Tóm tắt Luận án Nghiên cứu DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bằng kỹ thuật Realtime PCR nhằm dự báo sớm tiền sản giật

Việc phát hiện ra DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần hoàn thai phụ

đã mở ra một hướng mới đó là chẩn đoán trước sinh bằng các kỹ thuật không

xâm lấn. Các nghiên cứu cho thấy nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết

tương thai phụ tăng tương ứng với tuổi thai, tăng cao bất thường liên quan đến

các biến chứng của thai kỳ (tiền sản giật, đẻ non, .) và được thải trừ nhanh

chóng sau đẻ. Nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ tăng

cao có ý nghĩa lần đầu tiên từ tuần thai thứ 17 và lần thứ 2 vào thời điểm 3

tuần trước khi có triệu chứng lâm sàng của tiền sản giật. Điều này gợi ý khả

năng ứng dụng kỹ thuật định lượng DNA phôi thai tự do để sàng lọc và phát

hiện sớm các thai phụ có nguy cơ tiền sản giật. Một số nghiên cứu đã sử dụng

kỹ thuật Realtime PCR để định lượng được DNA thai từ tuần thứ 5 và 6 của

thai kỳ và trên cơ sở kỹ thuật này đã được áp dụng vào chẩn đoán trước sinh

không xâm lấn một cách chính xác và hiệu quả hơn trong việc theo dõi, dự

đoán các nguy cơ của cả mẹ và thai nhi trong quá trình thai nghén

Ở Việt Nam, hiện tại chẩn đoán tiền sản giật dựa vào triệu chứng của bệnh:

tăng huyết áp, protein niệu, . bên cạnh đó việc theo dõi phát hiện tiền sản giật

dựa vào các triệu chứng của bệnh nhân phát hiện ra và tự đến khám: phù, nhức

đầu, Các xét nghiệm sàng lọc định lượng các dấu ấn như αFP, uE3 . nhưng

tính đặc hiệu, chẩn đoán và theo dõi dọc không cao. Với mục đích nghiên cứu

vai trò của DNA phôi thai tự do trong tiền sản giật để giúp thầy thuốc lâm sàng

có thêm một dấu ấn sinh học trong dự báo sớm, theo dõi và tiên lượng tiền sản

giật nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên

cứu DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bằng kỹ thuật Realtime

PCR nhằm dự báo sớm tiền sản giật" với các mục tiêu sau:

1.Hoàn chỉnh và xây dựng đường chuẩn của kỹ thuật Realtime PCR để định

lượng DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ.

2.Đánh giá nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bình

thường và thai phụ tiền sản giật

pdf 26 trang dienloan 8160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bằng kỹ thuật Realtime PCR nhằm dự báo sớm tiền sản giật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bằng kỹ thuật Realtime PCR nhằm dự báo sớm tiền sản giật

Tóm tắt Luận án Nghiên cứu DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bằng kỹ thuật Realtime PCR nhằm dự báo sớm tiền sản giật
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Việc phát hiện ra DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần hoàn thai phụ 
đã mở ra một hướng mới đó là chẩn đoán trước sinh bằng các kỹ thuật không 
xâm lấn. Các nghiên cứu cho thấy nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết 
tương thai phụ tăng tương ứng với tuổi thai, tăng cao bất thường liên quan đến 
các biến chứng của thai kỳ (tiền sản giật, đẻ non, ...) và được thải trừ nhanh 
chóng sau đẻ. Nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ tăng 
cao có ý nghĩa lần đầu tiên từ tuần thai thứ 17 và lần thứ 2 vào thời điểm 3 
tuần trước khi có triệu chứng lâm sàng của tiền sản giật. Điều này gợi ý khả 
năng ứng dụng kỹ thuật định lượng DNA phôi thai tự do để sàng lọc và phát 
hiện sớm các thai phụ có nguy cơ tiền sản giật. Một số nghiên cứu đã sử dụng 
kỹ thuật Realtime PCR để định lượng được DNA thai từ tuần thứ 5 và 6 của 
thai kỳ và trên cơ sở kỹ thuật này đã được áp dụng vào chẩn đoán trước sinh 
không xâm lấn một cách chính xác và hiệu quả hơn trong việc theo dõi, dự 
đoán các nguy cơ của cả mẹ và thai nhi trong quá trình thai nghén 
Ở Việt Nam, hiện tại chẩn đoán tiền sản giật dựa vào triệu chứng của bệnh: 
tăng huyết áp, protein niệu, ... bên cạnh đó việc theo dõi phát hiện tiền sản giật 
dựa vào các triệu chứng của bệnh nhân phát hiện ra và tự đến khám: phù, nhức 
đầu, Các xét nghiệm sàng lọc định lượng các dấu ấn như αFP, uE3 ... nhưng 
tính đặc hiệu, chẩn đoán và theo dõi dọc không cao. Với mục đích nghiên cứu 
vai trò của DNA phôi thai tự do trong tiền sản giật để giúp thầy thuốc lâm sàng 
có thêm một dấu ấn sinh học trong dự báo sớm, theo dõi và tiên lượng tiền sản 
giật nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên 
cứu DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bằng kỹ thuật Realtime 
PCR nhằm dự báo sớm tiền sản giật" với các mục tiêu sau: 
1. Hoàn chỉnh và xây dựng đường chuẩn của kỹ thuật Realtime PCR để định 
lượng DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ. 
2. Đánh giá nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ bình 
thường và thai phụ tiền sản giật. 
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 
Công trình đầu tiên trong nước nghiên cứu xây dựng và hoàn chỉnh đường 
chuẩn của kỹ thuật Realtime PCR để định lượng nồng độ DNA phôi thai tự do 
lưu hành trong huyết tương thai phụ bình thường và thai phụ tiền sản giật và 
đã thu được một số kết quả nhất định. 
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu sự thay đổi nồng độ DNA phôi thai 
tự do trong huyết tương thai phụ bình thường và thai phụ tiền sản giật. Với kết 
2 
quả thu được của nghiên cứu này sẽ giúp các bác sỹ lâm sàng có thêm một 
phương pháp chẩn đoán trước sinh không xâm lấn, dự báo sớm tiền sản giật 
hiện đại với độ tin cậy cao. 
BỐ CỤC LUẬN ÁN 
Luận án bao gồm: 105 trang; Đặt vấn đề (2 trang); Chương 1: Tổng quan 
(35 trang); Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (16 trang); 
Chương 3: Kết quả nghiên cứu (21 trang); Chương 4: Bàn luận (29 trang) và 
Kết luận (1 trang). Kiến nghị (1 trang). 
Trong luận án có: 26 bảng, 3 biểu đồ, 16 hình. 
Luận án có 163 tài liệu tham khảo, bao gồm: 16 tiếng Việt, 147 tiếng Anh. 
Chương 1: TỔNG QUAN 
1.1. Tổng quan về DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai 
phụ 
Để phát hiện sự có mặt cũng như kích thước của DNA phôi thai tự do trong 
huyết tương thai phụ, các nghiên cứu đã sử dụng cặp mồi của gen SRY (Sex-
determining region of Y gene) (gen đặc hiệu của NST Y). 
1.1.1. Nguồn gốc của DNA phôi thai tự do 
Mặc dù DNA phôi thai trong huyết tương thai phụ đã được biết đến với 
nhiều ứng dụng nhưng cơ chế sinh học lại còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Có 
nhiều giả thuyết về nguồn gốc của DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần 
hoàn thai phụ, trong đó có 3 khả năng: 
1.1.1.1. Nguồn gốc của DNA phôi thai tự do từ những tế bào thai có nhân lưu 
hành trong tuần hoàn mẹ 
1.1.1.2. Nguồn gốc của DNA phôi thai tự do từ rau thai 
1.1.1.3. Nguồn gốc từ sự trao đổi trực tiếp của các phân tử DNA phôi thai tự 
do giữa mẹ và thai 
1.1.2. Kích thước của DNA phôi thai tự do 
Nghiên cứu của Chan KC. và CS (2004): 57% DNA của người mẹ có kích 
thước > 201bp; hầu hết kích thước của DNA phôi thai tự do ngắn ≤193bp, 
20% kích thước > 193bp, 0% kích thước > 313bp và ngắn hơn DNA có nguồn 
gốc từ của mẹ. Nghiên cứu của Li Y. và CS (2004): kích thước của DNA phôi 
thai tự do 1kb. 
Nghiên cứu của Fan HC và CS (2010): kích thước của DNA phôi thai tự do 
khoảng 130 - 150bp, nhưng không dài hơn 250bp. 
1.1.3. Thời gian bán hủy t/2 của DNA phôi thai tự do 
3 
DNA phôi thai tự do chiếm khoảng 11 - 13% của tổng số DNA lưu hành 
trong tuần hoàn thai phụ. Thời gian xuất hiện DNA phôi thai tự do đầu tiên 
lưu hành trong tuần hoàn thai phụ tại thời điểm thai 5 - 7 tuần và nồng độ DNA 
phôi thai tự do tăng dần theo tuổi thai. Nghiên cứu của Lo và CS (1999) thời 
gian bán hủy t/2 của DNA phôi thai tự do khoảng 16,3 phút (từ 4–30 phút). 
Nghiên cứu của Smid và CS (2003), Tsui và CS (2012) nồng độ DNA thai sau 
sjnh rất thấp và không phát hiện được DNA thai sau sinh 2 ngày. Stephanie và 
CS (2013) thấy rằng: tốc độ giải phóng DNA phôi thai tự do vào tuần hoàn 
thai phụ sau khi sinh xảy ra gồm: giai đoạn ban đầu nhanh với thời gian bán 
hủy t/2 khoảng 1h, trong khi giai đoạn chậm với thời gian bán hủy t/2 khoảng 
13h, tuy nhiên sau sinh 1-2 ngày cũng không phát hiện được DNA phôi thai 
tự do. 
1.1.4. Tình hình nghiên cứu DNA phôi thai tự do ở nước ngoài và ở Việt 
Nam 
1.2. Tổng quan về tiền sản giật 
1.2.1. Khái niệm tiền sản giật 
Tiền sản giật (TSG) là tình trạng bệnh lý do thai nghén gây ra ở nửa sau 
của thai kỳ bắt đầu từ tuần thứ 20 của quá trình mang thai, được biểu hiện ở 
hội chứng gồm 3 triệu chứng chính là tăng huyết áp, protein niệu và phù. 
1.2.2. Yếu tố nguy cơ và cơ chế bệnh sinh của tiền sản giật 
1.2.2.1. Các yếu tố nguy cơ 
Bảng 1.1. Một số yếu tố nguy cơ của tiền sản giật 
Yếu tố nguy cơ OR hoặc RR (95%CI) 
Hội chứng kháng phospholipid 9.7 (4.3–21.7) 
Bệnh thận 7.8 (2.2–28.2) 
Tiền sử TSG 7.2 (5.8–8.8) 
Bệnh lupus ban đỏ hệ thống 5.7 (2.0–16.2) 
Sinh lần đầu 5.4 (2.8–10.3) 
Tăng huyết áp mạn tính 3.8 (3.4–4.3) 
Đái tháo đường 3.6 (2.5–5.0) 
Sống ở vùng núi cao so với mặt nước biển 3.6 (1.1–11.9) 
Tiền sử gia đình mắc các bệnh lý tim mạch 
(bệnh tim hoặc đột quị ở 2 người thân trở lên) 
3.2 (1.4–7.7) 
Béo phì 2.5 (1.7–3.7) 
Tiền sử gia đình (mẹ hoặc chị/em gái bị TSG) 2.3–2.6 (1.8–3.6) 
Tuổi thai phụ > 40 1.68 (1.23–2.29) 
(chưa sinh lần nào) 
1.96 (1.34–2.87) (Đa thai) 
4 
1.2.2.2. Cơ chế bệnh sinh 
Mặc dù cơ chế gây bệnh chính xác vẫn chưa được hiểu rõ nhưng có những 
bằng chứng cho thấy TSG chỉ xảy ra khi có sự hiện diện của rau thai. Theo 
các nghiên cứu của Sargent và CS (2006); Gammill và Roberts (2007), cơ chế 
bệnh sinh TSG được cho là mô hình rối loạn gồm: giai đoạn 1- rau thai bị giảm 
tưới máu và giai đoạn 2 - biểu hiện đa hệ thống ở mẹ khi rau thai không được 
tưới máu đầy đủ. 
1.2.3. Một số triệu chứng điển hình của tiền sản giật 
1.2.3.1. Triệu chứng lâm sàng 
1.2.3.2. Xét nghiệm cận lâm sàng 
1.2.4. Phân loại và chẩn đoán tiền sản giật 
1.2.5. Tiên lượng 
1.2.6. Các biến chứng của tiền sản giật 
1.2.6.1. Biến chứng với mẹ 
1.2.6.2. Biến chứng với con 
1.2.7. Một số dấu ấn sinh học được sử dụng trong chẩn đoán và theo dõi 
tiền sản giật 
Hiện nay, ngoài dấu ấn sinh học là DNA phôi thai tự do còn một số dấu ấn 
sinh học đã khác được nghiên cứu và ứng dụng trong lâm sàng để giúp dự báo 
sớm, chẩn đoán và theo dõi TSG. 
1.2.7.1. PlGF và sFlt1 
1.2.7.2. PAPP-A 
1.2.7.3. sEng 
1.2.7.4. PP-13 
1.3. Kỹ thuật Realtime PCR định lượng DNA 
1.3.1. Nguyên tắc kỹ thuật Realtime PCR 
Chất huỳnh quang được thêm vào hỗn hợp của phản ứng PCR và sẽ được 
chèn vào sợi đôi của DNA hoặc bắt cặp bổ sung với một trình tự đặc hiệu trên 
DNA đích, nếu trong ống phản ứng này có sự hiện diện sản phẩm khuếch đại 
của PCR từ DNA đích được nhân bản đủ số lượng để làm cho ống phản ứng 
phát huỳnh quang khi nhận được nguồn sáng kích thích và sẽ không thể phát 
được huỳnh quang nếu không có sản phẩm khuếch đại trong ống. Nếu trong 
ống phản ứng số lượng DNA đích nhiều thì sẽ cần ít chu kỳ nhiệt hơn để đạt 
đến số lượng bản sao đủ để ống phản ứng cho được tín hiệu huỳnh quang mà 
máy sẽ ghi nhận được, còn nếu số lượng DNA đích ít hơn thì cần nhiều chu 
kỳ nhiệt hơn. Tính toán số copy của DNA đích ban đầu có trong ống phản ứng 
5 
phải dựa vào đường biểu diễn chuẩn, xác định mối quan hệ giữa chu kỳ 
ngưỡng với số lượng copy DNA đích ban đầu có trong ống phản ứng. 
1.3.2. Biểu đồ chuẩn của kỹ thuật Realtime PCR 
Là một đường thẳng tuyến tính đi qua các điểm tọa độ xác định bởi số 
lượng bản DNA đích ban đầu của từng mẫu chuẩn và chu kỳ ngưỡng tương 
ứng. 
1.3.3. Một số kỹ thuật Realtime PCR thường được sử dụng 
1.3.4. Ưu điểm và nhược điểm của kỹ thuật Realtime PCR 
Ưu điểm: là kỹ thuật định lượng, độ chính xác cao, thời gian phát hiện sản 
phẩm nhanh, phân tích kết quả không cần bước điện di trên gel, tiến hành được 
nhiều mẫu/ngày, hạn chế tạp nhiễm và độ lặp lại cao trong cùng lần thử 
nghiệm, giữa các phòng thí nghiệm khác nhau. 
1.3.5. Ứng dụng của kỹ thuật Realtime PCR 
Chương 2. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Bao gồm 2 nhóm: nhóm thai phụ bình thường và nhóm thai phụ tiền sản 
giật. 
Chất liệu nghiên cứu: 5ml máu tĩnh mạch được lấy vào ống có chứa EDTA, 
ly tâm tách huyết tương và bảo quản ở -800C đến khi sử dụng. 
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu 
Nhóm thai phụ bình thường: Thai phụ không có tiền sử sảy thai, thai lưu, 
không nạo hút, tiền sử TSG, sản giật; không có ý định phá thai; trong quá trình 
mang thai đến lúc sinh con không xuất hiện TSG; có thể theo dõi được sản 
phụ cho đến khi sinh và con sinh ra bình thường. 
Nhóm thai phụ tiền sản giật: bao gồm các thai phụ được chẩn đoán TSG 
theo Hướng dẫn chẩn đoán của Bộ Y tế (2015), có ít nhất 2 triệu chứng: tăng 
huyết áp HATT ≥ 140mmHg, HATTr ≥ 90mmHg và protein niệu ≥ 0,5 g/l ở 
mẫu nước tiểu ngẫu nhiên hoặc 0,3 g/l ở mẫu nước tiểu trong 24h. 
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ 
Thai phụ có mắc các bệnh từ trước, bao gồm: đa thai, đa ối, thai dị dạng; 
có các bệnh mắc kèm: bệnh tim, bệnh thận, tăng huyết áp, đái tháo đường, 
bệnh Basedow, bệnh gan. 
2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu 
Nhóm thai phụ bình thường: 90 mẫu máu của thai phụ bình thường (30 
mẫu máu của thai phụ có thai từ tuần 12-15 (quý 1); 30 mẫu máu của thai phụ 
6 
có thai từ tuần 16-25 (quý 2); 30 mẫu máu của thai phụ có thai từ tuần 31-35 
(quý 3)) 
Nhóm thai phụ TSG: 30 mẫu máu của thai phụ được chẩn đoán TSG có 
thai từ tuần 22 - 40. 
2.3. Phương pháp nghiên cứu 
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết hợp với đối chiếu với thực tế (biểu hiện 
lâm sàng của thai phụ, tình trạng của trẻ khi sinh ra, ...) 
2.3.2. Các chỉ số cần xác định trong nghiên cứu. 
Các chỉ số lâm sàng: tuổi thai phụ và tuổi thai; huyết áp của thai phụ; phù. 
Các chỉ số cận lâm sàng: nhóm chỉ số huyết học cơ bản; nhóm chỉ số hóa 
sinh máu cơ bản, nồng độ DNA phôi thai tự do. 
2.3.3. Kỹ thuật xác định các chỉ số trong nghiên cứu: Tách chiết DNA, 
PCR, nested PCR (PCR lồng), Realtime PCR, điện di. 
2.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: 
Nghiên cứu được tiến hành tại: Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội; Phòng khám 
Vạn Phúc; Bệnh viện Phụ Sản Trung ương; Bộ môn Sinh lý bệnh - Miễn dịch 
Trường Đại học Y Hà Nội; Phòng Viêm gan virus Viện Vệ sinh dịch tễ Trung 
ương. 
Thời gian nghiên cứu: Tháng 1/2013 đến tháng 06/2015. 
2.5. Trang thiết bị và máy móc phục vụ nghiên cứu. 
2.6. Phương pháp phân tích số liệu 
Các số liệu thu thập được của nghiên cứu được xử lý theo các thuật toán 
thống kê Y học trên máy tính bằng phần mềm SPSS 16.0. Sử dụng phần mềm 
CFX Manager™ chuyên dụng của máy Realtime PCR (BioRad) tính toán 
nồng độ DNA phôi thai tự do. Test kiểm định sử dụng: Mann-whitney, Chi-
squared, Fissher's exact. Các phép kiểm định, so sánh có ý nghĩa thống kê khi 
p< 0,05. 
2.7. Đạo đức nghiên cứu 
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
3.1.1. Đặc điểm về tuổi và huyết áp 
7 
Bảng 3.1. Một số đặc điểm tuổi, huyết áp của đối tượng nghiên cứu 
Nhóm thai phụ 
Đặc điểm 
Bình thường 
(n = 101) 
Tiền sản giật 
(n = 50) 
p 
Tuổi thai phụ 29,4 ± 5,0 30,8 ± 5,2 > 0,05 
HATT (mmHg) 113,1 ± 8,4 157,4 ± 22,0 < 0,01 
HATTr (mmHg) 69,9 ± 6,3 101,0 ± 14,7 < 0,01 
Không có sự khác biệt về độ tuổi giữa 2 nhóm thai phụ bình thường và tiền 
sản giật với p > 0,05. 
Chỉ số về huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở nhóm thai phụ tiền sản 
giật tăng cao so với nhóm thai phụ bình thường, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,01 
3.1.2. Đặc điểm về tỷ lệ phù 
Bảng 3.2. Tình trạng phù của đối tượng nghiên cứu 
74,0% thai phụ tiền sản giật có triệu chứng phù, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê so với nhóm thai phụ bình thường với p<0,01. 
3.1.3. Một số đặc điểm về huyết học cơ bản 
Bảng 3.3. Một số đặc điểm huyết học của đối tượng nghiên cứu 
Nhóm thai phụ 
Chỉ số 
Bình thường X ± SD Tiền sản giật X ± SD p 
SLHC (1012/L) 3,91 ± 0,38 4,17 ± 0,49 <0,01 
HE (L/L) 0,35 ± 0,04 0,36 ± 0,04 <0,05 
Hb (g/L) 113,3 ± 12,0 122,4 ± 14,2 <0,01 
SLBC (109/L) 8,9 ± 1,6 10,9 ± 2,8 <0,01 
SLTC (109/L) 235,3 ± 51,7 213,2 ± 2,8 0,816 
(SLHC: số lượng hồng cầu, He: Hematocrit, Hb: Hemoglobin, 
SLBC: số lượng bạch cầu, SLTC: số lượng tiểu cầu) 
Nhóm thai phụ 
Triệu chứng 
phù 
Bình thường Tiền sản giật 
p n % n % 
Có 0 0,0 37 74,0 <0,01 Không 101 100,0 13 26,0 
Tổng 101 100,0 50 100,0 
8 
Các chỉ số cơ bản về huyết học ở cả 2 nhóm đều nằm trong giới hạn bình 
thường, trừ chỉ số hemoglobin ở nhóm thai phụ bình thường thấp hơn bình 
thường và số lượng bạch cầu của nhóm thai phụ TSG cao hơn bình thường. 
Có sự khác biệt về số lượng hồng cầu, hematocrit, hemoglobin và số lượng 
bạch cầu giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tuy nhiên, trong nhóm 
thai phụ bình thường: 44/101 (43,6%) số lượng hồng cầu giảm; 63/101 
(62,4%) giảm hemoglobin và 40/101 (39,6%) giảm hematocrit; nhóm thai phụ 
TSG: 11/50 (22,0%) số lượng hồng cầu giảm; 19/50 (38,0%) giảm hemoglobin 
và 13/50 (26,0%) giảm hematocrit. 
3.1.4. Một số đặc điểm về hóa sinh máu cơ bản 
Bảng 3.4. Đặc điểm về hóa sinh máu của đối tượng nghiên cứu 
Nhóm thai phụ 
Chỉ số 
Bình thường X ± SD Tiền sản giật X ± SD p 
ALT (U/L) 18,8 ± 6,0 32,4 ± 19,8 <0,01 
AST (U/L) 17,6 ± 9,2 21,5 ± 14,7 0,131 
Ure (mmol/l) 2,9 ± 0,7 5,6 ± 2,9 <0,01 
Creatinin(umol/l) 49,3 ± 7,4 67,2 ± 20,1 <0,01 
Acid uric(umol/l) 238,7 ± 35,8 427,2 ± 130,2 <0,01 
Các chỉ số ALT, AST, ure, creatin của cả hai nhóm đều nằm trong giới hạn 
bình thường. Chỉ số acid uric ở nhóm thai phụ tiền sản giật tăng cao hơn bình 
thường. Có sự khác biệt về chỉ số ALT, ure, creatinin và acid uric giữa  ...  Độ là nước 
thuộc khu vực Châu Á. Điều này có thể giải thích theo các nguyên nhân sau: 
- Do sự khác biệt về khu vực địa lý, điều kiện về địa dư sẽ làm ảnh hưởng 
tới nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ. Nghiên 
cứu của Zhong XY và CS (2004) đã chứng minh điều kiện sống ở những độ 
cao khác nhau cũng ảnh hưởng tới sự có mặt của DNA phôi thai tự do, nghiên 
cứu được tiến hành ở 3 nhóm thai phụ bình thường ở các khu vực địa lý khác 
nhau: ở vùng biển, ở vùng đồng bằng thấp và vùng núi cao kết quả cho thấy 
nồng độ DNA tương ứng trong huyết tương thai phụ lần lượt tương ứng: 22,5 
copy/ml (dao động 5,5 – 87,5 copy/ml); 90 copy/ml (17,5 – 212,5 copy/ml) và 
76,5 copy/ml (5,57 – 1780 copy/ml). Những thai phụ sống ở vùng có độ cao 
thì nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ bình 
thường càng tăng và điều này được lý giải do thiếu oxy, đường kính động 
mạch tử cung sẽ nhỏ hơn và dòng máu động mạch tử cung sẽ thấp hơn. 
- Đồng thời có sự khác nhau về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, phần 
lớn phụ nữ mang thai ở Việt Nam đều có tình trạng thiếu máu, có lẽ nó cũng 
góp phần làm tăng nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai phụ. 
Nồng độ DNA phôi thai tự do trong nghiên cứu có xu hướng tăng dần theo 
tuổi thai tương ứng, kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Lo và CS 
(1998), Smid và CS (1997), Honda và CS (2002), Chan và CS (2003), Al 
Nakib M. và CS (2009), Eric Wang (2013). DNA phôi thai tự do xuất hiện 
trong huyết tương thai phụ từ 3 tháng đầu và nồng độ tăng cùng với tuổi thai 
(điều này có thể được giải thích bởi sự tăng diện tích của rau thai) và tăng đột 
ngột vào gần cuối thai kỳ, đặc biệt là sau tuần thai thứ 32 (đó có thể là kết quả 
của quá trình chuẩn bị sinh nở). Sự gia tăng nồng độ DNA phôi thai tự do có 
liên quan đến quá trình các tế bào rau thai chết theo chương trình, do stress 
oxy hóa tăng lên. Tuổi thai cũng là một yếu tố có thể ảnh hưởng đến nồng độ 
DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần hoàn thai phụ, nghiên cứu của Wang 
và CS (2013): nồng độ DNA phôi thai tự do tăng lên trong suốt thời kỳ mang 
thai với mức tăng ban đầu là 0,1% mỗi tuần từ tuần 10 đến 20, sau đó tăng lên 
1% mỗi tuần sau tuần 21 của thai kỳ. 
20 
4.3.2. Bàn về nồng độ của DNA phôi thai tự do trong huyết tương thai 
phụ tiền sản giật và sự thay đổi nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết 
tương thai phụ bình thường và thai phụ tiền sản giật 
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ DNA phôi thai tự do trung bình ở 
quý 2: 4882,79 copy/ml (khoảng dao động 1591,45 - 7677,00 copy/ml); quý 
3: 28701,26 copy/ml (khoảng dao động 5678,57 - 61666,14 copy/ml), nồng 
độ DNA có xu hướng tăng dần theo tuổi thai tương ứng và tăng cao ở những 
giai đoạn cuối của thai kỳ. Nồng độ DNA phôi thai tự do ở nhóm thai phụ 
TSG cao gấp 14 lần so với nhóm thai phụ bình thường có cùng tuổi thai tương 
ứng với p<0,01. Kỹ thuật Realtime PCR cho phép định lượng một cách chính 
xác nồng độ của DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần hoàn thai phụ, từ đó 
dự đoán tình trạng của thai nhi hay các biến chứng thai kỳ liên quan đến việc 
phát hiện sự khác biệt về nồng độ DNA phôi thai tự do của thai nhi đó so với 
thai bình thường. Nghiên cứu của các tác giả khác cũng đã cho thấy nồng độ 
DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần hoàn thai phụ tăng một cách có ý 
nghĩa trong TSG, thai lệch bội NST 21,... Kết quả của nghiên cứu tương tự 
như nghiên cứu của Lo và CS (1999), Smid và CS (2001), Swinkles và CS 
(2002), Zhong XY và CS (2004), Zong XY và CS (2005), Hahn S. và CS 
(2011), Seval MM. và CS (2015) đều cho thấy nồng độ DNA phôi thai tự do 
trong huyết tương thai phụ TSG đều tăng lên rất cao và tăng gấp từ 4 lần trở 
lên so với nhóm thai phụ bình thường có cùng tuổi thai tương ứng. 
Cơ chế của sự gia tăng nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần 
hoàn thai phụ do 2 khả năng là do tăng giải phóng DNA phôi thai tự do vào 
tuần hoàn thai phụ và/hoặc làm giảm lượng DNA lưu hành từ máu thai phụ. 
Các tác giả cho rằng có 2 nguyên nhân dẫn tới tăng nồng độ DNA phôi thai tự 
do lưu hành trong huyết tương thai phụ TSG liên quan đến mức độ suy giảm 
tưới máu trong rau thai và mức độ nghiêm trọng của tiền sản giật. Khi tăng 
đáng kể các động mạch xoắn ốc ở niêm mạc tử cung của thai phụ sẽ dẫn tới 
nhau thai thiếu máu cục bộ và tổn thương, đồng thời do quá trình chết theo 
chương trình do vậy làm gia tăng sự giải phóng DNA phôi thai vào tuần hoàn 
của thai phụ. Ở thai phụ bình thường, nồng độ DNA phôi thai tự do thấp bởi 
vì các tế bào chết theo chương trình được loại bỏ hiệu quả nhờ quá trình thực 
bào. DNA phôi thai tự do lưu thông trong tuần hoàn thai phụ có thời gian bán 
hủy t/2 ngắn và hầu hết DNA phôi thai tự do được loại bỏ bởi gan, một phần 
nhỏ do thận. 
Ở thai phụ TSG nồng độ của DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần hoàn 
thai phụ tăng cao có liên quan đến tổn thương rau thai. Sự tăng cao của nồng 
độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong tuần hoàn của những thai phụ TSG có 
21 
thể là tăng quá mức của các tế bào chết theo chương trình, do giảm hiệu quả 
của quá trình thực bào. Các tác giả thấy rằng khi tế bào rau thai bị thiếu oxy 
trong TSG sẽ làm tăng cơ chế chết theo chương trình và hoại tử tế bào rau thai 
thì sẽ làm biến đổi lượng DNA phôi thai tự do trong máu thai phụ trước khi 
có các triệu chứng về lâm sàng và sinh hóa, hay các dị tật của thai cũng sẽ làm 
biến đổi nồng độ DNA sớm từ giai đoạn đầu của thai kỳ. Có khả năng là nồng 
độ cao của DNA phôi thai tự do lưu thông trong tuần hoàn thai phụ như một 
tín hiệu nguy hiểm cho người mẹ do các tế bào của thai nhi đang chết dần, dẫn 
đến tình trạng viêm hoặc thai nhi tử vong. 
Ngoài ra, sự gia tăng nồng độ DNA phôi thai tự do còn liên quan đến vai 
trò của gan và thận. Ở thai phụ TSG có những thay đổi bệnh lý liên quan đến 
gan và thận, nhiều khả năng các quá trình này có thể làm giảm khả năng của 
các cơ quan này để loại bỏ DNA khỏi lưu thông. Theo nghiên cứu của Zhong 
XY. và CS (2001), Swinkles và CS (2002) nồng độ DNA phôi thai tự do tăng 
cao gấp 3,5 - 4 lần ở thai phụ TSG có hội chứng HELLP so với thai phụ TSG 
không kèm hội chứng HELLP và tăng gấp 10 lần so với nhóm chứng. Hội 
chứng HELLP là một biến thể nặng của TSG bao gồm các triệu chứng tan 
huyết - tăng men gan - giảm tiểu cầu, có đặc điểm là tổn thương mô lớn (hoại 
tử tế bào và tan máu), điều này ủng hộ giả thuyết cho rằng hoại tử tế bào có 
thể làm tăng nồng độ DNA phôi thai tự do trong tuần hoàn thai phụ TSG; đồng 
thời DNA phôi thai tự do trong tuần hoàn thai phụ tăng cao có liên quan đến 
mức độ nặng của bệnh. 
Năm 2004, Bianchi và CS phát hiện thấy nồng độ DNA phôi thai tự do 
trong các mẫu huyết thanh tăng lên một cách có ý nghĩa lần đầu tiên từ tuần 
thai thứ 17 và lần thứ hai vào thời điểm 3 tuần trước khi có triệu chứng lâm 
sàng của tiền sản giật. Tác giả đưa ra giả thuyết rằng: nồng độ DNA tăng lần 
đầu tiên là do sự hoại tử của rau thai hoặc các tế bào chết theo chương trình, 
còn nồng độ DNA tăng lần thứ hai là do các triệu chứng của tiền sản giật làm 
rối loạn các chức năng của mẹ kéo theo rối loạn sự bài tiết DNA phôi thai. 
Nghiên cứu tổng quan của Martin A và CS (2014) cho thấy ở 13 nghiên cứu 
thì 11 nghiên cứu đã chứng minh ở những thai phụ có nồng độ DNA phôi thai 
tự do tăng cao, thai phụ sau đó đã phát triển tiền sản giật, ngoài ra, kết quả của 
bốn nghiên cứu đã chứng minh thấy nồng độ DNA phôi thai tăng cao đáng kể 
trước khi khởi phát tiền sản giật. Vì vậy, định lượng DNA phôi thai tự do trong 
huyết tương thai phụ có giá trị dự báo sớm những thai phụ có nguy cơ tiến 
triển tiền sản giật. 
Trái ngược với các kết quả của nghiên cứu trên, trong năm 2007, Crowley 
và CS không có sự khác biệt về nồng độ của DNA phôi thai tự do lưu hành 
22 
trong tuần hoàn giữa nhóm thai phụ bình thường và thai phụ tiền sản giật khi 
tiến hành định lượng DNA phôi thai tự do với cặp mồi của gen SRY ở thời 
điểm trước 20 tuần. Kết quả này cũng tương tự như trong một số nghiên cứu 
của các tác giả khác. 
Như vậy, có sự khác biệt về kết quả của các nghiên cứu khi định lượng 
nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ, điều này 
có thể do sự khác nhau về tình trạng tuần hoàn rau thai, tuần thai, hay sử dụng 
các phương pháp chiết tách và định lượng DNA khác nhau, ... Nhưng phần 
lớn các nghiên cứu đều chứng minh rằng nồng độ DNA phôi thai tự do lưu 
hành trong tuần hoàn thai phụ tăng cao trước khi có các triệu chứng lâm sàng 
của TSG. Nồng độ của DNA phôi thai tự do tăng cao ở thai phụ TSG có liên 
quan đến tổn thương rau thai và nồng độ DNA phôi thai tự do tăng cao trước 
khi có các triệu chứng lâm sàng của TSG điều này chỉ ra rằng ở thai phụ TSG 
có tổn thương rau thai xảy ra trước khi có các triệu chứng lâm sàng của TSG, 
điều này ủng hộ giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của TSG được tin rằng phát 
triển qua 2 giai đoạn: (1) giảm tưới máu rau thai (được coi như nguyên nhân 
gốc rễ), (2) dẫn tới hội chứng đa hệ thống của mẹ. 
Về độ tin cậy của kết quả: chúng tôi sử dụng quy trình chiết tách DNA, 
lượng huyết tương ban đầu của thai phụ tiền sản giật dùng cho chiết tách DNA, 
lượng DNA phôi thai tự do sau chiết tách đã được sử dụng để khuếch đại và 
các quy trình khuếch đại của Realtime PCR để định lượng DNA phôi thai tự 
do sau chiết tách tương tự như quy trình của Lo và CS (1998) và của các tác 
giả trên, điều này đồng nghĩa với độ nhạy của Realtime PCR là tương đương 
nhau ở các nghiên cứu. Kết quả về nồng độ DNA phôi thai tự do trong huyết 
tương thai phụ tiền sản giật ở nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt so với 
các nghiên cứu khác, điều này có thể giải thích do sự khác nhau về đối tượng 
nghiên cứu: thai phụ tiền sản giật trong nghiên cứu của chúng tôi là người Việt 
Nam, theo kết quả nghiên cứu các tác giả khác cũng thấy rằng thai phụ ở các 
khu vực địa lý khác nhau, điều kiện về địa dư khác nhau, chế độ dinh dưỡng 
khác nhau, kích thước bánh rau khác nhau sẽ làm ảnh hưởng tới nồng độ DNA 
phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ. 
Ở thai phụ TSG: có mối liên quan tỷ lệ thuận giữa yếu tố tuổi thai, HATT, 
phù, protein niệu và acid uric với nồng độ DNA phôi thai tự do, mối liên quan 
có ý nghĩa thống kê với p<0,05, các triệu chứng này đều là hậu quả của stress 
oxy hóa và quá trình viêm trong tiền sản giật. Kết quả này hoàn toàn phù hợp 
với nghiên cứu Finning và CS (2002) và của các tác giả khác rằng nồng độ 
DNA phôi thai không chỉ phụ thuộc vào tuổi mẹ mà còn tăng dần theo tuổi 
thai và tăng cao lúc chuyển dạ đẻ. Nghiên cứu của Kim SY. và CS (2016) đã 
23 
chứng minh nồng độ DNA phôi thai tự do tăng trong huyết tương thai phụ có 
giá trị dự báo sớm rối loạn tăng huyết áp của thai kỳ. 
Hiện tượng tăng nồng độ DNA phôi thai tự do và các tế bào thai trong vòng 
tuần hoàn thai phụ ở các thai phụ TSG vẫn đang được các nhà khoa học tiếp 
tục nghiên cứu để ứng dụng chúng vào chẩn đoán. Tuy nhiên, phần lớn kết 
quả các nghiên cứu thấy rằng nồng độ DNA phôi thai tăng cao trước khi có 
các triệu chứng lâm sàng của TSG, vì vậy, những nghiên cứu này gợi ý khả 
năng ứng dụng kỹ thuật định lượng DNA phôi thai tự do để sàng lọc và phát 
hiện các thai phụ có nguy cơ bị TSG, ít nhất là đối với những trường hợp TSG 
nặng và ở giai đoạn sớm của bệnh. Chúng tôi chỉ mới ghi nhận được mối liên 
quan giữa các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của TSG với nồng độ 
DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ TSG, hạn chế trong 
nghiên cứu này là không theo dõi dọc theo từng cá nhân thai phụ về nồng độ 
DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương qua các quý của thai kỳ và 
theo dõi được sự thay đổi về nồng độ của DNA phôi thai tự do trước khi có 
các triệu chứng của TSG ở các thai phụ tiến triển thành TSG, theo Chan và CS 
(2003) nồng độ DNA phôi thai tự do thay đổi phải so sánh với giá trị của mỗi 
cá nhân ở mỗi lần định lượng. Chính sự khác biệt về nồng độ DNA phôi thai 
tự do này đòi hỏi chúng ta cần xây dựng giá trị tham chiếu về nồng độ DNA 
phôi thai tự do cho thai phụ Việt Nam bình thường qua các giai đoạn tuổi thai 
trong thai kỳ, từ đó theo dõi dọc trên từng bệnh nhân. Điều này rất có ý nghĩa 
trong việc đánh giá xét nghiệm này nhằm dự báo sớm, chẩn đoán và theo dõi 
tiền sản giật chính xác. 
KẾT LUẬN 
1. Đề tài đã hoàn chỉnh và xây dựng được đường chuẩn của kỹ thuật Realtime 
PCR để định lượng DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ. 
2. Đề tài đã định lượng nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết 
tương thai phụ. 
Nồng độ DNA trung bình ở nhóm thai phụ bình thường: Quý 1: 574,79 
copy/ml (dao động 60,55 - 1698,52 copy/ml); Quý 2: 1587,11 copy/ml (dao 
động 248,31 - 4838,92 copy/ml); Quý 3: 2196,62 copy/ml (dao động 742,98 - 
6397,98 copy/ml) và nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương 
thai phụ có xu hướng tăng dần theo tuổi thai tương ứng. 
Nồng độ DNA trung bình ở nhóm thai phụ tiền sản giật: Quý 2: 4882,79 
copy/ml (dao động 1591,45 - 7677,00 copy/ml); Quý 3: 28701,26 copy/ml 
(dao động 5678,57 - 61666,14 copy/ml). 
24 
Nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết tương thai phụ có xu 
hướng tăng dần theo tuổi thai và tăng cao gấp 14 lần so với nhóm thai phụ 
bình thường có cùng tuổi thai tương ứng với p<0,01. 
Ở thai phụ tiền sản giật: nồng độ DNA phôi thai tự do lưu hành trong huyết 
tương thai phụ tỷ lệ thuận với yếu tố tuổi thai, huyết áp thâm thu, phù, acid 
uric và protein niệu, mối liên quan này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
KIẾN NGHỊ 
 DNA phôi thai tự do là dấu ấn sinh học, định lượng được DNA phôi thai 
có giá trị dự báo sớm, chẩn đoán và theo dõi tiền sản giật bằng kỹ thuật không 
xâm lấn. Tuy nhiên, nghiên cứu với số mẫu còn ít cần những nghiên cứu với 
cỡ mẫu lớn hơn và theo dõi dọc theo từng bệnh nhân để có thể xác định được 
giá trị tham chiếu cho thai phụ Việt Nam và ứng dụng trong chẩn đoán trước 
sinh không xâm lấn giúp dự báo sớm tiền sản giật. Góp phần nâng cao chăm 
sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm 
thiểu chi phí bệnh tật cho xã hội. 
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI 
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN 
NGHIÊN CỨU DNA PHÔI THAI TỰ DO 
TRONG HUYẾT TƯƠNG THAI PHỤ 
BẰNG KỸ THUẬT REALTIME PCR 
NHẰM DỰ BÁO SỚM TIỀN SẢN GIẬT 
Chuyên ngành: Dị ứng và miễn dịch 
Mã số: 62720109 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC 
HÀ NỘI - 2018 
Công trình này được hoàn thành tại: 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI 
Người hướng dẫn khoa học: 
 1. PGS.TS. Nguyễn Thanh Thúy 
 2. PGS.TS. Nguyễn Đức Hinh 
Phản biện 1: 
Phản biện 2: 
Phản biện 3: 
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường 
Tổ chức tại Trường Đại học Y Hà Nội 
Vào hồi: ......... giờ ........ phút, ngày ...... tháng ...... năm ........ 
Có thể tìm hiểu luận án tại: 
1. Thư viện Quốc gia; 
2. Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_dna_phoi_thai_tu_do_trong_huyet_t.pdf
  • pdfTom tat luan an (tieng anh).pdf