Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sản xuất các gam chuẩn cho RT - PCR, ứng dụng trong chẩn đoán cúm và kiểm định công hiệu vắc xin sởi

Cho đến năm 2013-2014, sởi vẫn còn là “kẻ giết hại trẻ em”, đặc biệt ở những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vắc xin góp phần quyết định khống chế và thanh toán sởi toàn cầu. Kiểm định công hiệu vắc xin bằng các phương pháp thông thường tốn thời gian, công sức, và kết quả đôi khi phụ thuộc chủ quan người đọc trong khi real-time có thể khắc phục được những điểm này.

Lịch sử đã ghi nhận 5 đại dịch cúm với hơn 20 triệu người trên thế giới tử vong năm 1918. Việt Nam là một điểm nóng của lưu hành cúm, bao gồm cả A/H1N1pdm09.

Có thể chẩn đoán sởi và cúm cũng như xác định phân típ cúm A bằng RT-PCR. Để có thể kiểm soát chất lượng và định lượng ARN thì cần gam chuẩn ngoài (chứng dương đã biết nồng độ). Phiên mã in vitro cho ARN đồng nhất, tinh khiết, định lượng được, an toàn, và có sản lượng cao. Đề tài “Nghiên cứu sản xuất các gam chuẩn cho RT-PCR, ứng dụng trong chẩn đoán cúm và kiểm định công hiệu vắc xin sởi” có mục tiêu:

1. Sản xuất được các gam chuẩn cho RT-PCR phát hiện đồng thời ARN virus cúm A, B (M); cúm A/H5N1 (M, H5 và N1); và sởi (N);

2. Xác định tỷ lệ nhiễm cúm mùa và phân típ cúm gia cầm A/H5N1 (nếu có) tại Hải Dương năm 2009 bằng RT-PCR;

3. Xác định công hiệu vắc xin sởi đơn sản xuất tại Việt Nam bằng real-time RT-PCR một bước.

 

doc 28 trang dienloan 4460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sản xuất các gam chuẩn cho RT - PCR, ứng dụng trong chẩn đoán cúm và kiểm định công hiệu vắc xin sởi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sản xuất các gam chuẩn cho RT - PCR, ứng dụng trong chẩn đoán cúm và kiểm định công hiệu vắc xin sởi

Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sản xuất các gam chuẩn cho RT - PCR, ứng dụng trong chẩn đoán cúm và kiểm định công hiệu vắc xin sởi
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến năm 2013-2014, sởi vẫn còn là “kẻ giết hại trẻ em”, đặc biệt ở những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vắc xin góp phần quyết định khống chế và thanh toán sởi toàn cầu. Kiểm định công hiệu vắc xin bằng các phương pháp thông thường tốn thời gian, công sức, và kết quả đôi khi phụ thuộc chủ quan người đọc trong khi real-time có thể khắc phục được những điểm này.
Lịch sử đã ghi nhận 5 đại dịch cúm với hơn 20 triệu người trên thế giới tử vong năm 1918. Việt Nam là một điểm nóng của lưu hành cúm, bao gồm cả A/H1N1pdm09.
Có thể chẩn đoán sởi và cúm cũng như xác định phân típ cúm A bằng RT-PCR. Để có thể kiểm soát chất lượng và định lượng ARN thì cần gam chuẩn ngoài (chứng dương đã biết nồng độ). Phiên mã in vitro cho ARN đồng nhất, tinh khiết, định lượng được, an toàn, và có sản lượng cao. Đề tài “Nghiên cứu sản xuất các gam chuẩn cho RT-PCR, ứng dụng trong chẩn đoán cúm và kiểm định công hiệu vắc xin sởi” có mục tiêu:
Sản xuất được các gam chuẩn cho RT-PCR phát hiện đồng thời ARN virus cúm A, B (M); cúm A/H5N1 (M, H5 và N1); và sởi (N);
Xác định tỷ lệ nhiễm cúm mùa và phân típ cúm gia cầm A/H5N1 (nếu có) tại Hải Dương năm 2009 bằng RT-PCR;
Xác định công hiệu vắc xin sởi đơn sản xuất tại Việt Nam bằng real-time RT-PCR một bước.
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu đã sản xuất hàng loạt chứng dương ARN với sản lượng cao (1011-1019 bản sao/phản ứng 20µl) bằng cả hai kỹ thuật phiên mã cổ điển và trực tiếp; 
Nghiên cứu đã đưa ra được tỷ lệ phát hiện cúm mùa và cúm A/H1N1pdm09 ở bệnh nhân viêm đường hô hấp cấp tính nặng, nhập viện tại Hải Dương 2009-2011; 
Nghiên cứu đã xây dựng và tiền thẩm định phương pháp mới xác định nhanh công hiệu vắc xin sởi đơn, sống giảm độc lực bằng định lượng trực tiếp ARN bên trong tế bào gây nhiễm bằng real-time RT-PCR.
BỐ CỤC LUẬN ÁN
Luận án bao gồm 147 trang, Đặt vấn đề 2 trang, Kết luận 1 trang, Đề xuất 1 trang, Những đóng góp mới của luận án 1 trang. Luận án có 4 chương: Chương 1: Tổng quan 37 trang; Chương 2: Đối tượng, vật liệu và phương pháp nghiên cứu 25 trang; Chương 3: Kết quả nghiên cứu 33 trang; Chương 4: Bàn luận 44 trang. Luận án có 47 Hình, 22 Bảng và 182 tài liệu tham khảo, bao gồm 17 tài liệu tiếng Việt, 158 tài liệu tiếng Anh, 2 tài liệu tiếng Pháp và 5 trang thông tin.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
Tổng quan một số vấn đề về cúm
Phép gọi tên và hình thái và cấu trúc 
Các virus cúm thuộc trên họ Mononegavirale, họ Orthomyxoviridae, được phân thành các chi A, B, và C. Virus cúm A gồm các phân típ, virus cúm B và cúm C chỉ có một phân típ.
Hạt virus cúm đa hình thái, dạng hình cầu có kích thước 80-120nm. Cấu trúc hạt virus gồm bộ máy di truyền (genome), capsid và vỏ ngoài (envelop). Genome là một sợi ARN phân cực âm, có 8 phân đoạn với cúm A và B, 7 phân đoạn với cúm C. 
Kháng nguyên, tính đa dạng chủng virus cúm A và dịch tễ học
Chuyển đổi kháng nguyên đột ngột (shift) là thay đổi cấu trúc kháng nguyên bề mặt, thường gây hiện tượng thay thế một loại HA mới, nhìn chung không chịu tác dụng của miễn dịch tồn tại trước đó và đây là nguyên nhân của các vụ đại dịch cúm. 
Biến đổi kháng nguyên từ từ (drift) là những thay đổi nhỏ và liên tục các acid amin tại các khu vực kháng nguyên protein vỏ HA và NA. Những chủng này vẫn chịu một phần miễn dịch tồn tại trước đó. 
Virus cúm truyền bệnh qua đường không khí. Cúm xảy ra quanh năm và trên toàn thế giới. Cúm A và B có thể đồng thời lưu hành trong cùng một năm nhưng thường mỗi mùa chỉ có một phân típ cúm A nổi lên. 
Sự nhân lên của virus cúm
Virus hấp phụ trên bề mặt tế bào vật chủ qua thụ thể acid sialic và xâm nhập vào tế bào qua con đường endocytosis. Nhờ pH thấp của khoang nội bào mà HA tạo hiện tượng tiền thay đổi phù hợp để màng virus hòa với màng khoang nội bào. Tại nhân, ARN virus đóng vai trò làm khuôn mẫu tổng hợp ARN bổ trợ chuỗi dương, sau đó đến lượt ARN chuỗi dương này làm khuôn mẫu để tổng hợp ARN chuỗi âm và ARN thông tin. Hạt virus được giải phóng theo cơ chế nảy chồi. 
Chẩn đoán phòng thí nghiệm
Vai trò phòng thí nghiệm là chẩn đoán kịp thời cho lâm sàng và báo cáo thông tin về sự xuất hiện và lưu hành các chủng virus cúm trong cộng đồng. Phương pháp chẩn đoán phòng thí nghiệm cúm gồm i/. chẩn đoán trực tiếp phát hiện hình thể virus (phân lập virus cúm), phát hiện kháng nguyên virus (miễn dịch huỳnh quang) xác định cúm A, cúm B hay phân típ cúm A hoặc ELISA xác định cúm A, cúm B, cúm C), phát hiện vật liệu di truyền của virus (RT-PCR xác định cúm A, cúm B, cúm C hay phân típ cúm A) cho phép chẩn đoán nhanh, đặc hiệu, và có tính sàng lọc cả cúm A và phân típ cúm A ii/. chẩn đoán gián tiếp phát hiện kháng thể bằng các phương pháp huyết thanh học.
Chẩn đoán cúm bằng RT-PCR có thể áp dụng kỹ thuật khuếch đại cổ điển hoặc định lượng trực tiếp, có thể sử dụng phản ứng đơn mồi hoặc đa mồi phát hiện đồng thời hơn 1 phân típ hay chi (A/H3N2, A/H1N1, A/H1N1pdm09, cúm B), và xác định chính xác phân típ (HA và NA), phát hiện đồng thời virus cúm mùa A (A/H3N2 và A/H1N1), virus cúm B cùng các virus khác như virus hợp bào hô hấp ở người (human respiratory syncytial virus - hRSV) hoặc virus gây viêm phổi ở người (human metapneumovirus - hMPV).....
Tình hình nghiên cứu về cúm 
Các nghiên cứu về cúm được tiến hành ở mọi khía cạnh và loại hình nghiên cứu. Nghiên cứu về cúm của Việt Nam có thể bao gồm chẩn đoán và nghiên cứu huyết thanh học, sinh học phân tử, miễn dịch học, mô hình toán học, sản xuất vắc xin, tính nhạy cảm với oseltamivir, giám sát trọng điểm hội chứng cúm (Influenza-Like Illness - ILI), viêm phổi nặng do virus (Severe Viral Pneumonia - SVP), thử nghiệm lâm sàng..... 
Sau 2 tháng xuất hiện, 11/06/2009, WHO đã công bố đại dịch cúm A/H1N1pdm09. Sau một năm, hầu như tất cả các nước đều công bố có cúm A/H1N1pdm09. Hiện tại chủng cúm này đã được coi là một chủng cúm mùa. Tại Việt Nam, tính đến 19/03/2010, trên cả nước có 11.214 trường hợp được chẩn đoán xác định phòng thí nghiệm và 58 ca tử vong.
Tại Trung quốc, cúm lưu hành quanh năm nhưng chủ yếu từ tháng 1-8. Tỷ lệ nhiễm cúm giai đoạn 2009-2012 dao động từ 10-26% các trường hợp ILI (bao gồm cả cúm A/H1N1pdm09). Tại Camphuchia, cúm thường lưu hành vào tháng 8-11, tỷ lệ dương tính với cúm A từ năm 2006-2010 tương ứng là 5,8%; 7,7%; 15,3%; 15,2%; và 1,4%. Cúm B lưu hành quanh năm. Tại Lào, cúm lưu hành chủ yếu vào mùa đông-xuân, tỷ lệ dương tính cúm A trung bình là 9,0%. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ nhiễm cúm từ 5-20%. Tại Pháp, cúm cũng thường lưu hành vào mùa đông-xuân với tỷ lệ trung bình 5-15%. 
Tại Việt Nam, theo Nguyễn Thu Yến và cộng sự, tỷ lệ dương tính với cúm ở những người ILI bằng RT-PCR là 22% và luôn chỉ có một chủng cúm A nổi trội (A/H1N1 hoặc A/H3N2). Tỷ lệ dương tính khá tương đồng giữa các loại cơ sở y tế (20-23%) và các vùng miền (21-23%). Cúm B lưu hành ở tất cả các năm, quanh năm và không liên quan đến phân típ cúm A. Năm 2009, tỷ lệ dương tính cúm A/H1N1pdm09 là 9,4%, năm 2010 là 2,1%. Đỉnh nhiễm cúm thường từ tháng 5-10. Ở các trường hợp viêm phổi nặng (SVP), cúm A/H1N1pdm09 chiếm 6,1%, cúm mùa A/H1N1 và A/H3N2 là 2,8%, cúm B là 2,2%, cúm A/H5N1 là 2,9%, và hRSV là 0,1%. Tỷ lệ nhiễm cúm A/H1N1pdm09, A/H1N1 và A/H3N2, cúm B, và A/H5N1 ở bệnh nhân SARI năm 2011 lần lượt là 2,9% (1,1-4,4%), 1,5% (0-2,2%), 3,9% (0-5,8%), và 0,1 (0-0,3%). 
Trong khuôn khổ dự án Giám sát và điều tra tình hình dịch ở Đông Nam Á (Surveillance and Investigation of Endemic Situations in South-East Asia - SISEA) tại Bến Tre, tỷ lệ nhiễm cúm A/H1N1pdm09, cúm mùa A, và cúm B tương ứng là 1,4%, 2,7%, và 1,0%. Cúm thường lưu hành vào mùa hè và có hiện tượng chuyển sang tháng 5-7.
Tổng quan một số vấn đề về sởi 
Phép gọi tên và hình thái, cấu trúc
Virus sởi thuộc trên họ Mononegavirales, họ Paramyxoviridae, dưới họ Paramyxovirinae, chi Morbilivirus và tên quốc tế là measles virus. 
Hạt virus sởi hoàn chỉnh đa hình thái nhưng chủ yếu hình cầu, kích thước 100-300 nm. Thành phần cấu tạo gồm genome, capsid và vỏ ngoài. Genome là ARN sợi đơn, phân cực âm, không phân đoạn, dài khoảng 16.000 ribonucleotide, có trật tự 3'- N - P - M - F - H - L Polymerase 5'.
Sự nhân lên của virus
Các dòng tế bào thường trực như Vero hay B95a thường được sử dụng để phân lập virus. Toàn bộ quá trình nhân lên của virus sởi xảy ra tại bào tương của tế bào gây nhiễm. Quá trình gắn màng và xâm nhập tế bào của virus xảy ra khi có sự tương tác giữa protein H và F của virus và thụ thể đặc hiệu - phân tử CD46. Sự nhân lên của virus sởi bắt đầu bằng sợi ARN âm ban đầu có vai trò không những làm khuôn mẫu cho quá trình phiên mã thành ARN thông tin để rồi sau đó được dịch mã thành các protein cấu trúc và phi cấu trúc mà còn làm khuôn mẫu để tổng hợp nên ARN sợi âm thế hệ sau thông qua sợi ARN dương trung gian. Sợi ARN âm lắp ráp cùng với các protein cấu trúc. Màng ngoài virus hình thành do quá trình nảy chồi qua màng bào tương và sự giải phóng hạt virus hoàn chỉnh chỉ sau vài giờ. 
Các nghiên cứu liên quan đến sởi
Việt Nam đang ở giai đoạn khống chế tiến tới thanh toán sởi. Đã có nhiều hợp tác nghiên cứu cơ bản và ứng dụng như xác định một genotype mới (H2), đặc điểm di truyền các chủng virus sởi hoang dại thời kỳ trước và sau chiến dịch tiêm sởi mũi 2, đánh giá công hiệu vắc xin sởi mũi hai tại Hải Phòng.
Vắc xin phòng sởi hiện nay là vắc xin sống, có thể đơn hoặc phối hợp cùng rubella và quai bị. Thông thường, liều gây miễn dịch là 103-104 đơn vị tạo đám hoại tử (Plaque Forming Unit - PFU). Tuổi khuyến cáo tiêm vắc xin sởi từ 6-15 tháng. Trung tâm Nghiên cứu Sản xuất Vắc xin và Sinh phẩm Y tế (POLYVAC) đã sản xuất thành công vắc xin sởi đơn, sống giảm độc lực sử dụng chủng AIK-C. Vắc xin có hiệu giá ổn định, luôn đạt yêu cầu của WHO và vắc xin mẫu chuẩn có hiệu giá 4,2-4,7 Log10/liều 0,5ml. Hiệu giá vắc xin sởi được nhà sản xuất kiểm định bằng phương pháp tạo đám hoại tử (Plaque forming assay – PFA). 
Sản xuất chứng dương ARN và kiểm định công hiệu vắc xin 
Vai trò của vắc xin ngày càng lớn, đối tượng phục vụ của vắc xin ngày càng được mở rộng, bao gồm cả phụ nữ có thai, người có tuổi hay trẻ sơ sinh. Đi song hành cùng sự phát triển không ngừng về công nghệ thiết kế và sản xuất vắc xin là sự ra đời của nhiều thử nghiệm kiểm định, trong đó có các kỹ thuật sinh học phân tử.
Đã có nhiều nghiên cứu về ứng dụng real-time trong chẩn đoán, nghiên cứu về sởi và nhiều tác nhân khác. Năm 2006, tác giả Hummel và cộng sự đã thẩm định phương pháp để tìm ra các cặp mồi và đầu dò nhạy và đặc hiệu nhất trong phát hiện sởi. Năm 2006, tác giả Nguyễn Thị Thường và cộng sự đã định lượng số bản sao ADN bên trong tế bào gây nhiễm khi xác định tính kháng thuốc của herpes simplex virus (HSV) với aciclovir và foscarnet nên không cần đợi sự xuất hiện của hủy hoại tế bào (cytopathic effects – CPE) trong khi hiệu giá ADN tương quan chặt chẽ với PFU. Năm 2005, tác giả Schalk và sau này là Ammour và cộng sự đã xây dựng phương pháp mới kiểm định công hiệu sởi của vắc xin sởi phối hợp với rubella và quai bị bằng định lượng trực tiếp số bản sao ARN ở dịch nổi nuôi cấy tế bào. Tuy nhiên, phương pháp này còn nhiều tồn tại, quy trình phức tạp và thời gian gặt ít nhất 2 ngày. 
Để định lượng trực tiếp thì nhất thiết phải có gam chuẩn ngoài. Sản xuất ARN bằng phiên mã in vitro giúp tiết kiệm bệnh phẩm, có hiệu giá cao, định lượng được, ổn định, đồng nhất, và tinh khiết. Việt Nam chưa có công bố về sản xuất chứng dương ARN in vitro.
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Đối tượng nghiên cứu
Sản xuất ARN bằng phiên mã in vitro: 1-2,5µl ARN tách chiết từ chủng virus hoặc mẫu bệnh phẩm. 
Xác định tỷ lệ nhiễm cúm: tuân thủ định nghĩa ca bệnh viêm đường hô hấp cấp tính nặng (SARI) của dự án SISEA. Bệnh phẩm được lấy từ tháng 1/2009 - 6/2011, 8-10 mẫu/tháng, mỗi tuần 2-3 mẫu đầu tiên của loạt bệnh nhân nhập viện tại Bệnh viện đa khoa huyện Cẩm Giàng và Bệnh viện đa khoa Tỉnh Hải Dương.
Xây dựng phương pháp xác định công hiệu vắc xin sởi: vắc xin sởi mẫu chuẩn (M-0107) và 10 loạt vắc xin thành phẩm do POLYVAC sản xuất từ 2010-2013.
Vật liệu nghiên cứu
Nguyên vật liệu và trang thiết bị là các các thiết bị khoa học, sinh phẩm, hóa chất, môi trường cơ bản phục vụ các thử nghiệm sinh học phân tử (tách chiết, khuếch đại, tạo dòng, cắt enzyme giới hạn - RFLP, phiên mã...) nuôi cấy tế bào và phân lập virus. Dung dịch đệm ly giải nhanh tế bào (TpLR) là dung dịch tự pha, có thành phần Tris HCL pH=8 chứa 50mM KCL, 50mM MgCL2, 0,45% Nonidet-P40, và 0,45% Tween 20. 
Phương pháp nghiên cứu
Sản xuất chứng dương ARN in vitro
Là nghiên cứu cơ bản phòng thí nghiệm, không tính cỡ mẫu. 
Hình 2.1. Sơ đồ quá trình phiên mã (cổ điển và trực tiếp) 
Phiên mã cổ điển: Sản phẩm khuếch đại được nối với vec-tơ để tạo plasmid tái tổ hợp, rồi được đưa vào tế bào cảm biến E.coli với sự có mặt của X-gal. Khuẩn lạc chuyển nạp sẽ được kiểm tra theo mầu sắc (trắng/xanh nhạt hay xanh đậm) bằng PCR cổ điển và giải trình tự gen. Tạo mạch thẳng plasmid bằng RFLP. Phiên mã được thực hiện nhờ enzyme phiên mã T7. Mật độ quang học, kích thước sản phẩm, cấu trúc ARN và hệ số Avogadro sẽ được sử dụng để tính sản lượng ARN. Sản phẩm ARN mới tổng hợp được kiểm tra bằng RT-PCR với (RT +) và (RT-).
Phiên mã trực tiếp: đoạn mồi đặc hiệu được cải biên bằng cài thêm ở đầu 5’ của mồi xuôi và mồi ngược một trình tự kích thích phiên mã T7 và poly T. Sản phẩm được sử dụng trực tiếp cho phiên mã in vitro. 
Xác định tỷ lệ nhiễm cúm
Là nghiên cứu quan sát mô tả cắt ngang, cỡ mẫu nghiên cứu được tính dựa vào tỷ lệ mắc cúm trung bình toàn cầu không phải đại dịch (5 - 15%) với độ chính xác của p = 1,5%. Trên thực tế, 1273 bệnh phẩm đã được thu thập cho nghiên cứu.
ARN của virus cúm mùa A và B được phát hiện bằng RT-PCR đa mồi cùng hRSV và hMPV, được khẳng định bằng PCR bán tổ. Chứng dương là hỗn hợp 2,5μl khuôn mẫu ARN gồm 104 bản sao ARN cho mỗi loại virus cúm mùa A, hRSV, hMPV và 105 bản sao cho virus cúm B. 
Cúm A/H1N1pdm09 và cúm gia cầm A/H5N1 (nếu nghi ngờ) được phát hiện và xác định phân típ bằng real-time RT-PCR đơn mồi. Tỷ lệ phân bố cúm được phân tích theo giới tính, nhóm tuổi, và thời gian. Sự khác biệt của các biến rời rạc được tính bằng thuật toán Khi bình phương (χ2). Giá trị p<0.05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
Y đức: Số liệu của đề tài nghiên cứu này là một phần của Dự án SISEA, đã được thông qua Hội đồng Y đức cơ sở và là dự án phi lợi nhuận. Đề tài này có phân tích biến số giới tính nhưng chỉ với mục đích nghiên cứu dịch tễ học, không nhằm mục đích phân biệt giới. 
Xây dựng phương pháp kiểm định vắc xin sởi 
Là nghiên cứu cơ bản phòng thí nghiệm. 
Cỡ mẫu nghiên cứu: không tính cỡ mẫu, chọn mẫu tiện lợi, ngẫu nhiên. 
Kỹ thuật xét nghiệm: Hiệu giá PFU được xác định bằng PFA trên tấm nhựa 24 giếng. Cấy 200μl hỗn dịch virus đặc và pha loãng bậc 10 từ 10-1-10-4 lên tế bào Vero, mỗi nồng độ 2 giếng. Sau ủ 1 giờ ở 37oC x 5% CO2, hút dịch cấy rồi rửa sạch tế bào bằng MEM 0% FBS và thêm môi trường phủ methylcellulose 1% có 3% huyết thanh bê bào thai (Fetal Calf Serum – FCS). Sau 9 ngày ủ, cố định tế bào bằng 10% formaldehyde (38% ... iệm, loại phản ứng (đơn mồi hay đa mồi).... 
So với số liệu của Camphuchia, tỷ lệ nhiễm cúm 2009-2010 có tương quan với nghiên cứu này nhưng tác giả không tách biệt tỷ lệ nhiễm cúm mùa A và cúm A/H1N1pdm09. Tại Lào, tỷ lệ dương tính với cúm A trung bình là 9,0% (bao gồm cả cúm A/H1N1pdm09), cũng rất gần với con số 10,4% của nghiên cứu này. Tỷ lệ nhiễm cúm của nghiên cứu này cũng nằm trong khoảng 5-20%, là con số thống kê mắc cúm của Hoa Kỳ và Pháp. 
Như vậy tỷ lệ nhiễm cúm của nghiên cứu này cũng tương đồng với nhiều nghiên cứu khác. 
Phân bố nhiễm cúm theo giới tính, nhóm tuổi và thời gian 
Phân bố cúm không có sự khác biệt theo giới tính, trừ cúm A, nguyên nhân có thể do số mẫu quá nhỏ (n=24) nên không có tính đại diện. Số liệu này cũng tương đồng với một số nghiên cứu khác.
Có tới 29,0% trẻ em dưới 5 tuổi mắc SARI phải nhập viện tại Hải Dương, nhiều hơn (p64 tuổi (1,3%). Đây cũng là một trong số các bằng chứng về gánh nặng bệnh tật của cúm. 
Trong nghiên cứu này, cúm mùa chủ yếu gây bệnh ở trẻ nhỏ, đây có thể phù hợp với biểu đồ diễn biến hình chữ “V” (trẻ nhỏ và người có tuổi mắc nhiều nhất). Tuy nhiên, do chỉ 4,1% đối tượng nghiên cứu thuộc nhóm >64 tuổi nên nhánh này không rõ ràng như nhánh trẻ nhỏ. 
Dường như cúm A/H1N1pdm09 có biểu đồ diễn biến hình chữ “W” của một virus cúm đại dịch (trẻ nhỏ, thanh niên, và người có tuổi mắc nhiều nhất). Hai đỉnh nhóm tuổi mắc cúm mùa và cúm đại dịch khác biệt rõ rệt (Hình 3.11). Nhánh người có tuổi trong nghiên cứu này không rõ có thể do số đối tượng nghiên cứu >64 tuổi thấp hoặc theo CDC Hoa Kỳ thì có thể do đặc điểm tích hợp của virus cúm A/H1N1pdm có gen HA khởi nguồn từ chủng A/H1N1pdm1918 nên có hiện tượng bảo vệ chéo cho nhóm đối tượng >64 tuổi.
Chúng tôi tin rằng đây là một trong số các số liệu đầu tiên của Hải Dương về một số đặc điểm dịch tễ học của virus cúm gây SARI trong suốt 2,5 năm nghiên cứu giai đoạn 2009-2011. 
Bước đầu xây dựng phương pháp xác định hiệu giá vắc xin sởi đơn bằng real-time RT-PCR 
Thử nghiệm tối ưu hóa các điều kiện phản ứng
Các tài liệu kinh điển đã thừa nhận chu kỳ nhân lên của sởi chỉ mất vài giờ nên số bản sao ARN bên trong tế bào gây nhiễm sau 24 giờ rất cao và nhờ những ứng dụng rộng rãi của real-time mà phương pháp định lượng số bản sao ARN bên trong tế bào gây nhiễm cho phép đọc kết quả chỉ sau 24 giờ cấy mà không cần theo dõi CPE hay TCID50, đây là cơ sở để xây dựng một phương pháp cho kết quả nhanh và có tính tự động hóa cao. 
Hiệu giá của vắc xin sởi đơn, sống giảm độc lực ổn định và luôn đạt 103-104 PFU/liều 0,5ml nên chỉ cần pha loãng bậc 10 là đặc đến 10-4 và chứng tế bào là đủ. Các tài liệu cũng chứng minh rằng pha loãng virus bậc 10 là đủ để đánh giá sự khác biệt trong đáp ứng sinh học.
Có thể đo lường được hiệu giá ARN 24 giờ sau cấy ở nồng độ đặc và 10-1, kết quả đều rơi vào khoảng tuyến tính của gam chuẩn ngoài nên đảm bảo được độ tin cậy. Hiệu giá ARN ở độ pha loãng vắc xin 10-2 rất thấp, nằm ngoài khoảng tuyến tính nên không đảm bảo độ tin cậy. Không phát hiện được ARN ở nồng độ pha loãng 10-3 và 10-4. 
Ở 48 và 72 giờ, có thể đo lường được ARN ở các nồng độ từ đặc đến 10-3, thậm chí 10-4 nhưng 10-1 và 10-2 có hiệu giá ARN rơi ra ngoài khoảng tuyến tính của gam chuẩn ngoài nên cũng không đảm bảo độ tin cậy của kết quả. 
Như vậy, thời gian tối ưu để gặt ARN là 24 giờ và nồng độ pha loãng vắc xin là đặc và 10-1. Khi so sánh với thời gian đọc công hiệu thông thường là 9 ngày, rõ ràng 24 giờ có một ưu điểm rõ ràng, điều này thật sự hữu ích khi thị trường có nhu cầu vắc xin gấp.
Sử dụng TpLR xử lý ARN bên trong tế bào phức tạp hơn ở dịch nổi nhưng lại cho phép đọc kết quả sớm hơn và pha loãng vắc xin 10-1 thì các chất ức chế trong vắc xin có thể không ảnh hưởng đến quá trình nhân lên của virus. Khi so sánh với phương pháp tách chiết sử dụng bộ sinh phẩm thương mại thì cả 3 phương pháp tách chiết ARN đều tương quan chặt chẽ và không khác biệt tuyệt đối ở các thời điểm 24, 48, và 72 giờ (p>0,05). 
Một đặc điểm chung của các phương pháp tách chiết là trước tiên tế bào hoặc virus được phá hủy để giải phóng acid nucleic, sau đó acid nucleic được tách rời ra khỏi các thành phần khác như protein, lipid và carbohydrate. Tại thời điểm phá hủy tế bào hay tổ chức - là thời điểm tính toàn vẹn của ARN bị đe dọa - thì các chất làm biến tính nuclease phải tiếp xúc được với các thành phần trong tế bào. Để thành công, các thường quy tách chiết ARN thường phải sử dụng các chất gây biến tính mạnh. Sự có mặt của EDTA là cần thiết để giữ ARN nguyên vẹn. ARN của nghiên cứu này được bảo quản ở -80oC và dung dịch TpLR là đệm Tris HCL pH=8 chứa 50mM KCL, 50mM MgCL2, 0,45% Nonidet-P40, và 0,45% Tween 20 đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của nguyên lý tách chiết và bảo quản ARN.
Hiệu giá ARN của cả 3 phương pháp tách chiết vẫn không khác biệt tuyệt đối sau 1 năm bảo quản ở -80oC (p>0,05). Gặt ARN bằng TpLR vừa giảm đáng kể khối lượng công việc, tiết kiệm thời gian và tiết kiệm kinh phí, lượng mẫu thu được nhiều (300μl thay vì 60μl). Đây là một ưu điểm đáng kể của nghiên cứu này, đặc biệt khi có một lượng mẫu lớn. Như vậy, có thể gặt ARN bằng TpLR và sử dụng được ít nhất trong vòng 12 tháng bảo quản ở -80oC. 
Khi khuếch đại bằng real-time, hệ thống này cho ta một đường cong khuếch đại gồm 3 giai đoạn: kéo dài đến khi dấu hiệu của sản phẩm PCR lớn hơn dấu hiệu nền của hệ thống, tăng gia tốc kéo dài, và tạo hình phẳng. Do vậy, một bức tranh hoàn thiện của cả quá trình PCR được thể hiện rõ hơn, kết quả được phân tích ngay trong lúc phản ứng đang chạy nên không bị nhiễm sản phẩm từ ngoài vào nhưng lại được kiểm soát tốt hơn, tự động hoàn toàn. Gam ARN chuẩn ngoài được sử dụng để định lượng một cách chính xác với độ nhạy thông thường của TaqMan là 101-105 bản sao acid nucleic trong 5-10ml khuôn mẫu. TaqMan là phổ biến nhất trong các kỹ thuật real-time PCR do có độ tích lũy tín hiệu huỳnh quang lớn nhất. Như vậy, định lượng trực tiếp vừa có vai trò chẩn đoán, tiên lượng và vừa có vai trò đánh giá đáp ứng sinh học. 
Trong nghiên cứu, nhiều tác giả đã ứng dụng real-time để xây dựng phương pháp xác định tính nhạy cảm của virus với thuốc kháng virus và xác định công hiệu vắc xin. Nghiên cứu này là sự phát triển tiếp theo của những mô hình đã được thử nghiệm trước đó. So với PFA, 2 phương pháp có cùng bản chất do đều đo lường các hạt virus có hoạt tính (có khả năng gây nhiễm tế bào). Tuy nhiên, tín hiệu phát hiện của 2 phương pháp khác nhau, PFA đo lường số hạt virus có hoạt tính ở mức độ tế bào qua số đám hoại tử (9 ngày) còn phương pháp mới cũng đo lường số hạt virus có hoạt tính nhưng ở mức độ phân tử qua định lượng ARN bên trong tế bào gây nhiễm nên chỉ mất 24 giờ. Phương pháp này tránh được nhược điểm của thử nghiệm huyết thanh học và có thể được áp dụng để kiểm soát sản phẩm trong quá trình sản xuất (in process control) - một vấn đề hiện chưa có giải pháp cho các vắc xin sống. Có thể mở rộng nghiên cứu đối với những vắc xin virus sống giảm độc lực bài xuất virus ra khỏi tế bào thấp và cần rất nhiều thời gian hoặc áp dụng cho những vắc xin virus không tạo CPE.
Hiệu giá ARN vắc xin sởi thành phẩm
Hai phương pháp xác định công hiệu vắc xin sởi bằng PFU và ARN bên trong tế bào gây nhiễm tương quan chặt chẽ và R cao nhất khi pha loãng vắc xin 10-1. Điều này có thể do khi cấy vắc xin đặc, một số thành phần có trong vắc xin có thể ức chế quá trình nhân lên của virus hoặc do lượng virus quá nhiều có thể tạo ra một tỷ lệ thấp hơn những phần tử có tính gây nhiễm. Kết quả này cũng trùng với kết quả thăm dò trên chủng chuẩn M-0107. Kết quả theo dõi xu hướng hiệu giá PFU và ARN của 10 loạt vắc xin thành phẩm cho thấy đường biểu diễn xu hướng rất tương đồng, sự khác biệt hiệu giá giữa các loạt < 0,41Log10 và luôn ổn định trong khoảng ±2SD, đáp ứng được yêu cầu của WHO cho các thử nghiệm sinh học làm trên nuôi cấy tế bào. Điều này cho thấy có thể xác định nhanh trong vòng 24 giờ hiệu giá vắc xin sởi ở mức độ phân tử, hiệu giá này rất ổn định và cao hơn hiệu giá kiểu hình khoảng 3000 lần.
Hiệu giá PFU không tương quan với hiệu giá ARN tách chiết trực tiếp từ vắc xin thành phẩm (R <0,4), lý do có thể do sản xuất vắc xin là từ dịch nổi nuôi cấy tế bào nên có cả ARN của hạt virus không gây nhiễm.
Thẩm định phương pháp
Nghiên cứu này xây dựng một phương pháp mới nên yêu cầu tiến hành thẩm định hoàn toàn. Riêng chất lượng cặp mồi và đầu dò được tiến hành xác nhận theo kết quả thẩm định của CDC Hoa Kỳ. 
Độ đúng của phương pháp
Kết quả PFU của 6 lần thử nghiệm luôn đạt 4,00-4,06 Log10/liều 0,5ml với CV=8,2% <<<330% = 0,5Log10. Tuy nhiên, hiệu giá này thấp hơn số liệu của nhà sản xuất (4,2-4,7Log10/0,5ml). Nguyên nhân khác biệt có thể do nghiên cứu này sử dụng dòng tế bào Vero có sản xuất interferon và môi trường phát triển và duy trì đều cần FCS, hay sai số hệ thống giữa các phòng thí nghiệm. Đây là cơ sở để làm hài hòa thử nghiệm kiểm định công hiệu vắc xin sởi sản xuất tại Việt Nam giữa nhà sản xuất và cơ quan kiểm định.
Độ chính xác
CV trung bình của độ lặp lại trong cùng một lần thử nghiệm (0,8%) và độ lặp lại trung gian (3,3%) thấp hơn nhiều so với con số cho phép 10% của một thử nghiệm enzyme. 
Độ đặc hiệu và tính chọn lọc của phương pháp 
Kết quả âm tính của các chứng âm (nước và sinh phẩm) và của chứng tế bào cho thấy phương pháp có độ đặc hiệu cao tính chọn lọc cao.
Độ tuyến tính
Hai phương pháp (hiệu giá PFU và ARN) tương quan chặt chẽ với nhau (R=0,8 >0,75) và là tương quan thuận với R của độ pha loãng 10-1 là cao nhất. Hệ số tương quan của độ pha loãng 10-2 và 10-3 thấp hơn có thể do hiệu giá ARN còn thấp, mới chỉ bắt đầu vào giai đoạn tăng gia tốc. Sự khác biệt tuyệt đối của hiệu giá ARN so với PFU khoảng hơn 3000 lần.
Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng
Những đường cong xuất hiện sau chu kỳ 40 được coi là âm tính. Hình 3.6 cho thấy phản ứng có thể phát hiện ARN trong khoảng 101-1012 bản sao/5μl khuôn mẫu. Tuy nhiên, giới hạn định lượng nằm trong khoảng tuyến tính của gam chuẩn ngoài là 101-106. 
Độ mạnh của phương pháp
Độ mạnh của phương pháp qua ước tính CV trung bình của 10 loạt vắc xin khi có những thay đổi không thể tránh khỏi (ruggedness) với 2 ngày thử nghiệm. Con số 2,7% nhỏ hơn đáng kể so với 10% của các thử nghiệm sinh học. Ngoài ra, chính số liệu về độ lặp lại trung gian là 3,3% cũng minh chứng được độ mạnh của phương pháp này.
Bàn luận về những hạn chế của đề tài
Sản xuất chứng dương ARN in vitro
Chứng dương của nghiên cứu chỉ là những đoạn ARN. Phiên mã trực tiếp cho hiệu giá cao hơn nhưng không có được chủng vi khuẩn tái tổ hợp. 
Xác định tỷ lệ nhiễm cúm ở bệnh nhân SARI tại Hải Dương
Nghiên cứu không phân tích đồng nhiễm vi khuẩn. RT-PCR đa mồi có thể ảnh hưởng đến độ nhạy của phản ứng và hạn chế một phần phân tích nguyên nhân gây bệnh thực sự của các trường hợp đồng nhiễm. Nghiên cứu này không xác định phân típ cúm mùa A.
Xây dựng phương pháp mới xác định công hiệu vắc xin sởi
Hiệu giá vắc xin sởi được xác định trên tế bào Vero cần FCS và có bài xuất interferon.
KẾT LUẬN
Đề tài đã sản xuất được 9 gam ARN chuẩn bằng phiên mã in vitro có sản lượng cao (1011-1019 bản sao/phản ứng 20µl), tinh khiết và ổn định; 
Tỷ lệ phát hiện ARN virus cúm mùa A (A/H3N2 và A/H1N1) là 1,9%, cúm B là 6,4%, cúm A/H1N1pdm09 là 10,4%. Tỷ lệ đồng nhiễm virus (1 hoặc 2 tác nhân) chiếm 11,3%, có cả đồng nhiễm các virus cúm với nhau. Nhóm tuổi nhiễm virus cúm mùa A và cúm B chủ yếu là 1-5 tuổi, trong khi nhóm tuổi nhiễm virus cúm A/H1N1pdm09 là 6-18 tuổi. Dường như không có sự khác biệt về giới tính;
Đề tài đã xây dựng được kỹ thuật mới xác định hiệu giá vắc xin sởi đơn bằng định lượng trực tiếp ARN bên trong tế bào gây nhiễm sau 24 giờ cấy 1 nồng độ pha loãng vắc xin 10-1. Kỹ thuật này chính xác, nhanh, tự động hóa và tương quan chặt chẽ với hiệu giá PFU. Hiệu giá ARN vắc xin sởi ổn định theo thời gian, cao hơn hiệu giá PFU khoảng 3x103 lần. 
ĐỀ XUẤT
Tiếp tục sản xuất chứng dương ARN cho các tác nhân khác để kiểm soát chất lượng RT-PCR, sản xuất bộ mẫu chuẩn ARN cho IQC và EQA NAT, tiến tới sản xuất các bộ sinh phẩm chẩn đoán sinh học phân tử thương mại hóa. Sản xuất lại chứng dương cúm nếu các đoạn gen tích hợp lại;
Tiếp tục tiến hành đánh giá thẩm định phương pháp xác định công hiệu vắc xin sởi sản xuất tại Việt Nam với cỡ mẫu lớn hơn. Tiếp tục nghiên cứu để áp dụng cho kiểm định công hiệu các vắc xin không tạo CPE hoặc tạo CPE chậm (in process control và vắc xin thành phẩm)./. 
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO	BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THƯỜNG
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT CÁC GAM CHUẨN CHO RT-PCR
ỨNG DỤNG TRONG CHẨN ĐOÁN CÚM 
VÀ KIỂM ĐỊNH CÔNG HIỆU VẮC XIN SỞI
Chuyên ngành: Vi sinh Y học
Mã số: 62720115
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI, 2014
Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Huỳnh Phương Liên
GS.TS. Nguyễn Trần Hiển
Phản biện 1: ..
Phạn biện 2: ..
Phản biện 3: ..
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường
Tổ chức tại Trường Đại học Y Hà Nội
Vào hồi.giờphút, ngày..tháng.năm 201.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện quốc gia;
Thư viện Thông tin Y học Trung ương;
Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Thường, Henri Agut et al (2006). Rapid determination of antiviral drug susceptibility of herpes simplex virus types 1 and 2 by real-time PCR. Antiviral Research, 69, 152-157.
Nguyễn Thị Thường, Thẩm Chí Dũng, Trần Thị Mai Hưng, Nguyễn Trần Hiển, Taniguchi K (2010). Tác nhân vi rút gây hội chứng cúm trong cộng đồng tại xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, 2009-2010. Tạp chí Y học dự phòng, 10 (118), 67-74.
Nguyễn Trần Hiển, Nguyễn Thị Thường và cộng sự (2011). Epidemiology and viral etiologies of Severe Acute Respiratory Infections (SARI) in Northern Vietnam . BMC Proc, 5(S1) 118.
Lương Minh Tân, Phan Thị Ngà, Thẩm Chí Dũng, Nguyễn Thị Thường, Đỗ Phương Loan, Holly S., MacIntyre C.R (2011). Tác nhân vi sinh vật gây bệnh đường hô hấp ở nhân viên y tế và ở khẩu trang đã qua sử dụng ở các bệnh viện Hà Nội. Tạp chí Y học và thông tin Dược (JMPI), 12, ISSN 0868-3891, 26-30.
Nguyễn Thị Thường, Trần Như Dương, Huỳnh Phương Liên và cộng sự (2012). Sản xuất chứng dương ARN in vitro. Tạp chí Y học Dự phòng, 5(132), 103-111.
Nguyễn Thị Thường, Nguyễn Đăng Hiền, Huỳnh Phương Liên, Phạm Thị Bích Ngọc, Trần Thị Hiền, Nguyễn Trần Hiển (2013). Xây dựng kỹ thuật xác định hiệu giá ARN vắc xin sởi bằng real-time RT-PCR. Tạp chí Y học Dự phòng, 11(147), 10-16.
Nguyễn Thị Thường và cộng sự (2014). Nghiên cứu phát triển bộ mẫu chuẩn RNA cho kỹ thuật RT-PCR và thử nghiệm đánh giá hiệu quả sản phẩm trên thực địa. Đề tài tuyển chọn cấp Bộ. Bộ Y tế. Nghiệm thu cấp Bộ tháng 04/2014.
Thẩm Chí Dũng, Nguyễn Trần Hiển, Nguyễn Thị Thường et al (2014). Sensitivity and specificity of routine epidemiological influenza-like illness surveillance system at district level in Northern Vietnam. Vietnamese Prev. Med. J. 1e(1), 63-65.

File đính kèm:

  • doctom_tat_luan_an_nghien_cuu_san_xuat_cac_gam_chuan_cho_rt_pcr.doc