Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, chỉ số đầu - Mặt ở một nhóm người Việt độ tuổi từ 18 - 25 có khớp cắn bình thường và khuôn mặt hài hoà
Xã hội đang ngày một phát triển, mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, vì thế một vẻ đẹp hoàn thiện đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của con người trong đó thẩm mỹ khuôn mặt là một thành tố quan trọng góp phần tạo nên vẻ đẹp hoàn thiện đó đồng thời cũng tạo nên những đặc điểm, tính cách riêng cho mỗi cá nhân, từ đó hình thành nên những nét đặc trưng riêng cho các chủng tộc khác nhau.
Để phân tích sự giống và khác nhau về hình thái khuôn mặt giữa các chủng tộc, có nhiều phương pháp đo đạc và phân tích. Trong đó, phân tích qua phim X-quang chụp theo kỹ thuật từ xa và ảnh chụp chuẩn hóa kỹ thuật số được sử dụng nhiều do tính khách quan cao, có thể phân tích được cả mô cứng và mô mềm, và dễ dàng lưu trữ thông tin. Đặc biệt, cùng với sự phát triển không ngừng của nền công nghệ số với các phần mềm đo đạc chuyên dụng có độ chính xác cao.
Trên thế giới, đã có nhiều tác giả khác nhau nghiên cứu về vấn đề này như: Steiner, Downs, Ricketts, Tweed., và đưa ra các chỉ số được các bác sĩ chỉnh nha và phẫu thuật tạo hình sử dụng để lập kế hoạch và điều trị. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây thường tập trung trên người Caucasian và do vậy các kết quả đưa ra thường là để áp dụng cho người Caucasian.
Ở Việt Nam, cũng đã có một số tác giả nghiên cứu như Hoàng Tử Hùng, Lê Gia Vinh, Đỗ Thị Thu Loan, Võ Trương Như Ngọc được tiến hành trên các nhóm cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào đại diện cho một nhóm đối tượng chuẩn người Việt lứa tuổi trưởng thành có khuôn mặt hài hòa và khớp cắn bình thường, để có thể xác định được các chỉ số đầu-mặt và làm tiêu chuẩn cho người Việt.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, chỉ số đầu - Mặt ở một nhóm người Việt độ tuổi từ 18 - 25 có khớp cắn bình thường và khuôn mặt hài hoà
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI - d&c - TRẦN TUẤN ANH NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, CHỈ SỐ ĐẦU-MẶT Ở MỘT NHÓM NGƯỜI VIỆT ĐỘ TUỔI TỪ 18-25 CÓ KHỚP CẮN BÌNH THƯỜNG VÀ KHUÔN MẶT HÀI HOÀ Chuyên ngành : Răng hàm mặt Mã số : 62720601 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC HÀ NỘI - 2017 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Phương 2. GS.TS. Lê Gia Vinh Phản biện 1: PGS.TS. Ngô Văn Thắng Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Huy Phản biện 3: GS.TS. Trịnh Đình Hải Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Y Hà Nội. Vào hồi 8 giờ 30 ngày 23 tháng 05 năm 2017 Có thể tìm hiểu luận án tại - Thư viện Quốc gia - Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Trần Tuấn Anh, Nguyễn Thị Thu Phương, Võ Trương Như Ngọc (2014). Nhận xét mối tương quan xương-răng trên phim sọ nghiêng từ xa ở một nhóm sinh viên người Việt tuổi từ 18-25 có khớp cắn bình thường. Tạp chí Y Học Việt Nam, Số CĐ – tập 466, 75-81. Trần Tuấn Anh, Nguyễn Thị Thu Phương, Võ Trương Như Ngọc (2014). Mối liên quan giữa tình trạng lệch lạc khớp cắn với hình dạng khuôn mặt ở một nhóm người Việt độ tuổi từ 18-25. Tạp chí Y Học Thực Hành, Số 11(941), 115-119. Trần Tuấn Anh, Nguyễn Thị Thu Phương, Võ Trương Như Ngọc và cộng sự (2016). Nghiên cứu một số chỉ số, số đo, kích thước đầu mặt trên phim sọ nghiêng từ xa ở một nhóm sinh viên người Việt tuổi từ 18-25 có khớp cắn bình thường. Tạp chí Y Học Việt Nam, Số CĐ – tập 466, 56-62. Trần Tuấn Anh, Nguyễn Phan Hồng Ân, Võ Trương Như Ngọc (2016). Đặc điểm hình dạng khuôn mặt trên một nhóm sinh viên người Việt tuổi từ 18-25 có khớp cắn bình thường và khuôn mặt hài hòa trên ảnh chuẩn hóa kỹ thuật số. Tạp chí Y Học Việt Nam, Số CĐ – tập 466, 68-74. Tran Tuan Anh, Nguyen Thi Thu Phuong, Vo Truong Nhu Ngoc (2016). Cephalometric norms for the Vietnamese population. Journal Asian Pacific Orthodontic Society, Vol. 6 -Issue 4, 200-204. Tran Tuan Anh, Truong Manh Dung, Nguyen Thi Thu Phuong (2016). The Study of Some Anteroposterior Cranial Indicators on Cephalometric in a Vietnamese group Age 18-25 with Normal Occlusion. European Journal of Medicine, Vol(11)- Issue, 134-39. ĐẶT VẤN ĐỀ Xã hội đang ngày một phát triển, mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, vì thế một vẻ đẹp hoàn thiện đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của con người trong đó thẩm mỹ khuôn mặt là một thành tố quan trọng góp phần tạo nên vẻ đẹp hoàn thiện đó đồng thời cũng tạo nên những đặc điểm, tính cách riêng cho mỗi cá nhân, từ đó hình thành nên những nét đặc trưng riêng cho các chủng tộc khác nhau. Để phân tích sự giống và khác nhau về hình thái khuôn mặt giữa các chủng tộc, có nhiều phương pháp đo đạc và phân tích. Trong đó, phân tích qua phim X-quang chụp theo kỹ thuật từ xa và ảnh chụp chuẩn hóa kỹ thuật số được sử dụng nhiều do tính khách quan cao, có thể phân tích được cả mô cứng và mô mềm, và dễ dàng lưu trữ thông tin. Đặc biệt, cùng với sự phát triển không ngừng của nền công nghệ số với các phần mềm đo đạc chuyên dụng có độ chính xác cao. Trên thế giới, đã có nhiều tác giả khác nhau nghiên cứu về vấn đề này như: Steiner, Downs, Ricketts, Tweed..., và đưa ra các chỉ số được các bác sĩ chỉnh nha và phẫu thuật tạo hình sử dụng để lập kế hoạch và điều trị. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây thường tập trung trên người Caucasian và do vậy các kết quả đưa ra thường là để áp dụng cho người Caucasian. Ở Việt Nam, cũng đã có một số tác giả nghiên cứu như Hoàng Tử Hùng, Lê Gia Vinh, Đỗ Thị Thu Loan, Võ Trương Như Ngọc được tiến hành trên các nhóm cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào đại diện cho một nhóm đối tượng chuẩn người Việt lứa tuổi trưởng thành có khuôn mặt hài hòa và khớp cắn bình thường, để có thể xác định được các chỉ số đầu-mặt và làm tiêu chuẩn cho người Việt. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần phải có các nghiên cứu rộng hơn về chỉ số sọ mặt và tiến hành trên một nhóm đối tượng phù hợp với quan điểm thẩm mỹ khuôn mặt của người trưởng thành Việt Nam. Và cũng chính vì lý do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, chỉ số đầu-mặt ở một nhóm người Việt độ tuổi từ 18-25 có khớp cắn bình thường và khuôn mặt hài hòa” với 2 mục tiêu sau: 1. Mô tả một số đặc điểm hình thái đầu-mặt của một nhóm người Việt độ tuổi từ 18-25 có khớp cắn bình thường và khuôn mặt hài hòa trên phim sọ thẳng từ xa và ảnh chuẩn hóa thẳng. 2. Xác định một số chỉ số đầu-mặt của một nhóm người Việt độ tuổi từ 18-25 có khớp cắn bình thường và khuôn mặt hài hòa trên phim sọ nghiêng từ xa và ảnh chuẩn hóa nghiêng. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Đề tài nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang trên 100 đối tượng được chọn lựa từ 4625 người có độ tuổi từ 18-25 tuổi có khớp cắn bình thường và khuôn mặt hài hòa hay nói cách khác là đối tượng tiêu chuẩn. Bằng các phương pháp đo đạc trên phim sọ mặt từ xa kỹ thuật số và ảnh chuẩn hóa kết hợp với hệ thống phần mềm chuyên dụng để phân tích, đề tài đã đưa ra được một số kết quả sau: Mô tả được một số đặc điểm, hình thái đầu - mặt và đã xác định được một số kích thước, số đo, chỉ số đầu - mặt của một nhóm người Việt tiêu chuẩn trên phim sọ nghiêng, sọ thẳng từ xa và ảnh chuẩn hóa, từ đó nêu bật được các điểm tương đồng và khác nhau của người Việt trưởng thành với một số dân tộc khác trên thế giới trong cùng độ tuổi. Số liệu thu được có giá trị đóng góp cho chuyên ngành để xây dựng nên các chỉ số vùng đầu mặt tiêu chuẩn cho người Việt Nam giúp chúng ta ứng dụng trong các lĩnh vực y học như: ngành răng hàm mặt, ngoại khoa, phẫu thuật tạo hình hàm mặt, phẫu thuật thẩm mỹ mà còn trong các lĩnh vực khác như: làm tiêu chuẩn sàng lọc cho các cuộc thi người đẹp, chế tạo đồ bảo hộ lao động, nhận dạng hình sự, hội họa, điêu khắc của riêng người Việt Nam. Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. Khái niệm về khớp cắn Khớp cắn là danh từ được dùng để chỉ sự tiếp xúc giữa bề mặt các răng của hàm trên và các răng của hàm dưới khi thực hiện các chức năng sinh lý như ngậm, cắn hay không sinh lý như nghiến răng. 1.1.1. Khớp cắn lý tưởng Khớp cắn lý tưởng là khớp cắn có tương quan răng-răng đúng theo mô tả lý thuyết, có quan hệ giải phẫu và chức năng hài hòa với những cấu trúc khác của hệ thống nhai trong tình trạng lý tưởng. Trước đây, khớp cắn thường được gọi là lý tưởng khi về giải phẫu, nó có tương quan răng-răng, múi trũng đúng theo mô tả lý tưởng. Nhưng như vậy, mới chỉ dựa trên những quan niệm định hướng theo răng mà không quan tâm đến các thành phần khác của hệ thống nhai. Về mặt thực hành lâm sàng, khớp cắn lý tưởng là mục tiêu mong muốn đạt đến, không tính đến khả năng điều trị thực tế. 1.1.2. Quan niệm khớp cắn bình thường của Andrew. Theo quan niệm của Andrews: khớp cắn bình thường là khớp cắn có các răng tiếp xúc với nhau ở cả mặt gần và mặt xa, ngoại trừ răng khôn. Trục ngoài trong của răng hàm trên: các răng sau hơi nghiêng về phía ngoài, hàm dưới các răng hơi nghiêng về phía trong. Trục gần xa của răng: hàm trên các răng trước nghiêng gần và các răng sau nghiêng xa, hàm dưới: các răng trước và sau đều nghiêng gần. Độ cắn chìa bình thường là 2-3mm, độ cắn phủ là bình thường là 1-2mm. Đường cong Spee không sâu quá 1,5mm. Khi hai hàm cắn lại với nhau, mỗi răng trên hai hàm sẽ khớp với hai răng ở hàm đối diện. 1.1.3. Khớp cắn bình thường theo Angle Theo Angle, khớp cắn bình thường là khớp cắn có múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn hàm trên khớp với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới, và các răng trên cung hàm sắp xếp theo một đường cắn khớp đều đặn. 1.2. Các phương pháp phân tích kết cấu sọ-mặt Những thay đổi của hệ thống xương – răng – mô mềm vùng hàm mặt khá phức tạp. Dạng tăng trưởng khuôn mặt của mỗi cá nhân ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền riêng biệt cũng như yếu tố môi trường bên ngoài. Đó chính là lý do càng làm thêm đa dạng hình thái hệ thống sọ mặt răng sau tuổi dậy thì. Mẫu tăng trưởng của các chủng tộc và dân tộc thường có khuynh hướng khác nhau. 1.2.1. Đo trực tiếp trên lâm sàng Phương pháp đánh giá qua đo trực tiếp trên khuôn mặt cho ta biết chính xác kích thước thật, các chỉ số trung thực hơn. Tuy nhiên phương pháp này mất nhiều thời gian và cần có nhiều kinh nghiệm để xác định các điểm chuẩn chính xác trên mô mềm. 1.2.2. Đo trên ảnh chụp Phân tích trên ảnh chụp được thực hiện trên ảnh chụp tư thế thẳng và nghiêng. Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau với ưu điểm: rẻ tiền và có thể giúp đánh giá tốt hơn về tương quan của các cấu trúc ngoài sọ gồm cơ và mô mềm.. Qua ảnh, có thể đánh giá định tính đẹp hay không đẹp, từ đó chúng ta có thể yêu cầu một phương pháp khoa học để đánh giá định lượng. 1.2.3. Đo trên phim X-quang Ưu điểm vượt trội của đo trên phim sọ-mặt là đánh giá được mô xương bên dưới và mối tương quan giữa mô cứng và mô mềm, vấn đề đánh giá mô mềm hạn chế hơn. Khi đánh giá thẩm mỹ, các tác giả thường sử dụng các góc mô mềm và các đường thẩm mỹ như đường S và E, góc H và góc Z. 1.4. Các quan niệm về thẩm mỹ khuôn mặt 1.4.1. Định nghĩa thẩm mỹ khuôn mặt Thuật ngữ thẩm mỹ lần đầu tiên được Baumgarten sử dụng để chỉ khoa học của cảm giác mà nghệ thuật tạo ra cho chúng ta. Từ đó, thuật ngữ thẩm mỹ đã trải qua một chặng đường phát triển rất dài từ Platon đến Aristote, Hegel... Mỗi một triết gia có một định nghĩa khác nhau về thẩm mỹ, nhưng nhìn chung đều thống nhất để có được thẩm mỹ thì cần phải có sự cân xứng và hài hoà. Theo Hegel, sự đều đặn, hài hoà và trật tự là các đặc tính của thẩm mỹ. 1.4.2. Quan niệm thẩm mỹ trên thế giới theo chuyên ngành 1.4.2.1. Quan niệm của chỉnh hình Angle là người đặt nền móng cho ngành chỉnh hình. Angle luôn nghĩ rằng nếu khớp cắn đúng thì thẩm mỹ mặt là bình thường, ông cũng đã mô tả nhiều trường hợp có những bất thường nhỏ về khớp cắn thì mặt có bất thường đáng kể Steiner đưa ra đường S để đánh giá thẩm mỹ của mô mềm mặt. Theo Ricketts, đánh giá một khuôn mặt cần phân tích trong ba chiều không gian. Ông cho rằng không có một con số tuyệt đối lý tưởng mà các mối tương quan bình thường nằm trong một khoảng rộng. Khi phân tích mặt nghiêng, ông đưa ra khái niệm về đường thẩm mỹ E. 1.4.2.2. Quan niệm của nhà phẫu thuật Các nhà phẫu thuật thường dùng những số liệu bình thường có sẵn và phẫu thuật để làm phù hợp với những giá trị sẵn có này. Do đó, có thể có những sai lầm nếu áp dụng các số liệu chuẩn không phù hợp từ những phân tích trước đó vào các dân tộc khác nhau. 1.4.2.3. Quan niệm của hoạ sĩ và nhà điêu khắc Fra Paccioli di Borgio đã xuất bản một cuốn sách viết về các tỷ lệ thẩm mỹ, trong đó ông đã nhấn mạnh đến “tỷ lệ vàng” để phân chia và đánh giá khuôn mặt đẹp. Đó là một tỷ lệ vô tỷ: tỷ lệ giữa phần lớn nhất và phần nhỏ nhất của 2 phần cũng bằng tỷ lệ của cả 2 phần đó với phần lớn nhất, (a+b)/b = b/a. Qui luật này chỉ có thể đạt được khi đoạn nhỏ nhất bằng 0,618 và đoạn lớn là 1, cả đoạn là 1,618. 1.5. Tình hình nghiên cứu về thẩm mỹ khuôn mặt và phim sọ - mặt chụp theo kỹ thuật từ xa trên thế giới và ở Việt Nam 1.5.1. Các nghiên cứu về thẩm mỹ khuôn mặt trên thế giới Năm 2002, Farkas L.G., Le T.T. và cộng sự dùng các chuẩn tỷ lệ mặt tân cổ điển để đánh giá khuôn mặt của người Mỹ gốc Á và Âu. Kết quả cho thấy sự không phù hợp với tiêu chuẩn tân cổ điển của người gốc châu Á là cao hơn người gốc Mỹ một cách có ý nghĩa. Các đặc điểm nổi bật của khuôn mặt người Á là khoảng gian mép mí trong rộng hơn trong khi khe mí ngắn hơn; phần mềm mũi rộng hơn trong bối cảnh mặt rộng, chiều rộng miệng nhỏ hơn và chiều cao mặt dưới nhỏ hơn so với chiều cao trán. Năm 2004, Bisson Marcus dùng phương pháp phân tích trên ảnh để đánh giá kích thước và sự cân xứng của môi ở một nhóm người mẫu và người bình thường. Năm 2004, Jain SK, Anand C và Ghosh SK với nghiên cứu “Phân tích khuôn mặt qua ảnh” dùng chuẩn tân cổ điển như là phương pháp so sánh cho thấy, kích thước tầng mặt dưới của nhóm đối tượng nghiên cứu lớn hơn so với tầng mặt giữa. 1.5.2. Tại Việt Nam Năm 1995, Hoàng Tử Hùng nghiên cứu các chỉ số sọ-mặt trên 10 đối tượng độ tuổi 21-25 nhận xét độ nhô của răng cửa người Việt lớn hơn so với người châu Âu. Năm 1999, Hà Hồng Diệp nghiên cứu trên phim sọ-mặt nghiêng ở 60 sinh viên người Việt lứa tuổi 18-25, thấy rằng hầu hết không có sự khác biệt giữa nam và nữ về các chỉ số răng mặt, khác biệt chủ yếu với người phương Tây ở mối tương quan giữa răng và xương, giữa răng và răng, vị trí môi trên và môi dưới của đối tượng nghiên cứu vượt ra khỏi đường thẩm mỹ E, góc liên răng cửa nhỏ hơn. Năm 1999, Hồ Thị Thuỳ Trang nghiên cứu trên 62 sinh viên qua các ảnh chụp, tuổi từ 18-25, kết quả cho thấy tầng trên ở phần mũi bẹt, mũi và sống mũi trên nhóm người Việt thấp hơn, đỉnh mũi tù hơn; phần trán nhô ra trước hơn đặc biệt ở nữ. Tầng dưới mặt nhô nhiều ra trước, hai môi trên và dưới đều nhô ra trước, môi dưới nằm trước đường thẩm mỹ và môi trên gần chạm đường thẩm mỹ. Môi dưới dày hơn và chiều cao của cằm ngắn tương đối so với tầng mặt dưới, cằm lùi hơn đặc biệt ở nữ.. Đỗ Thị Thu Loan, Mai Đình Hưng (2008) cho rằng đánh giá khuôn mặt đẹp và khớp cắn chuẩn cần nhiều yếu tố, trong đó tương quan chiều trước sau là một yếu tố quan trọng, tác giả đưa ra số liệu chuẩn cho nhóm tuổi 18 – 19 và nhận xét người Việt Nam có răng và xương ổ răng nhô ra trước. Võ Trương Như Ngọc (2010) tiến hành nghiên cứu 143 sinh viên để xác định các kích thước và chỉ số sọ-mặt trung bình bằng 3 phương pháp nghiên cứu nhân trắc: đo trực tiếp, đo trên ảnh chuẩn hóa thẳng, nghiêng và đo trên phim sọ mặt thẳng, nghiêng từ xa kỹ thuật số. Nguyễn Thị Thu Phương và cộng sự (2013) nghiên cứu tiến hành trên sinh viên có khớp cắn Angle I cho rằng nhóm nghiên cứu có môi trên nhô hơn và dày hơn, độ nhô môi dưới cũng lớn hơn người Châu Âu. Góc mũi–môi và góc hai môi nhỏ hơn giá trị chuẩn của người da trắng, mũi của nam giới cao hơn nữ giới, môi trên dày hơn. Ngoài ra cũng có một số nghiên cứu khác nữa trên phim sọ-mặt nghiêng từ xa thường qui nhưng chủ yếu là nghiên cứu trên mô cứng để xác định các giá trị trung bình, chưa nghiên cứu nhiều đến mô mềm và khuôn mặt hài hòa, chưa có nghiên cứu nào thực hiện trên phim sọ-mặt từ xa kỹ thuật số. Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu từ tháng 05/2014 đến 05/2016 - Địa điểm nghiên cứu: Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt - Trường Đại học Y Hà Nội. 2.2. Đối tượng nghiên cứu - Người Việt độ tuổi từ 18 – 25 học tập tại Trường Đại học Y Hà Nội. Tiêu chuẩn chọn: * Tiêu chuẩn chung: Độ tuổi từ 18 tuổi đến 25 tuổi, có đủ răng vĩnh viễn ít nhất 28 răng, hình thể răng bình thường không có dị dạng và có bố mẹ, ông bà nội ngoại là người Việt. Hợp tác nghiên cứu. * Tiêu chuẩn ngoài mặt: Cân đối 3 tầng mặt thẳng, mặt trông nghiêng phẳng và có khuôn mặt hài hòa. * Tiêu chu ... 29,21 2,38 0,030 pn-n-sn 19,61 2,51 19,89 2,74 0,595 sn-pn-n 103,78 4,02 101,22 4,81 0,005 li-B-pg 133,39 7,56 135,01 7,93 0,298 gl-n-pn 133,63 3,79 135,96 4,24 0,005 gl-sn-pg 168,70 2,78 170,57 3,17 0,002 n-sn-pg 160,71 4,03 163,64 4,06 0,000 n-pn-pg 135,32 5,03 137,50 3,97 0,019 Tất cả các góc đo trên ảnh chuẩn hóa nghiêng ở nữ đều cao hơn ở nam. Trong đó, 7/10 góc có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ (p<0,05). Bảng 3.11: Các chỉ số mặt, mũi và hàm dưới đo trên ảnh chụp chuẩn hóa (N=100) Chỉ số Nam Nữ p (t-test) SD SD CS mặt toàn bộ 79,25 4,37 78,84 4,38 0,635 CS mũi 85,41 10,95 83,25 14,20 0,397 CS HD 86,26 1,55 86,03 3,09 0,637 Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các chỉ số mặt toàn bộ, chỉ số mũi và chỉ số hàm dưới của nam cao hơn của nữ (p>0,05, t-test). Bảng 3.16: Giá trị trung bình một số góc của mô cứng trên phim sọ nghiêng Các góc (độ) Nam Nữ p (t-test) ± SD ± SD SNA 83,88±2,36 83,54±2,37 0,473 SNB 80,72±3,15 80,36±3,23 0,574 ANB 3,16±0,82 3,18±0,96 0,918 NSnPg 161,47±4,15 164,16±3,89 0,003 F/N-Pg 89,45±4,24 90,57±3,48 0,152 FMIA 58,06±7,17 59,56±6,64 0,283 i/MP 98,68±6,87 98,13±6,06 0,671 I/PAL 122,68±5,87 122,35±6,08 0,783 U1/L1 120,80±8,42 120,73±8,30 0,966 Đa số các góc của mô cứng trên phim sọ nghiêng là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ (p>0,05, t-test), chỉ trừ duy nhất góc NSnPg (p<0,05) Bảng 3.17: Giá trị trung bình một số tỷ lệ của mô cứng trên phim sọ nghiêng Tỷ lệ Nam Nữ Chung p (t-test) ± SD ± SD ± SD Gl-ANS/ANS-Me 0,98±0,03 0,97±0,02 0,97±0,03 0,120 N-ANS/N-Me 0,48±0,02 0,48±0,03 0,48±0,03 0,329 Giá trị trung bình của tỷ lệ Gl-ANS/ANS-Me, N-ANS/N-Me lần lượt là 0,97±0,03, 0,48±0,03. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ (p>0,05) Bảng 3.18: Giá trị trung bình một số góc mô mềm và khoảng cách từ môi đến các đường thẩm mỹ trên phim sọ nghiêng (N=100) Các góc (độ) Nam Nữ p (t-test) ± SD ± SD Sn-Ls/Li-Pg’0 139,87±8,76 140,91±7,36 0,521 Pn-N’-Pg’0 27,44±2,20 25,77±2,22 0,000 Sn-Pn-N’0 101,25±4,49 104,95±5,03 0,000 Li-B’-Pg’0 133,43±9,34 134,87±8,49 0,422 Cm-Sn-Ls0 90,48±6,29 94,55±6,18 0,002 Pn-N’-Sn0 19,61±2,51 19,89±2,74 0,601 N’-Sn-Pg’0 161,14±4,53 164,38±4,54 0,001 N’-Pn-Pg’0 136,10±4,9 138,20±3,84 0,019 Góc Z0 75,85±4,7 77,33±4,41 0,109 Li-S (mm) 3,25±2,12 3,06±2,05 0,655 Ls-S (mm) 2,43±1,70 2,14±1,47 0,372 Li-E (mm) 2,08±2,26 1,98±1,93 0,813 Ls-E (mm) 0,23±2,04 0,15±2,00 0,841 Hầu hết các góc mô mềm ở nữ cao hơn ở nam, có 5/9 góc là có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p0,05). Bảng 3.22: Các phương trình hồi qui của các biến khoảng cách và góc Kích thước y : đo trên phim XQ, x: đo trên ảnh Phương trình p (t-test) r r2 N-Gn y= 1,08*x – 10,08 0,000 0,8767 76,86% N-Sn y= 0,89*x + 7,55 0,000 0,8663 75,05% Sn-Gn y= 1,07*x – 7,98 0,000 0,8771 76,93% Gl-Sn y= 1,03*x – 5,68 0,000 0,890 79,21% Li-E y= 1,00*x + 0,02 0,000 0,8451 71,42% Li-S y= 0,97*x + 0,03 0,000 0,7929 62,87% Ls-E y= 0,90*x + 0,09 0,000 0,7509 56,39% Ls-S y= 0,77*x + 0,38 0,000 0,7472 55,83% Gl-Sn-Pg y= 0,86*x + 22,51 0,000 0,7630 58,22% Li-B-Pg y= 1,15*x – 19,44 0,000 0,7920 62,73% Pn-N-Pg y= 0,82*x + 5,73 0,000 0,7344 53,93% N-Sn-Pg y= 1,12*x – 18,57 0,000 0,8283 68,61% Pn-N-Sn y= 1,14*x – 2,08 0,000 0,8135 66,18% Sn-Pn-N y= 1,14*x – 14,24 0,000 0,7472 55,83% N-Pn-Pg y= 0,97*x + 4,77 0,000 0,8679 75,33% Khi dùng các kết quả về khoảng cách và góc đo trên ảnh để dự đoán giá trị trên phim sọ mặt, các phương trình dự báo đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với r hiệu chỉnh ở mức cao (trên 0,7). Chương 4 BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 4.1.1. Tỷ lệ giới tính Trong nghiên cứu, do lựa chọn có chủ đích nên tỉ lệ nam giới và tỷ lệ nữ giới tương đương nhau (đều chiếm 50%), đảm bảo độ chính xác và mặt tin cậy về mặt thống kê khi so sánh các chỉ số giữa 2 giới. Mặt khác, tất cả đối tượng này đều cùng một lứa tuổi từ 18-25 tuổi và có môi trường sống và học tập gần giống nhau phù hợp với yêu cầu nghiên cứu nhân trắc học và có thể đại diện cho người trưởng thành vì các nghiên cứu đều cho rằng phức hợp sọ mặt đều trưởng thành trước 16 tuổi. 4.2. Một số đặc điểm hình thái đầu-mặt trên phim sọ thẳng từ xa và ảnh chuẩn hóa thẳng. Kết quả biểu đồ 3.1. cho thấy nhóm đối tượng chủ yếu có khuôn mặt hình ovan chiếm tỷ lệ là 65%, tiếp đến là khuôn mặt hình vuông (23%), và khuôn mặt hình tam giác (12%). So sánh kết quả của chúng tôi với một số tác giả khác trên thế giới và trong nước, theo tác giả Ibrahimagie và V. Jerolimov đã nghiên cứu trên hơn 1000 người Zenica, Bosnia và Herzegovina ở độ tuổi 17-24, kết quả: 83% khuôn mặt có hình ovan, 10% khuôn mặt có hình vuông, và 9% khuôn mặt có hình tam giác. Một nghiên cứu ở Việt Nam đo đạc trên 142 sinh viên cho kết quả hình khuôn mặt ovan chiếm 65,7%, hình vuông là 24% và hình tam giác là 10,3%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi và với phân loại mặt xét theo chỉ số mặt toàn bộ, chỉ số mặt càng nhỏ thì mặt càng ngắn và càng rộng. Giá trị trung bình ft-ft, zy-zy và go-go trong nghiên cứu lần lượt là 140,67±6,18mm, 125,53±5,97mm, 145,77±6,78mm. Khi so sánh kết quả nghiên cứu với một số tác giả trong nước, chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt nhiều về các chỉ số này. Tuy nhiên, khi so sánh với các tác giả khác trên thế giới, kết quả cho thấy chiều rộng giữa hai xương thái dương và hai xương hàm dưới lớn hơn rõ rệt so với người Thổ Nhĩ Kì và người Zenica, Bosnia và Herzegovina và Latvian, ngược lại chiều rộng giữa hai xương gò má lại nhỏ hơn rõ rệt, như vậy chỉ số khuôn mặt có sự khác nhau giữa các chủng tộc. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các kích thước của nam đều lớn hơn nữ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (bảng 3.1 và 3.2). Kết quả này hoàn toàn tương tự với các tác giả khác ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam Bảng 3.6 cho thấy phần lớn kích thước chiều rộng của mặt đo được ở nam thường lớn hơn ở nữ với p<0,05. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của Võ Trương Như Ngọc. Khi so sánh sự cân xứng giữa các chỉ số sọ mặt bên phải và bên trái ở cả nam và nữ trên phim sọ mặt thẳng từ xa (bảng 3.7), kết quả đều cho thấy có sự khác biệt về giá trị trung bình giữa bên phải và bên trái cả ở nam và nữ (p<0,05), các kích thước bên trái đều lớn hơn bên. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu của các tác giả khác. Khi tiến hành so sánh hai phương pháp đo đạc qua chụp ảnh chuẩn hóa thẳng và sọ mặt thẳng từ xa, kết quả cho thấy các chỉ số đo trên ảnh lớn hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với đo trên phim sọ mặt thẳng (p<0,05, t-test). Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu mối tương quan giữa hai phép đo qua hệ số tương quan Pearson, kết quả chỉ ra hệ số tương quan giữa hai phương pháp đo đều ở mức thấp (trung bình hoặc yếu với r<0,5). Do vậy, chúng tôi không thể tiến hành lập phương trình hồi qui tuyến tính dự báo mối liên quan giữa hai phương pháp đo đạc trên ảnh thẳng và sọ mặt thẳng. 4.3. Một số chỉ số đầu-mặt trên ảnh chuẩn hóa nghiêng KTS và phim sọ nghiêng từ xa. Khoảng cách trung bình từ môi đến các đường thẩm mỹ S hay E ở nam giới thường lớn hơn ở nữ giới, chỉ trừ kích thước Li-E (bảng 3.9). Tuy nhiên, sự khác biệt này không nhiều, được thể hiện qua giá trị p>0,05, t-test. Kết quả ở bảng 3.10 cho thấy, hầu hết các góc đo trên ảnh chuẩn hóa nghiêng ở nữ đều cao hơn ở nam, với sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Nhận xét của chúng tôi cũng giống với các tác giả trong nước khác cũng nghiên cứu trên ảnh chụp chuẩn hóa nghiêng. Khi đo trên ảnh chụp chuẩn hóa, các giá trị của chỉ số mặt toàn bộ, chỉ số mũi hay chỉ số hàm dưới đều không có sự khác biệt giữa nam và nữ (bảng 3.11). Tuy nhiên, khi tìm hiểu sự phân loại theo Martin của các chỉ số này giữa nam và nữ, kết quả cho thấy có sự khác biệt về phân loại chỉ số mũi và hàm dưới giữa hai giới.. Kết quả này có sự khác biệt đáng kể, so với nghiên cứu của tác giả Võ Trương Như Ngọc (2010) tiến hành trên 143 sinh viên. Tuy nhiên, như đã lý giải đó có thể do sự khác biệt về tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng giữa hai nghiên cứu là khác nhau. Góc SNA và SNB, ANB trong giới hạn cao của giá trị trung bình so với người châu Âu, chứng tỏ người Việt không vẩu. Nhận xét của chúng tôi cũng giống với một số tác giả khác khi nghiên cứu trên phim sọ mặt nghiêng từ xa thường qui. So sánh với các nghiên cứu trong nước hầu như không có sự khác biệt. Tuy nhiên, so sánh với của chủng tộc người Châu Á khác như Nhật, Hàn Quốc và Ấn Độ, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hầu hết cả chỉ số mô cứng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này càng khẳng định cần có chỉ số đại diện cho mỗi nước và không nên áp dụng một cách áp đặt này theo nhiều nghiên cứu. Kết quả này tương đồng với một vài nghiên cứu khác. Bảng 4.3. So sánh các chỉ số của nghiên cứu với các nhóm người Việt Nam (N=100) Nhật Bản Hàn Quốc Ấn Độ GTTB p* GTTB p* GTTB p* SNA (°) 83,7±2,4 81,3 <0,001 81,2 <0,001 84,1 >0,05 SNB (°) 80,5±3,2 76,8 <0,001 78,7 <0,001 81,9 <0,001 ANB (°) 3,2±0,9 4,5 <0,001 2,5 <0,001 2,3 <0,001 Bảng 3.18 cho thấy giá trị trung bình góc môi cằm Li-B’-Pg ở nam là 133,43, ở nữ là 134,87, so với nghiên cứu của Scheiderman (nam 1220, nữ 1280), góc môi cằm ở nam và nữ của chúng tôi lớn hơn. Như vậy rõ ràng điểm B’ ở đối tượng trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi ít lõm hơn, hay nói cách khác cằm của đối tượng trong mẫu chúng tôi ít nhô ra trước hơn so với người châu Âu . Kết quả nghiên cứu cho thấy Chỉ số phần mềm môi trên, độ nhô môi trên và độ dày môi trên có giá trị khác biệt so với nghiên cứu của người Châu Âu của Holdaway (1983) (bảng 3.18). Nhóm sinh viên Việt Nam có độ nhô môi trên và độ dày môi trên lớn hơn chủng tộc da trắng. Các chỉ số khoảng cách mô mềm trên phim sọ nghiêng của nhóm đối tượng nghiên cứu có sự khác biệt rõ rệt với nghiên cứu trên người I rắc và Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu lại có nhiều điểm tương đồng với nghiên cứu trên người Nhật của Alcade R.E năm 2000 . Giá trị độ dày môi trên nhỏ hơn 3 nhóm người Châu Á chủng tộc khác, trong đó có sự khác biệt có ý nghĩa với nhóm người I rắc và người Nhật. Độ nhô mũi của nhóm sinh viên Việt Nam nhỏ hơn và có ý nghĩa thống kê so với nhóm người I rắc và Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng khoảng cách chân cánh mũi đến đường H lại lớn hơn. Có thể giải thích điều này do cằm của nhóm sinh viên Việt Nam nhô hơn. Khi phân tích các chỉ số mô mềm theo Legan & Burstone, chúng tôi nhận thấy kết quả hoàn toàn tương đồng so với chủng tộc của người Trung Quốc. Góc thể hiện độ nhô mặt của nhóm người Yemen nhỏ hơn nhóm sinh viên Việt Nam nhưng độ nhô xương hàm trên lại lớn hơn có ý nghĩa (p<0,05). Độ nhô môi trên của người Yemen nhỏ hơn trong nghiên cứu của chúng tôi. Sở dĩ có sự không thống nhất giữa các chỉ số trên có thể do cằm của người Việt Nam nhô hơn của người Yemen. Còn khi so sánh với tiêu chuẩn và các tác giả khác như Line, Scheiderman chúng tôi nhận thấy nam và nữ hài hòa đều có khuôn mặt nhô hơn ở tầng mặt dưới, mũi thấp và tù hơn mặc dù so với nhóm khá hài hòa thì ít nhô hơn, mũi nhọn hơn và cao hơn. Giá trị trung bình góc Cm-Sn-Ls của cả nam và nữ trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt 90,48±6,29 và 94,55±6,18 là đều nằm trong giới hạn dưới của người châu Âu (Nam hài hòa: 91,67 0, nữ hài hòa: 97,410, tiêu chuẩn châu Âu: nam 90-950, nữ: 95-1100). Điều này cho thấy về mặt hình thái khuôn mặt của mẫu nghiên cứu có nét tương đồng với người Châu Âu, nhưng các tiêu chuẩn đánh giá có khác nhau và khó có thể áp đặt cứng nhắc được. KẾT LUẬN 1. Một số đặc điểm hình thái đầu-mặt trên phim sọ thẳng từ xa và ảnh chuẩn hóa thẳng. - Trên ảnh chụp chuẩn hóa thẳng KTS + Tỷ lệ khuôn mặt hình ovan: 65%, vuông: 23%, tam giác: 12%. + Các kích thước ngang và dọc của khuôn mặt nam giới đều lớn hơn nữ giới. Và giữa các dạng khuôn mặt, có sự khác nhau về các kích thước ngang. - Trên phim sọ thẳng từ xa + Hầu hết các kích thước sọ mặt ở nam đều lớn hơn ở nữ. + Các kích thước bên trái của thường lớn hơn bên phải. 2. Xác định một số chỉ số đầu-mặt trên phim X quang sọ nghiêng từ xa và ảnh chuẩn hóa nghiêng - Trên phim sọ nghiêng từ xa + Các kích thước, góc đo mô cứng và tỷ lệ giữa nam và nữ ít có sự khác biệt, như góc SNA (nam: 83,880, nữ: 83,540), góc SNB (nam: 80,720, nữ: 80,360), góc ANB (nam: 3,160, nữ: 3,180), góc U1-L1 (nam: 120,80, nữ: 120,730). + Các góc mô mềm nhìn nghiêng của nữ hầu hết cao hơn nam như góc Sn-Pn-N’ (nam: 101,250, nữ: 104,950), góc Cm-Sn-Ls (nam: 90,480, nữ: 94,550), góc N’-Sn-Pg’ (nam: 161,140, nữ: 164,380), góc (nam: 136,10, nữ: 138,20). + Khoảng cách từ môi đến đường thẩm mỹ ít có sự khác biệt theo giới như khoảng cách (mm): Li-S (nam: 3,25, nữ: 3,06), Ls-S (nam: 2,43, nữ: 2,14), Li-E (nam: 2,08, nữ: 1,98), Ls-E (nam: 0,23, nữ: 0,15). + Giữa mô mềm và mô cứng không có mối liên quan chặt chẽ với nhau. - Trên ảnh chụp chuẩn hóa nghiêng KTS + Các kích thước, và tỷ lệ giữa nam và nữ ít có sự khác biệt. Các góc đo ở nữ đều cao hơn nam như góc cm-sn-ls (nam: 91,330, nữ: 94,730), góc pn-n-pg (nam: 28,110, nữ: 29,210), góc gl-n-pn (nam: 133,630, nữ: 135,960), góc gl-sn-pg (nam: 168,70, nữ: 170,570), góc n-sn-pg (nam: 161,140, nữ: 164,380), góc n-pn-pg (nam: 136,10, nữ: 138,20). + Không có sự khác biệt về các chỉ số mặt toàn bộ, mũi và hàm dưới giữa nam và nữ. + Nam và nữ có dạng mặt chính là rộng và rất rộng (đều chiếm 80%) dạng mũi trung bình (nam: 52%, nữ: 74%); dạng hàm dưới rộng (nam:94%, nữ 80%). + Các chuẩn tân cổ điển, không phù hợp với xu hướng thẩm định của hội đồng chuyên gia đánh giá. KIẾN NGHỊ Do nghiên cứu bị giới hạn về thời gian cũng như địa điểm nghiên cứu. Do đó, từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau: 1. Chỉ số sọ mặt của người Việt Nam ít tương đồng so với các tiêu chuẩn của người Caucasian. Do đó, không nên áp đặt một cách cứng nhắc, và cần dựa vào các chỉ số sọ-mặt tiêu chuẩn trong nghiên cứu, để ứng dụng trong chẩn đoán, điều trị trong lĩnh vực Y học và các ngành khác như bảo hộ lao động, nhận dạng, hội họa, điêu khắc.. 2. Phương pháp đo trên ảnh chuẩn hóa và đo trên phim sọ mặt đều có những giá trị riêng, không thể thay thế cho nhau. Do vậy, các bác sỹ chỉnh nha cũng như phẫu thuật thẩm mỹ kỹ thuật cần được huấn luyện kỹ thuật chụp để có được những bức ảnh chính xác hỗ trợ quá trình điều trị tốt hơn. 3. Kết quả nghiên cứu bước đầu đã đóng góp trong việc xây dựng nên các chỉ số riêng cho người Việt Nam trưởng thành. Tuy nhiên, vẫn cần mở rộng quy mô của nghiên cứu về cỡ mẫu, địa dưvv để đánh giá toàn diện hơn và hạn chế những nhược điểm đặc thù của mẫu nghiên cứu được chọn trên vùng miền. Từ đó, góp phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu tham khảo vốn dĩ còn rất hạn chế trong vấn đề này.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_mot_so_dac_diem_hinh_thai_chi_so.doc
- Ban tom tat tieng Anh.doc