Tóm tắt Luận án Nghiên cứu thực trạng ngộ độc nấm, đặc điểm sinh học, độc tính của một số loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Cao bằng
Nấm độc bao gồm nhiều loài, mỗi loài có đặc điểm về hình thái,
độc tố, tác dụng lên cơ thể khác nhau. Ngộ độc nấm thường do người ta
không phân biệt được giữa nấm độc và nấm không độc.
Theo thống kê của Hiệp hội các trung tâm chống độc của Mỹ trong
10 năm (2001-2011) đã ghi nhận 83.140 trường hợp ngộ độc nấm độc
(năm 2013 là 6204 ca). Tại Việt Nam, ngộ độc nấm liên tục xảy ra ở
các tỉnh có nhiều rừng như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tháng 3
năm 2014, Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai đã điều trị cho
15 người bị ngộ độc nấm từ Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng, tử
vong 10 người (66,7%). Các công trình nghiên cứu về nấm độc ở Việt
Nam rất ít, cho đến trước năm 2008, tranh tuyên truyền phòng chống
ngộ độc nấm của Bộ y tế cũng như của các tỉnh chủ yếu dựa vào hình
ảnh các loài nấm độc mọc ở Mỹ, châu Âu, trong đó có nhiều loài nấm
chỉ mọc ở vùng ôn đới nên hiệu quả tuyên truyền chưa cao.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía bắc, có hệ sinh thái rừng rất đa
dạng và phong phú. Theo thống kê của Trung tâm Y tế dự phòng, Chi
cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Sở y tế của tỉnh, trong giai đoạn từ
2003-2009, có 29 vụ ngộ độc nấm dẫn đến 81 người bị ngộ độc, 17
người tử vong. Đặc biệt có vụ ngộ độc nấm làm 8 người trong một gia
đình bị tử vong. Hầu hết các vụ ngộ độc này đều chưa xác định được
loài nấm đã gây ngộ độc.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu thực trạng ngộ độc nấm, đặc điểm sinh học,
độc tính của một số loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Cao Bằng”
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu thực trạng ngộ độc nấm, đặc điểm sinh học, độc tính của một số loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Cao bằng
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÕNG HỌC VIỆN QUÂN Y NGUYỄN TIẾN DŨNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NGỘ ĐỘC NẤM, ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, ĐỘC TÍNH CỦA MỘT SỐ LOÀI NẤM ĐỘC THƢỜNG GẶP TẠI TỈNH CAO BẰNG Chuyên ngành : Dƣợc lý - Độc chất Mã số : 62 72 01 20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC HÀ NỘI – 2015 Công trình đƣợc hoàn thành tại: HỌC VIỆN QUÂN Y Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: - PGS.TS. HOÀNG CÔNG MINH - PGS.TS. PHẠM DUỆ Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thị Dụ Phản biện 2: GS.TS. Trịnh Tam Kiệt Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Trọng Thông Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp trường, họp tại Học viện Quân y. Vào hồi: giờ ngày tháng năm 2016. 1 Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. Thƣ viện Quốc gia 2. Thƣ viện Y học Trung ƣơng Thƣ viện Học viện Quân y 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nấm độc bao gồm nhiều loài, mỗi loài có đặc điểm về hình thái, độc tố, tác dụng lên cơ thể khác nhau. Ngộ độc nấm thường do người ta không phân biệt được giữa nấm độc và nấm không độc. Theo thống kê của Hiệp hội các trung tâm chống độc của Mỹ trong 10 năm (2001-2011) đã ghi nhận 83.140 trường hợp ngộ độc nấm độc (năm 2013 là 6204 ca). Tại Việt Nam, ngộ độc nấm liên tục xảy ra ở các tỉnh có nhiều rừng như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn,Tháng 3 năm 2014, Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai đã điều trị cho 15 người bị ngộ độc nấm từ Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng, tử vong 10 người (66,7%). Các công trình nghiên cứu về nấm độc ở Việt Nam rất ít, cho đến trước năm 2008, tranh tuyên truyền phòng chống ngộ độc nấm của Bộ y tế cũng như của các tỉnh chủ yếu dựa vào hình ảnh các loài nấm độc mọc ở Mỹ, châu Âu, trong đó có nhiều loài nấm chỉ mọc ở vùng ôn đới nên hiệu quả tuyên truyền chưa cao. Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía bắc, có hệ sinh thái rừng rất đa dạng và phong phú. Theo thống kê của Trung tâm Y tế dự phòng, Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Sở y tế của tỉnh, trong giai đoạn từ 2003-2009, có 29 vụ ngộ độc nấm dẫn đến 81 người bị ngộ độc, 17 người tử vong. Đặc biệt có vụ ngộ độc nấm làm 8 người trong một gia đình bị tử vong. Hầu hết các vụ ngộ độc này đều chưa xác định được loài nấm đã gây ngộ độc. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thực trạng ngộ độc nấm, đặc điểm sinh học, độc tính của một số loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Cao Bằng” 2. Mục tiêu 2.1.Đánh giá thực trạng ngộ độc nấm độc tại tỉnh Cao Bằng từ năm 2003 đến năm 2009 và kết quả thực trạng ngộ độc nấm sau can thiệp từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2014. 2.2. Xác định đặc điểm hình thái và phân bố của một số loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Cao Bằng. 2.3. Xác định độc tính cấp và sự thay đổi một số chỉ tiêu về hoá sinh, huyết học, tim mạch, mô bệnh học dưới ảnh hưởng dịch chiết của 4 loài nấm độc thường gặp trên động vật. 3. Những đóng góp mới của luận án - Lần đầu tiên một nghiên cứu đánh giá được thực trạng ngộ độc nấm tại tỉnh Cao Bằng từ năm 2003 đến năm 2009 và kết quả tình hình ngộ độc nấm sau can thiệp từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2014. 2 - Xác định, mô tả được đặc điểm hình thái, phân bố của 13 loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Cao Bằng. - Xác định được độc tính cấp và sự thay đổi chỉ tiêu về hoá sinh, huyết học, tim mạch, mô bệnh học dưới ảnh hưởng dịch chiết của 4 loài nấm độc thường gặp trên động vật. Trong đó nấm ô tán trắng phiến xanh gây ra nhiều vụ ngộ độc nhất, nấm độc trắng hình nón gây tử vong, nấm xốp gây nôn chưa được nghiên cứu và nấm mực chỉ thấy mọc ở Cao Bằng chưa thấy mọc ở địa phương khác. 4. Bố cục luận án Luận án có 148 trang, bao gồm các phần: đặt vấn đề (2 trang), tổng quan (40 trang), đối tượng và phương pháp nghiên cứu (20 trang), kết quả (42 trang), bàn luận (40 trang), kết luận (3 trang), kiến nghị (1 trang). Luận án có 35 bảng, 3 biểu đồ, 54 hình ảnh, 138 tài liệu tham khảo trong đó có 19 tài liệu tiếng Việt, 119 tài liệu tiếng Anh, 61 tài liệu từ năm 2010 trở lại đây. CHƢƠNG 1- TỔNG QUAN 1.1. Khái niệm về nấm độc Nấm độc là loài nấm có chứa độc tố gây ngộ độc cho cơ thể con người và động vật khi ăn phải. Trước đây người ta xếp nấm vào giới thực vật nhưng ngày nay tách riêng thành giới nấm. Trên thế giới hiện nay có gần 140.000 loài nấm đã được xác định danh tính, trong đó có khoảng 2000 loài nấm ăn được, 700 loài có hoạt chất có thể dùng trong điều trị bệnh và rất nhiều loài nấm độc. Theo Trịnh Tam Kiệt (1996), Việt Nam có 826 loài nấm lớn được ghi nhận, trong đó có 512 loài mới được phát hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Một số loài nấm độc có trong danh mục các loài nấm này. 1.2. Phân loại nấm độc * Phân loại nấm độc theo độc tố chứa trong nấm: Nấm độc bao gồm rất nhiều loài với đặc điểm hình thái, thành phần độc tố và đặc điểm tác dụng lên cơ thể cũng rất khác nhau, vì vậy có nhiều cách phân loại nấm độc. Các nhà khoa học Mỹ (Fischer D.W., Bessette A.E.-1992, Cope R.B.-2007) đã phân loại nấm độc theo độc tố có chứa trong nấm. Theo cách phân loại này, nấm độc được chia ra làm 8 loại: Amatoxin (cyclopolypeptid), gyromitrin (monomethylhydrazin), orellanin, muscarin, ibotenic acid và muscimol, coprin, psilocybin và psilocin, độc tố gây rối loạn đường tiêu hóa. 3 1.3. Những nghiên cứu về nấm độc trên thế giới 1.3.1. Những nghiên cứu về nấm độc chứa độc tố amatoxin Các loài nấm độc chứa amatoxin gây nên 90 - 95% trường hợp tử vong do ngộ độc nấm trên thế giới , vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về các loài nấm này. Amatoxin là tên gọi chung của các loại độc tố có chứa trong nấm độc thuộc các chi Amanita, Galerina và Lepiota. Amatoxin có chứa trong toàn bộ phần thể quả của nấm (mũ, phiến, cuống) và thể sợi (rễ nấm). Amatoxin bao gồm 8 loại: α-amanitin, β-amanitin, γ-amanitin, ε- amanitin, amanullin, amanullinic acid, proamanullin, amanin và 7 loại phallotoxin: phalloidin, phalloid, prophalloin, phallisin, phallacin, phallacidin, phallisacin. Virotoxin cũng được tìm thấy trong các loài nấm này. 1.3.2. Những nghiên cứu về nấm độc chứa độc tố muscarin Nhóm nấm có chứa muscarin thường gặp ở các loài nấm thuộc chi Inocybe, Clitocybe và Omphalotus. Chi Inocybe: Inocybe patouillardi; Inocybe fastigiata (Inocybe rimosa),. ..Chi Clitocybe: Clitocybe dealbata, Clitocybe cerussata,Chi Omphalotus: Omphalotus olearius; Omphalotus illudens Tất cả các loài nấm thuộc chi Inocybe đều có độc tố. Trước đây người ta cho rằng loài nấm độc đỏ (Amanita muscaria) gây nên các triệu chứng ngộ độc muscarin. Tuy nhiên, phân tích định lượng các hoạt chất trong nấm Amanita muscaria, hàm lượng muscarin có trong nấm Amanita muscaria rất thấp (khoảng 0,0003% trọng lượng tươi) không đủ để gây ngộ độc dù ăn với khối lượng lớn. Muscarin có hàm lượng cao chủ yếu trong các loài nấm thuộc chi Inocybe và Clitocybe. 1.3.3. Những nghiên cứu về nấm độc chứa độc tố coprin Nhóm nấm độc chứa coprin đa số thuộc chi Coprinus. Một vài loài nấm có thể gây ngộ độc như: Nấm mực (Coprinus atramentarius), nấm mực nhỏ mọc cụm (Coprinus disseminatus), Coprinus micaceus, Coprinus fuscescens, Coprinus insignis.... Ngoài ra, loài nấm Clitocybe clavipes thuộc chi Clitocybe cũng gây ngộ độc tương tự như loài nấm có chứa coprin mặc dù người ta không thấy có coprin trong loài nấm này. 1.3.4. Những nghiên cứu về nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites), độc tố gây rối loạn tiêu hóa Nấm ô tán trắng phiến xanh, là loài nấm gây ra nhiều vụ ngộ độc nhất ở nhiều nước trên thế giới và một số tỉnh tại Việt Nam. Cho tới năm 2004 Kobayashi Y. và CS (Nhật Bản) mới tách chiết và tinh chế 4 từ nấm này một loại lectin là N-Glycolylneuraminic acid. Năm 2009 – 2010, Gong Q.F. và CS đã tách được 4 hợp chất từ thể sợi (rễ) của nấm này là 5,6,(22E,24R)-5α,6α-epoxyergosta-8, 22-diene-3β,7α-diol, (22E,24R)-ergosta-7,22-dien-3β-ol. Yamada M. và CS (2012), đã tách chiết được một loại protein độc và đặt tên là molybdophyllysin. Yoshikawa K. (2001), đã chiết được 2 dẫn chất steroid là (22E,24R)- 3α-ureido-ergosta-4, 6, 8 (14), 22-tetraene và (22E,24R) -5α, 8α- epidioxyergosta-6,9,22-triene-3β-ol-3-O-β-D-glucopyra-noside. 1.4. Những nghiên cứu về nấm độc ở Việt Nam 1.4.1. Những nghiên cứu về đặc điểm, phân bố, độc tính của nấm độc Các công trình nghiên cứu về nấm lớn ở Việt Nam chủ yếu của các nhà sinh học, dược học về định danh loài nấm, xác định sự phân bố ở các vùng sinh thái khác nhau và nghiên cứu nhân giống nuôi trồng các loài nấm làm thực phẩm và dược liệu. Trong “Danh lục nấm lớn của Việt Nam” (1996) của Trịnh Tam Kiệt có liệt kê tên, phân bố 826 loài nấm lớn, trong đó có tên khoảng 20 loài nấm độc. Trần Công Khánh, Phạm Hải (2004) mô tả hình thái một số loài nấm độc thường gặp. Từ năm 2007 – 2008, Hoàng Công Minh và CS đã tiến hành điều tra xác định các loài nấm thường gây ngộ độc ở tỉnh Hà Giang. Nghiên cứu đã phát hiện được 9 loài nấm độc, trong đó có 2 loài nấm thường gây ra các vụ ngộ độc. Tại Hà Giang đã phát hiện thấy loài nấm chứa amatoxin gây tử vong là nấm độc tán trắng (Amanita verna). Hoàng Công Minh (2009) đã nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết loài nấm này trên thỏ thấy AST, ALT, billirubin, urê, creatinin tăng cao, hồng cầu, huyết sắc tố giảm, thời gian máu đông, máu chảy kéo dài sau ngộ độc. CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU * 93 người bị ngộ độc nấm tại các địa phương thuộc tỉnh Cao Bằng, trong đó 81 người từ năm 2003 đến năm 2009 khi chưa có giải pháp can thiệp truyền thông và 12 người từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2014 sau khi có giải pháp can thiệp truyền thông. * Các mẫu nấm độc mọc tại một số khu vực đại diện thuộc tỉnh Cao Bằng. * Động vật thí nghiệm: + Chuột nhắt trắng dòng Swiss : 1280 con, khoẻ mạnh, trọng lượng trung bình 20 ± 2 gam (không tính số chuột nhắt trắng dùng cho thăm dò liều gây ngộ độc). Chuột nhắt trắng dùng để xác định độc tính 5 (Liều chết trung bình - LD50) và nghiên cứu mô bệnh học đối với bốn loài nấm độc. + Thỏ: 60 con, khoẻ mạnh, trọng lượng 2,0 ± 0,2 kg (không tính số thỏ dùng cho xác định định liều chết tối thiểu (LDmin). Thỏ dùng để nghiên cứu các chỉ tiêu hoá sinh và huyết học của 4 loài nấm. + Chuột cống trắng dòng Wistar: 60 con, khoẻ mạnh, trọng lượng 200 ± 20 gam (không tính số chuột cống trắng dùng để xác định liều chết tối thiểu (LDmin). Chuột cống trắng dùng để nghiên cứu về mạch, huyết áp cho 4 loài nấm. 2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.2.1. Phƣơng pháp điều tra các trƣờng hợp ngộ độc nấm độc Giai đoạn 1 từ năm 2003 đến năm 2009, điều tra ngộ độc nấm độc theo phương pháp điều tra cắt ngang, hồi cứu hồ sơ, số liệu, phỏng vấn các người ngộ độc nấm và người nhà theo mẫu phiếu thu thập thông tin tại các gia đình người bị ngộ độc nấm độc ở các địa phương thuộc tỉnh Cao Bằng. Giai đoạn 2 từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2014, điều tra ngộ độc nấm độc theo báo cáo thống kê ngộ độc nấm rừng, thực vật độc của Chi cục vệ sinh an toàn thực phẩm Sở y tế tỉnh Cao Bằng (sau can thiệp bằng giải pháp truyền thông). 2.2.2. Phƣơng pháp điều tra nấm độc Điều tra nấm độc theo mẫu phiếu điều tra tại thực địa, nơi người dân đã hái nấm về ăn và bị ngộ độc. Tại các địa phương không có vụ ngộ độc nấm, chúng tôi đến các khu vực có mọc nhiều loài nấm theo chỉ dẫn của của chính quyền, cán bộ trạm y tế và người dân trong xã. 2.2.3. Phƣơng pháp xác định loài nấm Loài nấm được xác định theo phương pháp Trịnh Tam Kiệt, Kuo M., xác định dựa theo các đặc điểm riêng về hình thái, bào tử, phản ứng với hóa chất khi đối chiếu với mẫu nấm chuẩn. Các đặc điểm cần mô tả như: mũ nấm. phiến nấm, cuống nấm 2.2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu độc tính, ảnh hƣởng dịch chiết của 4 loài nấm độc trên động vật 2.2.4.1. Phương pháp chiết mẫu nấm độc * Phương pháp chiết đối với nấm khô: + Nấm khô, cân trọng lượng, nghiền nhỏ thành bột cho vào bình. Tùy từng loại nấm mà có thể cho methanol, nước ngâm trong 24 giờ. Chiết lấy toàn bộ dung môi. Tiếp tục cho methanol, nước vào bình ngâm chiết thêm 2 lần nữa với cách làm như trên để chiết kiệt hoạt chất trong mẫu nấm. 6 + Gom tất cả dung môi vào một bình, sục khí đuổi dung môi cho bốc hơi nước để thu cặn. Cặn còn lại trong bình là tổng lượng các loại hoạt chất có trong mẫu nấm, cân trọng lượng cặn tính toán quy ra tương đương với trọng lượng nấm ban đầu. + Pha chế cặn với nước cất để tạo thành dung dịch chiết. Trước khi cho động vật uống hoặc tiêm ổ bụng, dịch chiết được đun sôi trong ống nghiệm, để nguội đảm bảo vô khuẩn. * Phương pháp chiết đối với nấm tươi: + Mẫu nấm tươi được bảo quản trong cồn 700 (cân trọng lượng nấm trước khi ngâm trong cồn). Lấy mẫu nấm từ bình ngâm cho vào cối sứ, nghiền nát thành hỗn dịch dạng huyền phù. Chắt lọc lấy hỗn dịch cho vào bình riêng. Cặn còn lại trong bình được tráng bằng một lượng nước cất nhất định sau đó cho vào cối sứ. Tiếp tục cho nước cất vào cối sứ có bã nấm và nghiền nhuyễn mẫu nấm cùng với nước, chắt lọc như trên lần 2, lần 3 để chiết kiệt hoạt chất. + Gộp toàn bộ dịch chiết, lọc qua giấy lọc để thu được dich chiết chứa hoạt chất nấm độc. Sục khí cho bốc hơi hết cồn và hơi nước để thu lấy cặn hoạt chất của dịch chiết. Cân trọng lượng cặn tính toán quy ra tương đương với trọng lượng nấm ban đầu. + Cặn của dịch chiết được pha chế để nghiên cứu trên động vật. Đảm bảo dịch chiết vô khuẩn bằng cách đun sôi để nguội trước khi tiêm hoặc cho động vật uống. 2.2.4.2. Phương pháp nghiên cứu độc tính cấp của 4 loài nấm độc trên chuột nhắt trắng * Phương pháp gây ngộ độc trên chuột nhắt trắng + Phương pháp gây ngộ độc cấp qua đường tiêu hóa: dùng dụng cụ chuyên dụng bơm dịch chiết của 4 loài nấm độc được nghiên cứu: Nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa), nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites), nấm xốp gây nôn (Russula emetica) và nấm mực (Coprinus atramentarius) vào dạ dày chuột nhắt trắng. + Phương pháp gây ngộ độc cấp qua đường tiêm ổ bụng chỉ nghiên cứu đối với loài nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa) do độc tố của loài nấm này là amatoxin hấp thu kém qua đường tiêu hóa của chuột nhắt trắng, nên ngoài đường tiêu hóa sẽ nghiên cứu thêm độc tính qua đường tiêm ổ bụng chuột nhắt trắng: * Phương pháp xác định liều chết trung bình (LD50) LD50 chuột nhắt trắng được xác định theo phương pháp Karber G 7 2.2.4.3. Phương pháp tiến hành các chỉ tiêu hóa sinh, huyết học Các chỉ tiêu hoá sinh, huyết học được nghiên cứu ở thời điểm trước và sau ngộ độc vào buổi sáng ở các ngày thứ 1, 5 và 10 sau khi gây ngộ độc. Lấy máu tĩnh mạch tai thỏ, mỗi con 2 ml vào ống nghiệm để xác định các chỉ tiêu hóa sinh, huyết học trước khi gây ngộ độc. Tiến hành gây ngộ độc thỏ ở liều bằng 2/3 liều chết tối thiểu (LDmin) ở mỗi loài nấm độc (thăm dò liều trước khi thí nghiệm). Ở liều này thỏ bị ngộ độc nhưng không bị chết để có thể theo dõi và lấy máu xét nghi ... hời điểm nghiên cứu so với trước khi bị ngộ độc nấm. Ngay ở ngày thứ 1 sau ngộ độc, hoạt độ AST huyết thanh tăng cao gấp 4 lần và ALT tăng gấp 7 lần so với trước ngộ độc. Ở ngày thứ 5 sau ngộ độc, hoạt độ AST huyết thanh tăng gấp 21 lần và ALT tăng gấp 13 lần so với trước khi ngộ độc và hoạt độ 18 AST tăng cao hơn ALT. Điều này chứng tỏ tế bào gan bị tổn thương nặng, hoại tử tế bào gan. Khi tế bào gan bị hoại tử, ty lạp thể bị phá huỷ làm cho AST từ ty lạp thể thoát ra ngoài máu cộng với AST có trong bào tương dẫn tới AST huyết thanh tăng cao hơn ALT. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các tác giả nước ngoài, rằng những bệnh nhân bị ngộ độc các loài nấm có chứa amatoxin như nấm độc tán trắng (Amanita verna), nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa), nấm độc xanh đen (Amanita phaloides) tổn thương của gan thường rất nặng với các biểu hiện hủy hoại tế bào gan, suy chức năng gan, suy giảm các yếu tố đông máu đặc biệt là yếu tố đông máu do gan tổng hợp và những yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K. Tổn thương do độc tố của nấm có thể gây hậu quả rối loạn đông máu, chảy máu, hôn mê gan, suy đa tạng. Trước đây, phần lớn các bệnh nhân bị suy gan do nấm độc đều tử vong. Về ảnh hưởng của dịch chiết nấm độc trắng hình nón lên một số chỉ tiêu đánh giá chức năng thận, kết quả nghiên cứu ở bảng 3.11 cho thấy nồng độ urê và creatinin trong máu thỏ bị ngộ độc cấp nấm độc trắng hình nón tăng cao có ý nghĩa thống kê (p<0,001) so với thời điểm trước ngộ độc ở tất cả các thời điểm nghiên cứu ngày thứ nhất, thứ 5 và ngày thứ 10 sau ngộ độc. Như vậy, độc tố của nấm độc trắng hình nón gây tổn thương tới tế bào thận. Về ảnh hưởng của dịch chiết nấm độc trắng hình nón lên nồng độ glucose: Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ glucose trong máu tăng so với thời điểm trước ngộ độc ở ngày thứ nhất và giảm ở ngày thứ 5, thứ 10 sau ngộ độc. Nồng độ glucose giảm có thể do gan bị tổn thương dẫn đến giảm tổng hợp enzym xúc tác phân giải glycogen ở gan và quá trình phân giải glucogen ở gan bị rối loạn, gan bị hoại tử làm cho nồng độ glycogen ở tế bào gan giảm, sau khi bị ngộ độc, động vật bỏ ăn nên lượng thức ăn cung cấp từ bên ngoài cho cơ thể giảm và amatoxin gây tổn thương đường tiêu hoá từ đó hạn chế hấp thu glucose. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Floersheim G.L. (1987) và Chan A.K. (2007) rằng nồng độ glucose trong 19 máu giảm trong các trường hợp ngộ độc các loài nấm có amatoxin và trong một số trường hợp glucose trong máu có thể giảm xuống rất thấp. * Về ảnh hƣởng của dịch chiết nấm độc trắng hình nón lên một số chỉ tiêu huyết học Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.13 cho thấy: Số lượng hồng cầu, nồng độ huyết sắc tố và tiểu cầu ở thỏ bị ngộ độc nấm độc trắng hình nón giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với thời điểm trước ngộ độc ở ngày thứ 5 và 10 sau ngộ độc. Một trong những đặc điểm của ngộ độc nấm độc có chứa amatoxin là xuất huyết kéo dài ở nhiều cơ quan, hệ thống. Theo Floersheim G.L. (1987) các trường hợp ngộ độc amatoxin mức độ nặng hầu hết có xuất huyết các cơ quan nội tạng. Những trường hợp giảm mạnh các yếu tố đông máu thường có tiên lượng xấu. * Về hình ảnh mô bệnh học gan, thận, lách chuột nhắt trắng bị ngộ độc dịch chiết nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa) Trên hình ảnh đại thể gan, thận, lách chuột nhắt bị ngộ độc nấm độc trắng hình nón (ảnh 3.32; 3.37; 3.44) thấy rõ các cơ quan này phù nề, có màu nâu đen, mềm nhũn và kém đàn hồi. Bằng mắt thường ta có thể thấy hình thái của các cơ quan này có những thay đổi khi so sánh với nhóm đối chứng. Về hình ảnh vi thể: + Đối với gan: hình ảnh vi thể gan chuột nhắt trắng bị ngộ độc nấm độc trắng hình nón (ảnh 3.35) thấy rõ vùng hoại tử tế bào gan với các nhân tế bào bị vỡ thành nhiều mảnh, phân nhánh, nhân tan. Xung quanh bè tế bào gan có các đám xuất huyết. Tế bào gan rất nhạy cảm với amatoxin và có thể coi gan là cơ quan đích chủ yếu đối với loại độc tố này. Khi vào cơ thể độc tố của nấm sẽ thâm nhập vào bên trong tế bào gan và gây rối loạn tổng hợp ARN thông tin dẫn tới rối loạn tổng hợp protein-enzym, kết cục làm chết tế bào. Ngoài ra, amatoxin khởi động các yếu tố kích hoạt sự chết theo chu trình của tế bào (apoptosis) tạo ra các ổ hoại tử, dưới kính hiển vi có thể thấy rõ nhân tế bào bị vỡ ra thành các mảnh, tế bào không còn 20 nhân (nhân tan). Hậu quả cuối cùng suy gan, rối loạn đông máu, xuất huyết nội tạng. Vì vậy, quan sát tổ chức gan dưới kính hiển sẽ thấy các đám xuất huyết rải rác. Kết quả nghiên cứu mô bệnh học cũng phù hợp với xét nghiệm hóa sinh máu đánh giá chức năng gan (hoạt độ enzym AST, ALT, billirubin toàn phần tăng rất cao). + Kết quả nghiên cứu mô bệnh học với thận cho thấy cầu thận ở chuột bị ngộ độc nấm độc trắng hình nón (ảnh 3.39) bị tổn thương với hình ảnh xung huyết cầu thận, giãn rộng khoang bao Bowman của cầu thận, có chỗ nhân tế bào vón cục, nhân vỡ ra thành các mảnh. Tại vùng tủy thận có các đám xuất huyết ở vùng kẽ và trong lòng các ống thận (ảnh 3.41). Trong lòng các ống thận có các trụ niệu (ảnh 3.42). Tổn thương thận thường đồng hành với tổn thương gan trong ngộ độc nấm độc có amatoxin. Thận bị tổn thương là do tác động trực tiếp của độc tố lên cầu thận, ống thận do biến chứng của suy gan. Amatoxin là loại độc tố không bị chuyển hóa trong cơ thể nên chất này được thải ra ngoài ở dạng nguyên vẹn. Trên người có 40% lượng amatoxin trong cơ thể được thải qua đường nước tiểu. Theo Puschner B. và CS (2007), trên chó có khoảng 70 – 80% amanitin được đào thải qua nước tiểu, độc tố có trong nước tiểu sẽ làm lớp biểu mô ống thận bị tổn thương bong ra kết hợp với các thành phần khác như hồng cầu, protein tạo thành các trụ niệu. Đây là nguyên nhân gây hoại tử ống thận cấp, tắc ống thận, trong khi đó nếu huyết áp bình thường, thì nước tiểu vẫn được lọc và chảy vào bao Bowman. Tuy nhiên, do các ống thận bị tắc nên nước tiểu bị ứ lại và trên kính hiển vi ta thấy hình ảnh bao Bowman giãn rộng. Hình ảnh mô bệnh học cũng phù hợp về lâm sàng ở những bệnh nhân bị ngộ độc các loài nấm có amatoxin với biểu hiện thiểu niệu hoặc vô niệu. + Đối với lách: trên hình ảnh vi thể lách chuột nhắt trắng bình thường (ảnh: 3.45) thấy rõ vùng tủy trắng bắt màu xanh thậm, vùng tủy đỏ có màu xanh đỏ. Lách ở chuột nhắt trắng bị ngộ độc nấm độc trắng hình nón (ảnh: 3.46) thấy rõ ở vùng tủy đỏ có các vùng xung huyết và các đám xuất huyết. Lách bị xung huyết là do hậu quả của tác động của độc tố lên thành các mạch máu trong lách và do hậu quả của suy gan, suy thận. 21 4.3.2. Độc tính và ảnh hƣởng của nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites) trên động vật thực nghiệm * Về độc tính của nấm ô tán trắng phiến xanh Nấm ô tán trắng phiến xanh là một trong hai loài nấm thường gây ngộ độc nhất ở tỉnh Cao Bằng. Nấm ô tán trắng phiến xanh mọc ở xã Cách Linh huyện Phục Hòa được chọn để nghiên cứu độc tính. Kết quả nghiên cứu độc tính của nấm ô tán trắng phiến xanh ở bảng 3.16 cho thấy: LD50 của nấm ô tán trắng phiến xanh đối với chuột nhắt trắng qua đường tiêu hoá là 3,718 g/kg thể trọng đối với nấm khô và 35,253 g/kg thể trọng đối với nấm tươi. Như vậy, nấm ô tán trắng phiến xanh có độc tính thấp. Theo các tài liệu nước ngoài, nấm ô tán trắng phiến xanh là loài nấm có độc tố gây tác dụng nhanh. Các triệu chứng đầu tiên xuất hiện chỉ sau khi ăn khoảng 30 phút đến 2 giờ với các biểu hiện rối loạn đường tiêu hoá (nôn mửa, đau bụng, ỉa chảy) nhưng thường không gây chết người. Một số tài liệu có trích dẫn hình ảnh lâm sàng các trường hợp ngộ độc nấm ô tán trắng phiến xanh. Tất cả các bệnh nhân ngộ đôc loài nấm này đều có nôn mửa, đau bụng, ỉa chảy, mất nước và mất điện giải ở các mức độ khác nhau. Bệnh nhân thường khỏi bệnh sau 2 - 3 ngày sau khi được bù dịch đầy đủ. 4.3.3. Độc tính và ảnh hƣởng của nấm xốp gây nôn (Russula emetica) trên động vật thực nghiệm * Về độc tính của nấm xốp gây nôn Nấm xốp gây nôn là loài nấm có mọc ở một số huyện của Cao Bằng. Loài nấm này có đặc điểm bên ngoài: Mũ nấm màu đỏ nên nhân dân ta vẫn coi loài nấm này rất độc, nguy hiểm và gây chết người. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu ở bảng 3.21 cho thấy: LD50 qua đường tiêu hoá đối với chuột nhắt trắng của nấm xốp gây nôn ở dạng khô là 4,838 g/kg trọng lượng và đối với dạng nấm tươi là 41,326 g/kg trọng lượng. Kết quả nghiên cứu trên chứng tỏ rằng nấm xốp gây nôn có độc tính thấp. Các tài liệu ở nước ngoài cũng khẳng định loài nấm này chỉ gây rối loạn tiêu hóa (nôn, buồn nôn, đau bụng, ỉa chảy,....), đặc biệt là 22 triệu chứng nôn dữ dội sau ăn nấm vì vậy loài này có tên là nấm xốp gây nôn. Hiện nay độc tố của loài nấm này vẫn chưa rõ. 4.3.4. Độc tính và ảnh hƣởng của nấm mực (Coprinus atramentarius) trên động vật thực nghiệm * Về độc tính của nấm mực Nấm mực là một loài nấm độc có điều kiện, tức là nấm chỉ có tác dụng gây độc khi ăn nấm kèm theo uống rượu hoặc bệnh nhân uống rượu sau khi ăn nấm. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.26 cho thấy LD50 của nấm mực (dạng khô) qua đường tiêu hoá đối với chuột nhắt trắng là: 2,976 g /kg trọng lượng khi cho uống kèm với 5 ml rượu nồng độ 40 0/kg trọng lượng (tương ứng với 0,1 ml rượu nồng độ 400/con). Nấm mực là loài nấm có chứa coprin. Độc tính của loài nấm này được giải thích theo cơ chế sau: coprin trong cơ thể được chuyển hoá thành 1- aminocyclopropanol. Chất này ức chế enzym aldehyd dehydrogenase (ALDH) làm cho acetaldehyd không chuyển hoá thành acetic acid và acetic acid không đi vào chu trình Krebs không phân hủy thành CO2 và nước, dẫn đến tích tụ acetaldehyd trong cơ thể gây ra ngộ độc. Như vậy, bản chất của ngộ độc coprin là ngộ độc acetaldehyd, một sản phẩm trung gian trong quá trình chuyển hoá rượu. Vì vậy, chỉ những người uống rượu kèm ăn nấm mực có chứa coprin mới bị ngộ độc. Thông thường enzym ALDH bị ức chế trong vòng 5 - 7 ngày sau ăn nấm. Trong thời gian này nếu như bệnh nhân vẫn tiếp tục uống rượu thì triệu chứng ngộ độc sẽ lại xuất hiện. KẾT LUẬN 1. Thực trạng ngộ độc nấm độc tại tỉnh Cao Bằng giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2009 và từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2014 + Giai đoạn chưa có giải pháp can thiệp truyền thông (2003 – 2009), tại Cao Bằng đã xảy ra 29 vụ ngộ độc nấm độc, 81 người mắc và 17 người tử vong (21,0%). Sau triển khai giải pháp can thiệp truyền thông 23 (từ 2010 đến tháng 6 năm 2014) các vụ ngộ độc nấm đã giảm còn 6 vụ với 12 người ngộ độc và 01 người tử vong (2,4%). + Nấm gây ngộ độc nhiều nhất là nấm ô tán trắng phiến xanh: 18 vụ, 39 người mắc, không gây tử vong. Nấm gây tử vong là nấm độc tán trắng (16 người) và nấm độc trắng hình nón (01 người). 2. Đặc điểm hình thái và phân bố của một số loài nấm độc thƣờng gặp tại tỉnh Cao Bằng + Nghiên cứu đã phát hiện, mô tả đặc điểm hình thái của 13 loài nấm độc của 11 trong số 12 huyện của tỉnh Cao Bằng, trong đó đã ghiên cứu đã xác định được 4 loài nấm độc thường gây ra ngộ độc tại tỉnh Cao Bằng: Nấm độc tán trắng (Amanita verna). Nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa). Nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites). Nấm mũ khía nâu xám (Inocybe fastigiata). 3. Độc tính cấp, sự thay đổi một số chỉ tiêu hoá sinh, huyết học, tim mạch, mô bệnh học của dịch chiết 4 loài nấm độc thƣờng gặp trên động vật * Nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa): + LD50 chuột nhắt trắng: - Đường tiêm ổ bụng: 0,322 g/kg (nấm khô), 3,270 g/kg (nấm tươi). - Đường tiêu hoá: 3,896 g/kg (nấm khô), 28,632 g/kg (nấm tươi). + AST, ALT, GGT, bilirubin, urê, creatinin huyết thanh thỏ tăng cao trong toàn bộ thời gian theo dõi. Glucose tăng ở ngày thứ 1 và giảm ở ngày thứ 5, 10 sau ngộ độc (p<0,001). Hồng cầu, tiểu cầu, huyết sắc tố giảm ở ngày thứ 5 và 10, số lượng bạch cầu tăng ở ngày thứ 1, thứ 5 sau ngộ độc (p<0,05). + Mạch tăng, huyết áp giảm ở 24 giờ sau ngộ độc (p<0,01). + Hình ảnh mô bệnh học gan, thận, lách chuột nhắt trắng: - Đại thể: Gan, thận, lách có màu nâu đen, mềm nhẽo, độ đàn hồi giảm. - Vi thể: Gan chảy máu, ổ hoại tử tế bào. Thận xung huyết, khoang bao Bowman giãn rộng. Lách xung huyết vùng tủy đỏ. 24 * Nấm ô tán trắng phiến xanh (Chlorophyllum molybdites): + LD50 chuột nhắt trắng qua đường tiêu hoá: 3,718 g/kg (nấm khô), 35,253 g/kg (nấm tươi). + ALT tăng ở ngày thứ 1 sau ngộ độc (p<0,001). + Hồng cầu, huyết sắc tố, bạch cầu và tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng ở ngày thứ 1 (p<0,05). * Nấm xốp gây nôn (Rusulla emetica): + LD50 chuột nhắt trắng qua đường tiêu hoá: 4,838 g/kg (nấm khô), 41,326 g/kg (nấm tươi). + ALT, GGT tăng. glucose giảm ở ngày thứ 1 sau ngộ độc (p<0,05). + Hồng cầu, bạch cầu, huyết sắc tố, tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng ở ngày thứ 1 (p<0,05). * Nấm mực (Coprinus atramentarius): LD50 chuột nhắt trắng qua đường tiêu hoá: 2,976 g/kg (nấm khô), 34,248 g/kg (nấm tươi) cho uống kèm 5 ml rượu 400/kg. AST, ALT tăng cao ở ngày thứ 1, thứ 5, riêng ALT tăng đến ngày thứ 10 ở nhóm thỏ uống dịch chiết nấm mực + rượu (p<0,05). GGT tăng cao, glucose giảm ở ngày thứ 1 sau ngộ độc (p<0,05). KIẾN NGHỊ Tập huấn cho cán bộ y tế về nhận dạng các loài nấm độc, chẩn đoán, xử trí cấp cứu ngộ độc nấm độc. Xây dựng mẫu tranh tuyên truyền, tờ rơi, băng hình về hình ảnh các loài nấm độc thường gây ngộ độc tại tỉnh Cao Bằng. Tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng dân cư, trường học về sự nguy hiểm của ăn nấm độc hái ở rừng. Sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng như: Đài phát thanh, truyền hình, báo địa phương, internet, tranh tuyên truyền, tờ rơi.... để tuyên truyền phòng chống ngộ độc nấm độc. 25 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Nguyễn Tiến Dũng, Phạm Duệ, Hoàng Công Minh (2011), “Nghiên cứu tình hình ngộ độc nấm tại Cao Bằng trong 7 năm (2003 - 2009)”, Tạp chí Y Dược học Quân sự , 36 (9), tr .115-119. 2. Nguyễn Tiến Dũng, Phạm Duệ, Hoàng Công Minh (2013), “Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết nấm độc trắng hình nón (Amanita virosa) lên một số chỉ tiêu huyết học và tim mạch trên động vật thực nghiệm”, Tạp chí Y Dược học Quân sự, 38(2), tr. 15-19. 3. Nguyễn Tiến Dũng, Phạm Duệ, Hoàng Công Minh (2014), “Nghiên cứu đặc điểm nhận dạng và sự phân bố các loài nấm độc tại tỉnh Cao Bằng”, Tạp chí Y Dược học Quân sự, 39(1), tr.17-22. 4. Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Kim Sơn, Hoàng Công Minh (2014), “Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết nấm mực (Coprinus atramentarius) lên một số chỉ tiêu hóa sinh trên thỏ”, Tạp chí Y học thực hành, 919(5), tr. 92-95. 5. Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Kim Sơn, Hoàng Công Minh (2014). “Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết nấm xốp gây nôn (Russula emetica) lên một số chỉ tiêu hóa sinh, huyết học và tim mạch trên động vật”, Tạp chí Y Dược học Quân sự, 39(6), tr. 72-77.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_thuc_trang_ngo_doc_nam_dac_diem_s.pdf