door) có ghép xương hay gốm (ceramic). 1.1.2. Trong nƣớc Võ Văn Thành báo cáo tổng kết điều trị 100 trường hợp hẹp ống sống cổ, trong đó 17 trường hợp được phẫu thuật tạo hình bản sống. 2003, Phan Quang Sơn báo cáo 27 trường hợp hẹp ống sống cổ được phẫu thuật cắt bản sống, trong đó có 2 trường hợp diễn tiến nặng và tử vong. Về chẩn đoán hình ảnh, Nguyễn Thị Ánh Hồng nghiên cứu về chẩn đoán hình ảnh 300 trường hợp hẹp ống sống cổ, đã đưa ra một số nhận xét về bệnh lý. Nhìn chung, tình hình nghiên cứu mới ở giai đoạn bắt đầu. 1.1.3. Các vật liệu sinh học cấy ghép vào xƣơng Các vật liệu sinh học thay xương nguồn gốc từ san hô được phân loại thành 4 nhóm căn cứ theo cách thức chế tạo: san hô tự nhiên, san hô hydroxyapatit, xi măng chế từ san hô và phối hợp chế phẩm san hô với các hoạt chất sinh học. San hô tự nhiên và san hô hydroxyapatit là hai loại vật liệu được nghiên cứu nhiều nhất và đã có các thông báo sử dụng lâm sàng từ khoảng đầu thập niên 1980. 1.1.3.1. Nghiên cứu trên thế giới Vật liệu ghép xương có nguồn gốc từ san hô đã được các bác sĩ chấn thương chỉnh hình Pháp nghiên cứu và ghép vào mô xương từ thập niên 1970. Ngày nay, thương phẩm Biocoral (Inoteb) của họ khá nổi tiếng trong giới ngoại khoa ở nhiều nước. Tại Hoa Kỳ, mặc dù đã có hệ thống ngân hàng xương đồng loại lớn nhất thế giới (khoảng 300.000 mô ghép trong một năm), nhưng trước khả năng đặc biệt của san hô, một loại vật liệu sinh học thiên nhiên, giá thành rẻ hơn nhiều so với các vật liệu thay thế xương khác, họ cũng có 4 những công trình nghiên cứu về cơ chế chuyển hóa của san hô khi ghép vào cơ thể, nghiên cứu phối hợp vật liệu san hô với các hoạt chất sinh học kích tạo xương và cả trong thương mại hóa các sản phẩm tạo ra từ san hô. 1.1.3.2. Nghiên cứu trong nƣớc Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu về mô ghép được bắt đầu từ thập niên 1970. Gần đây, Việt Nam đã tham gia hiệp hội ngân hàng mô phẫu thuật châu Á Thái Bình Dương (thành lập 1989), tổ chức này đặt ra mục tiêu tương trợ lẫn nhau, phối hợp các hoạt động và xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật chung giữa các thành viên. Năm 2008, tác giả Lê Minh Thông đã thực hiện đề tài cấp nhà nước về sản xuất san hô tại Việt Nam và ứng dụng trong y học. Đề tài cho thấy hiệu quả về khoa học và kinh tế của mô san hô sản xuất tại nước nhà, đã được thông qua hội đồng y đức cấp bộ và được nghiệm thu cấp quốc gia vào năm 2008. Ngày nay, vật liệu ghép từ san hô được dùng trong các lĩnh vực lâm sàng như chấn thương xương khớp, hàn đốt sống, tạo hình sọ mặt, sàn ổ mắt .v.v Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu thêm cơ chế, khả năng ứng dụng của san hô để có thể dùng nó như một vật liệu ghép xương hiệu quả. 1.2. Sơ lƣợc giải phẫu cột sống cổ Cột sống cổ có 7 đốt sống, được chia thành 2 phần chính: - Cột sống cổ cao từ: C0 (chùy chẩm) - C1 - C2 - Cột sống cổ thấp từ: C3 - C4 - C5 - C6 - C7 Các thành phần xung quanh ống sống gồm có: thân sống, đĩa đệm, bản sống. Các thành phần trong ống sống gồm có: dây chằng dọc sau, dây chằng vàng, màng tủy, tủy, dây chằng răng, rễ thần kinh, mạch máu tủy, mỡ ngoài màng tủy. 1.2.1. Đặc điểm đốt sống cổ 1.2.2. Tủy sống 1.2.2.1. Hình thể ngoài Tủy sống có dạng cột trụ dẹt màu trắng xám, cân nặng khoảng 26- 28g, dài 45cm ở nam giới và dài 42-43cm ở nữ giới, chiếm hai phần ba của ống sống và chia làm bốn phần. 5 Riêng về phần tủy cổ cho tám đôi dây thần kinh cổ. Tạo đám rối thần kinh cổ và đám rối thần kinh cánh tay. 1.2.2.2. Hình thể trong Cấu tạo của tủy sống gồm ba phần: ống trung tâm, chất xám và chất trắng 1.2.2.3. Mạch máu tủy sống 1.2.2.4. Rễ thần kinh Tủy sống có hai chức năng: Chức năng dẫn truyền: Chức năng phản xạ: Dựa vào chức năng này, chúng ta có thể dùng điện cơ kim hoặc điện thế gợi để theo dõi và hạn chế tổn thương thần kinh, tủy sống trong phẫu thuật. 1.2.3. Các cấu trúc liên quan vùng cổ sau 1.2.3.1. Lớp da: gồm da và mô dưới da 1.2.3.2. Lớp cơ: gồm 3 lớp. Đặc điểm phần lớn các cơ lớp sâu có nguyên ủy hay bám tận tại gai sau C2. Vì thế, chúng ta hạn chế can thiệp vào gai sau C2 để bảo tồn độ cong sinh lý của cột sống cổ, giảm biến chứng “cổ cò” sau mổ. 1.3. Bệnh sinh: hẹp ống sống cổ là bệnh lý thoái hóa phối hợp nhiều nguyên nhân: - Hẹp ống sống cổ bẩm sinh. - Thoái hóa thân sống - đĩa đệm cổ tạo thoát vị đĩa đệm mềm hoặc thoát vị đĩa đệm cứng. - Phì đại bản sống, màng cứng, dây chằng vàng hoặc dây chằng dọc sau cốt hóa. 1.4. Sinh lý bệnh 1.4.1. Sinh lý bệnh của đau Cột sống cổ có nhiều cấu trúc cảm nhận đau khu trú trong một vùng tương đối nhỏ. Cloward nhận thấy có mối liên hệ giữa nhân đệm thoái hóa và dây chằng dọc sau trong nguyên nhân gây đau ở bệnh nhân có thoát vị đĩa đệm. 6 Dây chằng vàng và dây chằng dọc sau là các cấu trúc có nhiều thần kinh cảm giác. Sự co thắt còn làm hẹp các mạch máu nuôi cơ, làm tích tụ axít lactic gây đau và co thắt, tạo nên một vòng lẩn quẩn. 1.4.2. Sinh lý bệnh của bệnh lý tủy: McCulloch và Young cho rằng cần có 4 yếu tố để gây nên bệnh lý tủy trong thoái hóa cột sống cổ: - Sự hiện diện của hẹp ống sống cổ bẩm sinh. - Sự chèn ép ống sống tiến triển bởi các chồi xương hoặc các thoát vị đĩa đệm mềm. - Sự thiếu máu cục bộ của hệ thống nuôi dưỡng rễ thần kinh và tủy sống. - Các tác động cơ học của các chuyển động cơ – sinh học lặp đi lặp lại trên tủy sống, rễ thần kinh và hệ thống mạch nuôi của chúng. 1.4.3. Sinh lí bệnh của bệnh lý rễ thần kinh: sự chèn ép lỗ liên hợp có thể xuất phát từ các chồi xương từ mỏm móc hoặc khớp hoạt dịch, hoặc từ các mảnh vỡ của đĩa đệm thoát vị loại đã xuyên qua dây chằng dọc sau hoặc trực tiếp từ các thoát vị đĩa đệm xuất phát từ phía bên của đĩa đệm Sự phối hợp giữa chèn ép cơ học và quá trình viêm tạo ra hiện tượng đau theo rễ điển hình. 1.5. Lâm sàng 1.5.1. Các nghiệm pháp gợi ý bệnh lý tủy và bệnh lý rễ thần kinh cổ: nghiệm pháp Spurling, dấu Davidson, kéo cổ bằng tay, dấu hiệu L’hermitte, dấu hiệu Hoffman, dấu hiệu Babinski 1.5.2. Các triệu chứng của bệnh lý rễ: Phức hợp các triệu chứng điển hình có thể thấy được sẽ tùy thuộc vào rễ thần kinh bị chèn ép. 1.5.3. Các triệu chứng của bệnh lý tủy Bệnh lý tủy có thể chỉ biểu hiện đơn lẻ nhưng chúng thường phối hợp với bệnh lý rễ tạo nên bệnh lý rễ – tủy. Ngoài các triệu chứng rễ và tủy như đã nói ở trên, các tác giả còn báo cáo một số triệu chứng biểu hiện hiếm gặp và đôi khi không giải thích được về mặt bệnh học như đau ngực, bất tỉnh, bán manh, song thị, nôn ói... 1.6. Cận lâm sàng - X quang qui ước cột sống cổ: 7 - Chụp cắt lớp vi tính ống sống cho thấy hình ảnh về xương tốt hơn cộng hưởng từ. Đường kính trước sau ống sống cổ nhỏ hơn hoặc bằng 10 mm là tình trạng hẹp ống cổ tuyệt đối. - Cộng hưởng từ: bệnh lý của tủy sống như phù nề, dập tủy, nhũn tủy, rỗng tủy, tụ máu được chẩn đoán chính xác bởi cộng hưởng từ. - Điện cơ: Điện thế gợi cảm giác và vận động có hiệu quả trên bệnh lý tủy và rễ, có thể đo trước mổ để tiên lượng hồi phục, cũng như theo dõi trong mổ để ngăn ngừa tổn thương tủy có thể xảy ra. 1.7. Chẩn đoán 1.7.1. Chẩn đoán xác định Chủ yếu dựa vào lâm sàng bệnh lý rễ, bệnh lý tủy và hình ảnh học cột sống cổ. Chẩn đoán được loại hẹp ống sống cổ nhiều tầng, có kèm tổn thương tủy hay không. 1.7.2. Chẩn đoán phân biệt Nhiều rối loạn thông thường ảnh hưởng cột sống cổ có triệu chứng giống thoái hóa cột sống cổ: tổn thương do căng dây chằng - cơ cột sống cổ với những tổn thương do quá ngửa hoặc quá cúi, gãy cột sống cổ, viêm thấp khớp, viêm cứng cột sống, viêm tủy xương thân sống, bệnh thần kinh do chèn ép (chẳng hạn như hội chứng ống cổ tay, hoặc bệnh thần kinh trụ), 1.8. Điều trị bệnh tủy do hẹp ống sống cổ 1.8.1. Điều trị bảo tồn 1.8.2. Điều trị phẫu thuật Các tác giả cho rằng chỉ định mổ phải dựa trên cả hai yếu tố lâm sàng và hình ảnh, trong đó lâm sàng đóng vai trò quan trọng. Kokubun cho rằng chỉ định tuyệt đối cho điều trị phẫu thuật là có sự hiện diện hoặc tiến triển các triệu chứng của bệnh lý tủy. 1.8.3. Chọn lựa các phƣơng pháp phẫu thuật Giải áp lối trước: phẫu thuật lấy thoát vị, cắt thân sống kèm hàn xương và cố định nẹp vít. Giải áp lối sau: cắt bản sống đơn thuần hoặc có hàn xương cố định, và tạo hình bản sống. 8 1.8.4. Phƣơng pháp tạo hình bản sống cổ 1.8.4.1. Chỉ định – chống chỉ định Chỉ định: Bệnh lý tủy do các loại hẹp ống sống cổ sau đây: - Hẹp ống sống cổ tiến triển (đường kính trước sau ống sống cổ nhỏ hơn hoặc bằng 12mm). - Hẹp ống sống cổ tương đối nhiều tầng (đường kính trước sau ống sống cổ từ 12mm đến 14mm). - Cốt hóa dây chằng dọc sau loại liên tục hoặc hỗn hợp nhiều đoạn. - Hẹp ống sống cổ tiến triển kèm với thoát vị đĩa đệm cổ mềm một hoặc hai tầng. Chống chỉ định: Hẹp ống sống cổ có biến dạng gù. 1.8.4.2. Kỹ thuật: Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, đặt tư thế nằm sấp, cố định đầu bằng khung Sugita. Đầu được đặt ở tư thế trung gian hoặc cúi nhẹ. Mở da đường thẳng sau cổ từ gai sau C1 đến N1, bộc lộ gai sau và bản sống từ nữa dưới của C2 đến nửa trên của N1. Tạo hai rãnh dọc ở hai bên của bản sống bằng khoan cao tốc. Chẻ đôi gai sau và bản sống theo đường dọc giữa. Đặt các ghép xương vào hai nửa gai sau và bản sống vừa được chẻ đôi. Cột lại bằng chỉ thép hoặc chỉ tơ lớn. Xương ghép được lấy từ mào chậu hoặc từ gai sau đã cắt sẵn trước. Nếu có ghép gốm sứ hoặc ghép san hô thì khỏi lấy ghép mào chậu, đỡ kéo dài cuộc mổ. Cầm máu vùng mổ, đặt ống dẫn lưu, đóng vết mổ từng lớp. Điểm mấu chốt của phương pháp là tạo ... u chứng lúc nhập viện chiếm tỉ lệ cao là đau cổ, tê và yếu tứ chi. Các triệu chứng này phù hợp với triệu chứng của bệnh lý tủy. 4.2.4. Triệu chứng lâm sàng Trong 32 bệnh nhân, 23 trường hợp bị dị cảm và 30 trường hợp có yếu vận động. Theo tác giả Praharaj và cộng sự, tất cả 24 bệnh nhân trong nghiên cứu có yếu vận động tiến triển và tất cả đều có triệu chứng dị cảm và yếu vận động. Hai kết quả tương đương (p > 0,05). So sánh với Greenberg (37 trường hợp) cho thấy triệu chứng dị cảm, đau cổ, rối loạn cơ vòng và hội chứng tháp có sự khác biệt với p < 0,01. Triệu chứng yếu vận động, dấu Lhermitte, bệnh tủy và bệnh tủy-rễ tương đương với p > 0,05. Nghiên cứu của tác giả Hà Kim Trung cho kết quả về hội chứng của bệnh lý tủy và rễ cũng tương đương với chúng tôi (p > 0,05). 4.2.5. Tình trạng bệnh nhân lúc nhập viện theo JOA Điểm JOA trước mổ trung bình: 10,6 ± 2,9 (từ 3 đến 16 điểm). Điểm JOA trước mổ trung bình là 10,6 phù hợp chỉ định phẫu thuật theo thang điểm JOA. Điểm JOA nhỏ hơn hoặc bằng 7 cho thấy bệnh lý tủy nặng, từ 8 đến 12 là bệnh lý tủy trung bình, và từ 13 trở lên là tình trạng nhẹ. Tình trạng bệnh tủy nhẹ thường được điều trị nội khoa, chỉ định điều trị phẫu thuật khi điểm JOA nhỏ hơn hoặc bằng 12. Nghiên cứu của tác giả Hà Kim Trung có tình trạng bệnh nhân trước mổ theo JOA là 9,88 và Yue có kết quả 10,0. Cả 2 kết quả đều tương đương nghiên cứu của chúng tôi (p > 0,05). 4.3. Chẩn đoán hình ảnh học 4.3.1. Giá trị của các phƣơng tiện chẩn đoán hình ảnh 4.3.2. Hình ảnh chụp X quang quy ƣớc Trước mổ: độ cong cột sống cổ ưỡn 26, thẳng 6, không có trường hợp nào cột sống cổ gù vì tiêu chuẩn loại trừ của nghiên cứu. Các phương pháp thường dùng là: đo góc Jackson bờ sau C2-C7, đo góc Cobb của C2-C7, đo góc Harrison C2-C7. Trong nghiên cứu, chúng tôi dùng phương pháp Cobb để phân loại độ cong cột sống cổ. 18 Sau mổ: có 2 trường hợp có biến chứng gù (cổ cò). Đây là biến chứng thường gặp trong phẫu thuật cắt bản sống cổ, từ 17% đến 47%. Trong phẫu thuật tạo hình bản sống, biến chứng gù ít gặp hơn, theo Iwasaki và Ratliff chỉ khoảng 8% đến 10% (sẽ được bàn luận ở phần biến chứng sau mổ). 4.3.3. Hình ảnh chụp cộng hƣởng từ 4.3.3.1. Số tầng hẹp Hẹp ống sống cổ 3 tầng: 5, hẹp 4 tầng: 18, và hẹp 5 tầng: 9. Tổng số có 132 tầng hẹp trên 32 bệnh nhân. So sánh số tầng hẹp của nghiên cứu phẫu thuật cắt bản sống của tác giả (2003). Khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) do gần đây có nhiều phương pháp phẫu thuật điều trị hẹp ống sống cổ nhiều tầng. Nếu hẹp 2-3 tầng, phương pháp cắt thân sống lối trước có thể giải áp được cho kết quả tốt. Hẹp ống sống cổ từ 4 tầng trở lên, đa số phẫu thuật viên sử dụng phương pháp mổ lối sau cho nên số bệnh nhân hẹp 4 và 5 tầng gia tăng. 4.3.3.2. Kích thƣớc tầng hẹp nhất Nghiên cứu cho thấy kích thước tầng hẹp nhất từ 3mm đến 9mm, kích thước tầng hẹp nhất từ 6 đến 7 mm chiếm 50%. Kích thước tầng hẹp nhất trung bình là 6,3 với độ lệch chuẩn 1,6 mm. So sánh với kết quả kích thước tầng hẹp nhất trong nghiên cứu của Yue là 7,74 mm. Kết quả của nghiên cứu không có sự khác biệt với Yue (p>0,05). 4.3.3.3. Vị trí tầng hẹp nhất Qua nghiên cứu, vị trí tầng hẹp nhất ở C4-C5 chiếm 50%, C5-C6 15,6%. Số trường hợp hẹp nhất ở C3-C4 và C4-C5 là 26 (81,3%). Yue với nghiên cứu 37 trường hợp cho kết quả: có 10 trường hợp hẹp nhất ở C4-C5 (27%), 13 trường hợp ở C5-C6 (35,1%). Kết quả khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 4.3.3.4. Thƣơng tổn tủy Nghiên cứu cho thấy 15 trường hợp nhũn tủy trong nghiên cứu. Konya và cộng sự cho rằng sự thoái hóa và teo của tủy sống (được mô tả như là tăng tín hiệu trên T2 của cộng hưởng từ) đi kèm với sự hồi 19 phục không hoàn toàn. Nhưng theo Lee và cộng sự, không có mối liên hệ giữa sự thay đổi tín hiệu tủy sống trước mổ và kết quả điều trị. 4.3.4. Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính Có hai loại hẹp ống sống trong nhóm nghiên cứu với 23 trường hợp do thoái hóa thân đốt sống cổ và 9 trường hợp vôi hóa dây chằng dọc sau. Trong số 9 trường hợp này, có 3 trường hợp loại liên tục, 3 trường hợp loại hỗn hợp, 2 trường hợp loại khu trú qua 3 tầng, 1 loại từng đoạn qua 4 tầng. Kết quả này phù hợp với các tác giả Việt Nam và trên thế giới (p > 0,05), nhưng khác của các tác giả người Nhật (p < 0,001). Sự khác nhau này có thể do tập quán ăn uống của người Nhật. 4.4. Điều trị phẫu thuật 4.4.1. Chỉ định mổ: đa số các tác giả đều cho rằng chỉ định mổ phải dựa trên cả hai yếu tố lâm sàng và hình ảnh, trong đó lâm sàng đóng vai trò quan trọng. Kokubun cho rằng chỉ định tuyệt đối cho điều trị phẫu thuật là có sự hiện diện hoặc tiến triển các triệu chứng của bệnh lý tủy. Trong nghiên cứu này, tất cả các bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật phù hợp giữa triệu chứng lâm sàng với hình ảnh học theo các tiêu chuẩn trên. 4.4.2. Các phƣơng pháp điều trị phẫu thuật 4.4.3. Phƣơng pháp phẫu thuật tạo hình bản sống Một trong các loại tạo hình bản sống thông dụng nhất là loại mở ra 2 bên bằng chẻ đôi gai sau được thực hiện năm 1980 bởi Kurokawa T. (hiện là giáo sư danh dự của đại học Tokyo). Cả 32 trường hợp được phẫu thuật tạo hình bản sống ghép bằng mô san hô. Nếu lấy mô ghép từ gai sau hoặc xương mào chậu, trong lúc mổ phải cắt gọt xương cho vừa nơi sắp ghép, thời gian mổ có thể kéo dài hơn. Nếu lấy xương mào chậu để ghép, một số bệnh nhân bị đau vết mổ dai dẳng, rất khó chịu sau mổ. Còn ghép bằng mô san hô, san hô đã được định hình trước ba loại lớn, trung và nhỏ. Khi mổ chỉ cần lựa chọn kích thước cho phù hợp để ghép. Các tác giả khác cũng đã nghiên cứu nhiều loại mô ghép như xương tự thân lấy từ mào chậu, từ gai sau, hoặc bằng gốm với thành phần là hợp chất hydroxyapatite, có thể dùng vật liệu nẹp nhỏ bằng ti- tan để cố định. Để so sánh với cắt bản sống, tạo hình bản sống có nhiều ưu điểm trong bảo tồn thành sau của ống sống. Mục tiêu của tạo hình bản sống là để mở rộng ống sống, ngăn cản sự không vững và dị tật gù cổ, và để 20 ngăn cản sự hình thành mô sẹo màng cứng gây xấu thêm tình trạng của bệnh lý tủy về sau. + Ƣu điểm của phƣơng pháp: Quen thuộc với phẫu thuật, ít tổn thương các cơ quan mạch máu, thần kinh (tỉ lệ nói khó hoặc khàn ít hơn), dễ mở rộng vết mổ lên và xuống, giải áp đủ rộng. Giải áp tủy sống mà không lấy đi các chồi xương thoái hóa tác động vào tủy. Lấy đi các chồi xương là giai đoạn nguy hiểm nhất của phẫu thuật khi mổ đường trước. Mở rộng ống sống mà không làm mất vững cột sống. Ít nguy cơ chảy máu hơn mổ lối trước khi điều trị hẹp ống sống do vôi hóa dây chằng dọc sau. Có thể dễ dàng làm thêm một số thủ thuật khác kèm theo như giải áp rễ thần kinh hoặc làm vững cột sống. Chẳng hạn như cắt mặt khớp để giải áp rễ thần kinh, hoặc ghép xương để làm vững cột sống. + Nhƣợc điểm của phẫu thuật: Hạn chế vận động của cột sống cổ, đặc biệt trong động tác ngửa cổ, nghiêng sang bên, và xoay cổ. Hạn chế vận động của cột sống cổ sẽ nhiều hơn nếu có can thiệp vào mặt khớp lúc mổ. Đau vết mổ nhiều hơn do mở rộng hơn, khó bảo tồn được độ ưỡn của cột sống cổ, biến chứng nhiễm trùng cao hơn phẫu thuật lối trước. Bất tiện khó chịu ở vùng cổ như đau hoặc tê. Không đặt những mảnh ghép trực tiếp lên mặt khớp, tránh tách cơ quá nhiều trong khi mổ, và khuyến khích người bệnh tập vận động cổ sớm có thể làm giảm những khó chịu đó. 4.4.4. Thời gian phẫu thuật: Thời gian mổ phụ thuộc vào số tầng phẫu thuật, trung bình là 135 phút (từ 110 đến 160 phút). So sánh với Matsunaga, cùng sử dụng phương pháp tạo hình bản sống, thời gian mổ trung bình 179 phút, không có sự khác biệt. 4.5. Biến chứng phẫu thuật và tử vong 4.5.1. Biến chứng phẫu thuật + Rách màng cứng trong mổ: trong nghiên cứu, có 2 trường hợp bị rách màng cứng trong khi chẻ đôi gai sau bằng khoan cao tốc. Cả 2 trường hợp rách màng cứng ngay dưới gai sau C5, ống sống tại vị trí 21 này hẹp chỉ 4 và 5 mm. Tác giả Michael có 3 trường hợp rách màng cứng (n = 302), tỉ lệ gần 1%. Kết quả khác biệt có ý nghĩa p < 0,05. + Yếu liệt sau mổ: trong nghiên cứu, có 1 trường hợp bị yếu nửa người sau mổ, sức cơ 3/5. Nguyên nhân có thể do thao tác trong phẫu thuật gây đụng dập, chấn thương tủy cổ. Sau 5 tháng, bệnh nhân hồi phục sức cơ hoàn toàn. + Liệt rễ C5 sau mổ: có 4 trường hợp bị liệt rễ C5 sau mổ trong nghiên cứu. So với các tác giả Yue W.M. và N.V. Thạch đều chỉ có 1 trường hợp (n=37). Matsunaga có 3 trường hợp trên tổng số 64. Koyanagi có 6 trên tổng số 63 trường hợp. Sự khác biệt không có ý nghĩa (p > 0,05). Liệt rễ thần kinh C5 thường từ 3% đến 29% trong các nghiên cứu (trung bình 5-10%), không phụ thuộc độ hẹp cột sống cổ, mức độ bệnh lý tủy, độ ưỡn của cột sống cổ. + Cột sống cổ bị gù sau mổ: trong nghiên cứu, có 2 trường hợp bị gù sau mổ. Tuy nhiên, triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân vẫn không xấu đi. Tác giả Iwasaki M và Ratliff JK cho rằng: độ gù cột sống cổ sau mổ từ 8-10%. 4.5.2. Tử vong: Tỉ lệ tử vong trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi (tất cả 32 trường hợp tạo hình bản sống) là 0%. Trong khi đó với nhóm phẫu thuật cắt bản sống cổ của chúng tôi năm 2003, có 2 trường hợp tử vong sau mổ. Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,01). 4.6. Kết quả phẫu thuật 4.6.1. Đánh giá kết quả phẫu thuật 4.6.1.1. Kết quả ngay sau mổ Điểm JOA ngay sau mổ trung bình: 12,2 ± 2,9. So sánh với Wai Mun Yue, mức độ hồi phục ngay sau mổ tương đương (p > 0,05). 4.6.1.2. Kết quả tại các thời điểm theo dõi Nghiên cứu cho thấy điểm JOA ở thời điểm 6 tháng: 12,8 ± 2,7, và tăng dần 13,6 ± 2,6 ở 12 tháng, và 14,0 ± 2,4 ở 24 tháng. 4.6.1.3. Kết quả phẫu thuật tính chung Kết quả phẫu thuật tính chung cho kết quả: - Thời gian theo dõi trung bình: 38,2 tháng (từ 6 đến 70 tháng). - Điểm JOA trung bình là 12,97 với độ lệch chuẩn là 2,46. 22 - Tỉ lệ hồi phục là 58,49% với độ lệch chuẩn là 12,77%. Bảng 4.9: So sánh kết quả theo JOA. Kết quả Điểm JOA Số bệnh nhân Thời gian theo dõi Itoh và Tsuji 12,4 ± 2,5 30 24 tháng Seichi 13,8 ± 2,7 35 17 tháng BVCR 12,97 ± 2,46 32 38 tháng Kết quả cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 4.6.2. Kết quả phẫu thuật và các yếu tố liên quan 4.6.2.1. Liên quan giữa tuổi và kết quả phẫu thuật: tuổi không ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật. 4.6.2.2. Liên quan giữa giới và kết quả phẫu thuật: chúng tôi nhận thấy giới không liên quan đến kết quả phẫu thuật. 4.6.2.3. Liên quan giữa kích thƣớc hẹp ống sống và kết quả phẫu thuật: kích thước hẹp ống sống không có mối liên quan với kết quả phẫu thuật. 4.6.2.4. Liên quan giữa tình trạng bệnh nhân lúc nhập viện và kết quả phẫu thuật: kết quả phẫu thuật và tình trạng bệnh nhân lúc nhập viện cũng không có mối liên quan. 4.7. Theo dõi sau mổ 4.7.1. Giai đoạn trƣớc khi ra viện + Hồi phục vận động và dáng đi nhanh hơn cải thiện về cảm giác và cơ vòng. Tác giả Hirabayashi và Praharaj cũng đã nhận định trong nghiên cứu. Bệnh nhân có thể đi lại không cần hổ trợ ngay sau mổ do tủy được giải áp tốt. + Cảm giác: tác giả Hirabayashi nhận định về cảm giác hồi phục dần nhưng chậm. + Cơ vòng: trong thời gian hậu phẫu, các rối loạn cơ vòng chưa hồi phục. Thường phải sau 3 tuần là thời gian sớm nhất. + Đau cổ: ngay sau mổ, triệu chứng đau cổ giảm dần nhưng chưa hết. Phải sau 3-6 tháng, đau cổ mới cải thiện tốt. 23 4.7.2. Giai đoạn sau khi ra viện + Hồi phục vận động, cảm giác và cơ vòng tăng dần. Theo tác giả Yue, sau thời gian theo dõi lâu dài khoảng 5-10 năm, sự hồi phục sẽ ngưng lại và có thể không hồi phục thêm nữa tùy vào tình trạng bệnh lý tủy trước mổ nặng và kèm tổn thương nhũn tủy. + Liệt rễ C5: sau mổ 3-6 tháng, các trường hợp liệt rễ C5 đã hồi phục tốt. + Hồi phục cơ vòng: 2 trên 3 trường hợp rối loạn cơ vòng có cải thiện tốt, 1 trường hợp không hồi phục ở bệnh nhân nặng (JOA=3). + Không phát hiện yếu liệt thêm hay tử vong ở giai đoạn này. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 32 trường hợp hẹp ống sống cổ nhiều tầng được phẫu thuật tạo hình bản sống với ghép san hô, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học: - Tuổi trung bình là 57,3 tuổi, nhóm tuổi gặp nhiều nhất từ 41-60 (68,8%). Nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ (tỉ lệ nam/nữ là 5,4/1). - Triệu chứng khởi phát sớm hay gặp là đau cổ (56,3%), nên được khám, đánh giá cẩn thận, kết hợp với hình ảnh học để phát hiện bệnh sớm. Triệu chứng lâm sàng thường gặp khi nhập viện là đau cổ (56,3%), yếu tứ chi (50%) và dị cảm (71,9%). Hội chứng tháp chiếm 21,9%, dấu Lhermitte chiếm 15,6%. Các triệu chứng khác như rối loạn cơ vòng (9,4%), rối loạn hô hấp (3,1%). - Tình trạng lâm sàng của bệnh nhân trước mổ đánh giá theo thang điểm JOA trung bình là 10,6 với độ lệch chuẩn 2,9. - Với 32 bệnh nhân, có 132 tầng hẹp ống sống, trong đó có 5 trường hợp hẹp 3 tầng, 18 trường hợp hẹp 4 tầng và 9 trường hợp hẹp 5 tầng. Kích thước tầng hẹp nhất 6-7 mm chiếm 50% (từ 3-9 mm). Vị trí tầng hẹp nhất thường gặp là C4-C5 chiếm 50%. Có 9 trường hợp cốt hóa dây chằng dọc sau (28,1%). 24 2. Kết quả điều trị phẫu thuật và các yếu tố liên quan: - Tất cả bệnh nhân đều được phẫu thuật tạo hình bản sống theo phương pháp Kurokawa với mở bản sống ra hai bên và ghép mô san hô được thực hiện trên 132 tầng hẹp ống sống cổ. - Điểm JOA sau mổ trung bình toàn bộ 12,97 ± 2,46. - Tỉ lệ hồi phục 58,5 ± 12,8%. - Kết quả phẫu thuật: tốt và rất tốt (81,2%), vừa (12,5%), xấu (6,3%). - Tỉ lệ biến chứng trong phẫu thuật: 6,3%, biến chứng yếu nửa người sau mổ: 3,1%, cột sống cổ bị gù sau mổ: 6,3%, liệt rễ C5: 12,5%. Tất cả các biến chứng đều hồi phục hoàn toàn từ 5-6 tháng sau mổ. Không có trường hợp nào bị thải mô ghép san hô cũng như không có trường hợp nào tử vong sau mổ. - Không ghi nhận có sự liên quan giữa kết quả phẫu thuật với các yếu tố tuổi, giới và độ hẹp ống sống cổ. - Phương pháp tạo hình bản sống với ghép san hô có thể mở rộng ống sống mà không làm mất vững cột sống, đặc biệt với những trường hợp hẹp ống sống do vôi hóa dây chằng dọc sau, nguy cơ chảy máu ít hơn so với giải ép tủy sống lối trước. KIẾN NGHỊ Sau nghiên cứu, chúng tôi còn các vấn đề tồn tại cần giải quyết: - Tiếp tục nghiên cứu áp dụng phương pháp và theo dõi dài hạn để xác định thêm các ưu điểm và nhược điểm của phương pháp, cũng như xác định được các yếu tố liên quan. - Tiến hành các nghiên cứu khác sử dụng mô ghép san hô để từng bước đưa mô ghép san hô ra thị trường, giúp người dân được hưởng giá thành phù hợp hơn so với các vật liệu ghép của nước ngoài. 25 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 1. Phan Quang Sơn (2013), “Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng hẹp ống sống cổ”, Tạp chí Y học thực hành, (891+892), tr. 74-77. 2. Phan Quang Sơn (2013), “Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình bản sống trong điều trị bệnh lý tủy do hẹp ống sống cổ”, Tạp chí Y học thực hành, (895), tr. 60-63.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_dieu_tri_benh_ly_hep_ong_song_co.pdf